Theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có 8 khu công nghiệp được ưu tiên thành lập đến năm 2015 là các khu Tân Phú, ông Kèo, Bàu Xéo, Lộc An-Bình Sơn, Long Đức, Long Khánh, Giang Điền, Dầu Giây, với tổng diện tích quy hoạch là 2,910 ha, trong đó các KCN Tân Phú, ông Kèo và Long Đức đã được Bộ Xây dựng thoả thuận về quy hoạch chi tiết. Hai KCN Sông Mây, Định Quán đã được thủ tướng Chính phủ cho phép mở rộng giai đoạn 2.
Trong năm 2006, tình hình xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (KCN) trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã có những chuyển biến tích cực trên mọi mặt.
Khu công nghiệp Bàu Xéo là KCN mới nhất được Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập với tổng diện tích 502 ha trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (Quyết định số 1944/TTg-CN ngày 24/11/2006), nâng tổng số KCN trên địa bàn tỉnh tính đến hết tháng 12/2006 là 22 với tổng diện tích 6.420 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê là hơn 4.400 ha. Không tính KCN Bàu Xéo, 21 KCN còn lại đến hết tháng 12/2006 đã cho thuê được 2.391 ha bằng 59% tổng diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê.
Việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh được thực hiện không đồng đều. Một số KCN đã hoàn thành các hạng mục đầu tư theo Quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt như khu công nghiệp KCN Biên Hoà 1, 2, Loteco và KCN Amata (giai đoạn 1) đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Các KCN Tam Phước, Long Thành, Xuân Lộc, Nhơn Trạch II, Nhơn Trach III (giai đoạn 2), Nhơn Trạch V, Dệt May Nhơn Trạch, Định Quán đang tích cực hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật của khu công nghiệp. Một số KCN như Hố Nai và Sông Mây còn gặp một số khó khăn trong khâu đền bù giải phóng mặt bằng. Các khu công nghiệp Thạnh Phú, Nhơn Trạch II-Lộc Khang, Nhơn Trạch II-Nhơn Phú, Nhơn Trạch VI do thời gian thành lập chưa lâu hiện mới đang triển khai xây dựng các hạng mục thiết yếu như đền bù, san lấp mặt bằng, đường giao thông nội khu, hệ thống điện, và nước.
Để thực hiện yêu cầu bảo vệ môi trường, một số KCN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Trong số 21 KCN được thành lập, có 7 KCN đã xây dựng xong nhà máy xử lý nước thải tập trung, đáp ứng nhu cầu xử lý nước thải của các doanh nghiệp KCN, đảm bảo việc xả chất thải đúng tiêu chuẩn quy định; 10 KCN đang tiến hành đang xây dựng nhà máy xử lý nước thải.
Theo Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có 8 khu công nghiệp được ưu tiên thành lập đến năm 2015 là các khu Tân Phú, ông Kèo, Bàu Xéo, Lộc An-Bình Sơn, Long Đức, Long Khánh, Giang Điền, Dầu Giây, với tổng diện tích quy hoạch là 2,910 ha, trong đó các KCN Tân Phú, ông Kèo và Long Đức đã được Bộ Xây dựng thoả thuận về quy hoạch chi tiết. Hai KCN Sông Mây, Định Quán đã được thủ tướng Chính phủ cho phép mở rộng giai đoạn 2.
Ngoài việc xây dựng và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật KCN, các Công ty phát triển hạ tầng KCN đã chú trọng tới việc xây dựng nhà ở và các tiện ích công cộng khác phục vụ doanh nghiệp và người lao động trong các KCN. Tại KCN AMATA đang triển khai xây dựng khu Trung tâm thương mại. Công ty phát triển KCN Biên Hoà (Sonadezi) đang đầu tư xây dựng Trường Cao đẳng công nghệ và quản trị Sonadezi nhằm cung cấp nguồn lao động có trình độ kỹ thuật cho các doanh nghiệp KCN. KCN Nhơn Trạch và KCN Long Thành đã hoàn thành việc xây dựng khu nhà ở cho công nhân. KCN AMATA, LOTECO và Biên Hoà II chủ động xây dựng các nhà xưởng, kho bãi cho các doanh nghiệp KCN mới thuê lại, góp phần đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà xưởng và đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp KCN.
Cùng với sự khởi sắc trở lại của đầu tư trực tiếp nước ngoài, tình hình thu hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh Đồng nai trong năm 2006 cũng đạt được kết quả khích lệ,
Tính chung trong năm 2006, các KCN trên địa bàn đã thu hút được 81 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 398,5 triệu đô la Mỹ. Ban quản lý các khu công nghiệp Đồng Nai trong năm đã điều chỉnh Giấy phép đầu tư cho 235 dự án, trong đó có 117 lượt tăng vốn đầu tư với tổng vốn là 599 triệu đô la Mỹ. Như vậy, tính tổng các dự án đầu tư mới và tăng vốn, tổng vốn đầu tư trong năm 2006 đạt gần 1 tỷ đô la Mỹ, đứng thứ 2 trên cả nước xét về vốn đầu tư thu hút vào các KCN vượt kế hoạch năm 2006 đề ra và tăng 43% về vốn đầu tư thu hút so với năm 2005.
Tổng số dự án đầu tư luỹ kế đến hết tháng 12/2006 trong các KCN Đồng Nai là 840 dự án; tổng vốn đầu tư đăng ký là 8,6 tỷ đô la Mỹ đứng thứ 3 cả nước xét về vốn đầu tư đăng ký đầu tư chỉ sau Thành phố HCM và Hà Nội. Như vậy, vốn đầu tư đăng ký trung bình một dự án đầu tư vào KCN Đồng Nai là tương đối cao đạt hơn 10 triệu đô la Mỹ. Trong tổng số các dự án đầu tư có 598 dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký là 7,2 tỷ đô la Mỹ (chiếm 72% tổng số dự án và 83,7% tổng vốn đầu tư trên địa bàn) đến từ 31 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tỷ lệ các dự án đầu tư đã đăng ký triển khai thực hiện cũng khả quan đạt 78%. Trong số 840 dự án đăng ký, 596 dự án đầu tư đang hoạt động sản xuất kinh doanh, 58 dự án đang xây dựng và 186 dự án chưa triển khai.
Trong năm 2006, các KCN Đồng Nai đã cho thuê được 226 ha diện tích đất công nghiệp, vượt 13% so với kế hoạch đề ra. Một số KCN trên địa bàn về cơ bản đã thu hút các dự án đầu tư lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê như KCN Biên Hoà 1, 2 (100%), Nhơn Trạch III (100%), Bàu Xéo (90%), Gò Dầu (95%), Loteco (85%), Nhơn Trạch I (83%), Hố Nai (73%). Các KCN được thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, được đầu tư bằng ngân sách địa phương cũng thu hút đầu tư khả quan như KCN Định Quán (100%). Tuy nhiên vẫn còn một số KCN kết quả thu hút đầu tư chưa đạt yêu cầu như KCN Dệt May Nhơn Trạch (33%), Long Thành (29%), Nhơn Trạch V (11%).
Các doanh nghiệp KCN đã đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế chung của địa phương. Số liệu luỹ kế từ đầu năm đến tháng 11/2006 cho thấy, kim ngạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN đã đạt hơn 5 tỷ đô la Mỹ; doanh thu đạt hơn 4,4 tỷ đô la Mỹ, đóng góp vào ngân sách nhà nước 135 triệu đô la Mỹ. Các KCN đã thu hút khoảng 270,000 lao động, trong đó có hơn 3,000 chuyên gia và lao động người nước ngoài.
Việc phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua cho thấy một số ưu điểm sau:
Thứ nhất, Về công tác quy hoạch, việc hình thành và xây dựng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và quy hoạch ngành; có tính đến mối quan hệ phát triển liên vùng của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Thứ hai, Việc quy hoạch ngành nghề thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp đã được chú trọng. Các dự án đầu tư có khả năng gây ô nhiễm cao như dệt nhuộm, sản xuất thép… được định hướng đầu tư vào các KCN tại huyện Nhơn Trạch. Tại các KCN này các quy định về bảo vệ môi trường, xử lý chất thải đã được chú trọng thực hiện theo đúng quy định của Luật bảo vệ mội trường, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường tại khu vực. Các dự án công nghệ cao và sạch được bố trí tập trung tại các khu công nghiệp AMATA, LOTECO tại thành phố Biên Hoà nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tới khu vực đông dân cư.
Thứ ba, Việc xây dựng các đô thị và khu dân cư được quy hoạch cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp nhằm hình thành các đô thị công nghiệp vệ tinh giải quyết nhu cầu nhà ở và các tiện ích công cộng cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống của người lao động trong các KCN. Ngoài một số khu dân cư đô thị được đầu tư theo quy hoạch chung của tỉnh, các doanh nghiệp cũng chủ động đề nghị địa phương bố trí đất đai để xây dựng nhà ở cho công nhân như Công ty Tae Kwang Vina, Poucheng…góp phần giảm gánh nặng về nhà ở tại khu vực.
Thứ tư, tỉnh Đồng Nai đã tận dụng được lợi thế thuận lợi về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng, thị trường để xúc tiến, vận động thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp. Vì vậy, trong các năm vừa qua, tỉnh Đồng Nai luôn là một trong các địa phương dẫn đầu trên cả nước trong việc thu hút các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu như năm 1995 các KCN trên địa bàn mới thu hút được 95 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư 468 triệu đô la Mỹ thì đến năm 2006 đã thu hút được 840 dự án; tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 8,6 tỷ đô la Mỹ, đứng thứ 3 trên cả nước xét trên vốn đầu tư.
Thứ năm, Công tác dịch vụ “một cửa, tại chỗ” được thực hiện triệt để. Ban quản lý các KCN Đồng Nai là một trong số ít Ban quản lý KCN thực hiện tốt dịch vụ này. Các nhà đầu tư đến tìm hiểu môi trường đầu tư đều được hướng dẫn cụ thể, tận tình về các quy định, trình tự thủ tục đầu tư để giúp nhà đầu tư cụ thể hoá các ý định đầu tư của mình. Việc phối hợp giải quyết kiến nghị của doanh nghiệp giữa các phòng, ban chuyên môn của Ban quản lý với các Sở, ban ngành liên quan của tỉnh được thực hiện tốt, giải quyết kịp thời thắc mắc, kiến nghị của các nhà đầu tư. Các kiến nghị của nhà đầu tư vượt quá thẩm quyền được Ban quản lý KCN đề xuất kịp thời lên cấp có thẩm quyền để được hướng dẫn hoặc sửa đổi các quy định hiện hành phù hợp với tình hình phát triển thực tế. Rất nhiều quy định, chính sách mới về đầu tư đã được bổ sung, sửa đổi xuất phát từ những kiến nghị thực tế phát sinh trong quá trình quản lý hoạt động của các doanh nghiệp KCN trên địa bàn tỉnh.
Thứ sáu, Công tác xúc tiến đầu tư đã được chú trọng, góp phần thu hút các dự án đầu tư có hiệu quả cao vào các KCN của tỉnh. Hàng năm, ngoài các chương trình xúc tiến đầu tư riêng do Lãnh đạo tỉnh và Ban quản lý tổ chức xúc tiến đầu tư tại các quốc gia triển vọng thu hút đầu tư như Nhật Bản, Mỹ… Lãnh đạo tỉnh và Ban quản lý KCN chủ động tham gia các chương trình xúc tiến do các Bộ, ngành tổ chức để kêu gọi đầu tư vào các KCN địa bàn Đồng Nai. Trang web của Ban quản lý KCN được cập nhật thường xuyên các thông tin, hướng dẫn về các quy định mới của nhà nước liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp KCN, giải quyết bước đầu nhu cầu cập nhật thông tin của các doanh nghiệp, góp phần xây dựng niềm tin của các doanh nghiệp vào môi trường đầu tư trên địa bàn.
Mặc dù, tình hình thu hút đầu tư vào các KCN Đồng Nai đã thực sự khởi sắc trở lại năm 2006 sau một số năm suy giảm, tuy nhiên, việc phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua cũng bộc lộ một số vấn đề tồn tại như sau
Thứ nhất, Việc quy hoạch phát triển các KCN chưa thực sự hợp lý, chưa tính tới khả năng thu hút đầu tư và dự báo xu hướng đầu tư trên các địa bàn thuộc tỉnh. Các KCN tập trung quá đông tại một số địa bàn như thành phố Biên Hoà, huyện Long Thành và Nhơn Trạch, dẫn tới tình trạng quá tải nhu cầu về lao động, nhà ở và dịch vụ cho người lao động. Trong khi một số huyện có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn cần được chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp như huyện Tân Phú, Định Quán, Vĩnh Cửu nhưng chưa thực sự được chú trọng phát triển các KCN.
Tính bình quân tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đạt 59%. Nếu so sánh với các địa phương khác, thì kết quả đó là khả quan. Tuy nhiên các KCN có tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp giữa các KCN là không đồng đều. Một số KCN có tỷ lệ đầy đất công nghiệp tốt như KCN như KCN Biên Hoà 1, 2 (100%), Nhơn Trạch III (100%), Bàu Xéo (90%), Gò Dầu (95%), Loteco (85%), Nhơn Trạch I (83%), Hố Nai (73%) trong khi đó một số KCN đã được thành lập khá lâu nhưng tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp chưa cao như KCN Dệt May Nhơn Trạch (33%), Long Thành (29%), Nhơn Trạch V (15%). Ngoài ra, một số KCN mới được thành lập năm 2006 đang trong giai đoạn xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN, tỷ lệ lấp đầy đất công nghiệp đạt thấp.
Thứ hai, Mặc dù công tác bảo vệ môi trường và xử lý nước thải đã từng bước được chú trọng, việc đôn đốc các Công ty phát triển hạ tầng KCN và doanh nghiệp KCN trên địa bàn thực hiện nghiêm túc các quy chuẩn về xử lý chất thải vẫn chưa được thực hiện triệt để, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thanh tra, kiểm tra thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp KCN vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường. Theo báo cáo của Ban quản lý các KCN Đồng Nai, trong tổng số 21 KCN đã đi vào hoạt động chỉ có 7 KCN hoàn thành xây dựng nhà máy xử lý nước thải. Nhiều doanh nghiệp trong KCN chưa tự giác thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường, chỉ thực hiện chống chế khi có các cơ quan chuyên ngành thanh tra, kiểm tra. Trong năm 2006, các đoàn thanh tra, kiểm tra môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường và Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đồng Nai đã phát hiện 94 doanh nghiệp KCN vi phạm Luật bảo vệ môi trường ở các mức độ khác nhau. Thực trạng trên dẫn tới kết quả là khu vực sông Đồng Nai và Thị Vải đã bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi chất thải từ các doanh nghiệp, ảnh hưởng tới môi trường xung quanh và nguồn nước sinh hoạt của dân cư khu vực này.
Thứ ba, Công tác đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng các khu công nghiệp còn chưa thực hiện tốt, gây ra tình trạng khiếu kiện kéo dài ở một số nơi, ảnh hưởng đến tiến độ xây dựng hạ tầng kỹ thuật các KCN và giao đất cho các doanh nghiệp KCN. Công tác bồi thường, giải toả ở các KCN Sông Mây, Tam Phước, Amata, Hố Nai, Long Thành, Nhơn Trạch-Nhơn Phú, và Nhơn Trạch VI được thực hiện chậm và chưa kiên quyết. Việc xây dựng các khu tái định cư tại các KCN Hố Nai, Amata, Sông Mây chậm tiến độ ảnh hướng đến công tác giao đất cho các nhà đầu tư.
Thứ tư, Việc xây dựng các công trình kỹ thuật ngoài hàng rào tại một số KCN vẫn chưa được thực hiện đồng bộ để kết nối với các hạng mục bên trong các KCN. Việc xây dựng các hạng mục ngoài hàng rào KCN như hạ tầng giao thông, thoát nước tại KCN Hố Nai và một số KCN tại huyện Nhơn Trạch chưa theo kịp tiến độ xây dựng các công trình bên trong KCN là một bất cập, ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư vào các doanh nghiệp này.
Để thực hiện tốt kế hoạch năm 2007 đề ra là thu hút mới 450 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng 900 triệu đô la Mỹ và cho thuê 200 ha đất công nghiệp, tạo việc làm cho 40 nghìn lao động, công tác quản khu công nghiệp cần chú trọng vào một số công tác sau:
Thứ nhất, Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng kỹ thuật các KCN đã được thành lập, kịp thời giao đất cho các doanh nghiệp KCN đã đăng ký đầu tư. Để làm tốt công tác này cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các Sở, ban, ngành và Ban quản lý KCN tỉnh để tháo gỡ các khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường và xây dựng các khu tái định cư; đẩy nhanh tiến độ các hạng mục ngoài hàng rào KCN kết nối đồng bộ với hạ tầng bên trong KCN.
Thứ hai, Nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư. Để thu hút được các dự án đầu tư có vốn đầu tư lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao, cần có các chương trình xúc tiến theo mục tiêu tập trung tại các quốc gia có tiềm năng như Nhật Bản, Mỹ và Châu Âu. Song song với công tác xúc tiến đầu tư, công tác quảng bá đầu tư thông qua các hình thức hội thảo, hội nghị cũng cần được chú trọng. Công tác xúc tiến đầu tư cần định hướng và ưu tiên tập trung vào các KCN đã được thành lập nhưng có tỷ lệ lấp đầy chưa cao.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra các KCN. Công tác thanh tra, kiểm tra được Chính phủ xác định là một nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2007, vì vậy, Ban quản lý và các Sở, ban ngành của tỉnh cần chủ động phối hợp với các Bộ chuyên ngành tiến hành thanh tra, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp KCN, trong đó tập trung vào các vấn đề nổi cộm trong thời gian qua như việc thực hiện công tác quy hoạch KCN, chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường và các quy định đối với người lao động.
Thứ tư, Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao việc thực hiện dịch vụ “một cửa, tại chỗ”. Luật đầu tư năm 2005 có hiệu lực thi hành từ tháng 7/2006 đã phân cấp toàn diện tới địa phương trong việc quản lý hoạt động của các dự án đầu tư. Để hoàn thành một khối lượng công việc lớn như vậy, Ban quản lý KCN cần sớm kiện toàn bộ máy tổ chức, giải quyết các kiến nghị của các nhà đầu tư theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính. Trong quá trình quản lý hoạt động của các dự án đầu tư, những kiến nghị vượt quá thẩm quyền cần được kịp thời phán ánh tới các cấp có thẩm quyền để được hướng dẫn, sớm giải quyết kiến nghị của doanh nghiệp, tạo niềm tin của các nhà đầu tư vào môi trường đầu tư chung.
Trần Duy Đông
(Nguồn: Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam)
|