Qua 15 năm hình thành và hoạt động, TP. Hồ Chí Minh đã có 15 KCN, KCX thu hút được 1.083 dự án, tổng vốn đầu tư là 3,2 tỷ USD với 828 doanh nghiệp đã đi vào hoạt động sản xuất, giải quyết trên 190.000 lao động, kim ngạch xuất khẩu do các doanh nghiệp tạo ra đạt trên 8 tỷ USD; riêng trong năm 2005 đạt gần 2 tỷ USD.
Hiện tại đã có 11 khu đã cho thuê hết đất hoặc cơ bản lấp đầy khoảng 80 – 90%; tỷ lệ lấp đầy bình quân của các KCN, KCX TP là 81,97% . Việc quy hoạch phát triển các KCN, KCX ban đầu đã góp phần hình thành một hệ thống các KCN, KCX thu hút đầu tư, thực hiện chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế và xác lập cơ chế hoạt động (nước ngoài với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh; trong nước bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần…). và đã đạt được những thành tựu quan trọng:
Sự hình thành và phát triển KCN, KCX tạo động lực phát triển sản xuất công nghiệp, hình thành một lực lượng sản xuất mới có yếu tố tiên tiến đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1991, 1992, KCX Tân Thuận, KCX Linh Trung được thành lập. Từ năm 1996 đến 1998 lần lượt 9 KCN được hình thành tại các vùng ven thành phố. Điều này đã góp phần làm thay đổi diện mạo của thành phố, từ những vùng đất nông nghiệp hiệu quả kinh tế thấp tại các khu vực huyện Nhà Bè, Thủ Đức, Bình Chánh, Củ Chi nay đã trở thành những khu tập trung sản xuất công nghiệp với hiệu quả kinh tế tăng cao gấp nhiều lần. Mô hình kinh tế này đã mang lại hiệu quả tích cực về kinh tế và xã hội, chứng tỏ sức hấp dẫn của mình trong thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, tăng kim ngạch xuất khẩu, giải quyết việc làm, thúc đẩy nhanh quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa Thành phố.
Giá trị sản xuất công nghiệp thành phố liên tục tăng cao, giai đoạn 1995 – 2000 là 770 ngàn tỉ đồng, giai đoạn 2001 – 2005 tăng gấp đôi; tốc độ tăng trưởng bình quân 14% năm, trong đó các KCN, KCX chiếm trên 20%. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, KCX đã tạo ra giá trị kim ngạch xuất khẩu ngày càng chiếm tỉ lệ cao trong kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố (năm 1996 chiếm 21%, năm 2000 chiếm 59%, năm 2005 chiếm 64,9%). Thu Ngân sách tăng qua các năm, năm 2005 đạt là 530 tỷ đồng tăng 74,78% so với năm 2004; đồng thời thúc đẩy các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, ăn uống, đi lại, thương nghiệp … phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp và người lao động phát triển, tạo sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế của thành phố.
Hoạt động của các KCN, KCX TP cùng với việc quản lý nó trong thực tiễn đã xác lập được cơ chế hoạt động của các thành phần kinh tế và quan trọng hơn là cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” vừa tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, vừa góp phần nhanh chóng giải quyết khó khăn cho nhà đầu tư, đóng góp vào công cuộc cải cách hành chính của nhà nước trong quản lý các mặt của đời sống xã hội.
Bên cạnh các thành tựu đạt được như đã nêu trên, quá trình phát triển các KCN, KCX và quản lý sự phát triển đó trong thực tiễn cũng đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Đó là:
- Kết nối hạ tầng trong và ngoài tường rào còn chậm, việc quy hoạch chưa tính đầy đủ các yếu tố xã hội như xây dựng nhà ở công nhân, các trung tâm sinh hoạt văn hoá thể thao cho công nhân, chưa hình thành nhanh các khu dịch vụ phụ cận, điều kiện ăn ở của công nhân khu nhà trọ còn chật hẹp, ô nhiễm môi trường chưa được khắc phục, v.v…
- Các doanh nghiệp vào đầu tư đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngành nghề tổng hợp chưa đảm bảo cơ cấu tỉ lệ hợp lý, thâm dụng nhiều lao động.
- Công tác tạo quỹ đất phục vụ nhà đầu tư còn chậm, nhiều dự án vướng mắc khâu đền bù giải tỏa, ảnh hưởng đến việc thu hút các dự án có quy mô lớn.
- Thực trạng nguồn nhân lực chưa được đào tạo chuyên môn kịp thời, chưa được trang bị đầy đủ các kiến thức nên chưa mang tính bền vững.
Nguyên nhân chung là việc quy hoạch các KCN, KCX chưa tập trung, hợp lý, đồng bộ và chưa mang tính tổng thể, toàn diện. Bên cạnh đó, việc quản lý nhà nước còn hạn chế, quá chú trọng yếu tố thu hút đầu tư, sớm lắp đầy KCN mà không điều chỉnh định hướng ngành nghề để phát huy vai trò trọng tâm kinh tế của Thành phố. Việc đầu tư của Nhà nước về xây dựng hạ tầng ngoài tường rào, giải phóng mặt bằng, xây dựng các phúc lợi cho người lao động chưa tập trung đúng mức.
Trước tình hình đó, Thành phố đã triển khai những giải pháp quy hoạch phát triển KCN, KCX đến năm 2010.
Quy hoạch lại và điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp với tình hình phát triển là cần thiết, trong đó gồm cả việc quy hoạch các CCN:
1. Quy hoạch phát triển công nghiệp Tp. Hồ Chí Minh đến năm 2010, có tính đến năm 2020, theo đó: Tổng nhu cầu đất dành cho phát triển công nghiệp đến 2020 là 14.900 ha, gồm: Diện tích đất dành cho các KCN, KCX tập trung: 7.000 ha; các CCN - TTCN: 1.900 ha; kho bãi: 4.000 ha; các công trình kỹ thuật điện, nước: 2.000 ha. Các ngành công nghiệp trọng yếu sẽ được ưu tiên phát triển trên địa bàn trong giai đoạn đến 2010 là: ưu tiên các ngành sản xuất và nội địa hóa lắp ráp ô tô; sản xuất các phương tiện vận tải thuỷ và các nhà máy vệ tinh; máy móc phục vụ nông nghiệp, công nghiệp chế biến; sản xuất máy công cụ thế hệ mới để trang bị cho nền kinh tế quốc dân; sản xuất trang thiết bị điện, cơ - điện tử, điện tử - công nghệ thông tin ưu tiên sản xuất linh kiện, phụ tùng, các sản phẩm điện tử công nghiệp, điện tử viễn thông, máy tính thương hiệu Việt, các phần mềm xuất khẩu, các dịch vụ điện tử - tin học, nghiên cứu và phát triển (R&D) và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; hóa chất ưu tiên các sản phẩm hóa dược, thảo dược và thuốc y tế, các sản phẩm hóa chất công nghiệp nhựa, cao su kỹ thuật cao cấp.
Dự kiến đến 2020, Tp. Hồ Chí Minh sẽ có 18 KCN, KCX và từ nay trở đi, không xây dựng KCN tổng hợp mà định hướng xây dựng các KCN với các chuyên ngành mũi nhọn, trọng tâm như đã nêu trên. Bên cạnh đó, Ban quản lý được giao thêm chức năng quản lý CCN theo cơ chế “một cửa, tại chỗ”, trước mắt là 14 CCN nhằm có thêm quỹ đất sẵn sàng cho nhà đầu tư.
Kết quả về chuyển dịch cơ cấu những năm gần đây ngành nghề đầu tư tại các KCN, KCX thành phố đã có bước chuyển biến: hạn chế dần các ngành thâm dụng nhiều lao động, tập trung thu hút những ngành nghề thâm dụng vốn và hàm lượng kỹ thuật, chất xám cao như điện - điện tử và cơ khí đã chiếm 30% tổng vốn vốn đầu tư. Đã xuất hiện nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực kỹ thuật cao như Công ty Renesas chuyên nghiên cứu phát triển và thiết kế bán dẫn và vi mạch, Công ty Furukawa chuyên sản xuất bộ dây điện chuyên dùng trong xe hơi, Công ty Nidec Tosok chuyên sản xuất mô tơ, trục điều kiển hộp số tự động, công ty Nissei Electric sản xuất cáp điện, điện trở công tắc, Công ty MTEX, Công ty JUKI sản xuất cơ khí chính xác... Thông qua các dự án nước ngoài đầu tư mở rộng đổi mới công nghệ sản xuất đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ trong KCN, KCX.
2. Trong quy hoạch các KCN, KCX, CCN cần lưu ý yếu tố phát triển bền vững
Đó là yếu tố đồng bộ trong xây dựng hạ tầng kỹ thuật (đường sá, mảng xanh, cung cấp điện, nước, điện thoại, Internet và các dịch vụ bưu điện, bến bãi, kho tàng ...) và hạ tầng xã hội (khu nhà ở chuyên gia, nhà lưu trú công nhân, phòng khám y tế, trung tâm sinh hoạt - văn hóa công nhân, trạm xăng, kho ngoại quan, dịch vụ ngân hàng và hệ thống ATM, khu ăn uống vui chơi giải trí thể thao, văn phòng cho thuê, khu dân cư – tiểu đô thị phụ cận...) từ đó lan tỏa thúc đẩy phát triển dịch vụ, kinh tế của vùng. Để có quy hoạch tối ưu, khi cần thiết có thể thuê chuyên gia quy hoạch nước ngoài.
3. Giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện quy hoạch trong các KCN, KCX, CCN
Giám sát về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, quy hoạch ngành nghề theo định hướng phát triển chung của thành phố có tính đến yếu tố quy hoạch vùng. Trong quy hoạch KCN, KCX, CCN phải chú trọng tính khả thi hiệu quả hoạt động của KCN, KCX và vấn đề bảo vệ môi trường.
Tiến hành rà soát bổ sung quy hoạch đối với các KCN, KCX, CCN hiện hữu cho phù hợp với tình hình phát triển thực tế của nền kinh tế. Đối với các KCN, cụm công nghiệp mới cần nghiên cứu lựa chọn phát triển mô hình KCN thích hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng ngày càng cao các nhu cầu của nhà đầu tư.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trên địa bàn thành phố trong công tác quy hoạch phát triển hạ tầng bên ngoài kết nối đến KCN, KCX. Xác định việc quy hoạch xây dựng KCN, KCX đồng bộ với hệ thống hạ tầng kỹ thuật - xã hội ngoài hàng rào KCX, KCN là tiêu chí bắt buộc khi phê duyệt các dự án KCN. Việc kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch KCN, KCX với khu đô thị, khu dân cư, dịch vụ phục vụ sẽ là nhân tố để đảm bảo cho phát triển bền vững.
4. Tiếp tục tạo điều kiện phát huy các thành phần kinh tế tăng cường cho đầu tư và bài toán về vốn đầu tư
Vốn đầu tư hạ tầng KCN sẽ được huy động từ nhiều nguồn khác nhau bằng cách xây dựng phương án kêu gọi các các nhà đầu tư có năng lực tài chính tốt, có kinh nghiệm trong việc đầu tư phát triển hạ tầng KCN, KCX, CCN (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vào đầu tư hạ tầng tại các KCN mới và CCN chưa có chủ đầu tư. Thành lập Ban quản lý dự án đầu tư phát triển hạ tầng KCN, KCX, CCN trực thuộc Ban quản lý trong việc sử dụng nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách tạo quỹ đất và xây dựng phát triển hạ tầng KCN, nhằm tạo thế chủ động trong việc lựa chọn ngành nghề kêu gọi vốn đầu tư và thực hiện các chính sách khuyến khích đầu tư vào KCN theo định hướng phát triển của thành phố. Trong điều kiện nguồn vốn ngân sách đầu tư hạ tầng bên ngoài kết nối đến hàng rào KCN, KCX có hạn, cần nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp để thu hút các nguồn vốn khác tham gia xây dựng như: BOT, đầu tư xây dựng hạ tầng để đổi lại thực hiện một dự án khác, dùng quỹ đất tạo vốn đầu tư hạ tầng, huy động vốn ứng trước của các công ty đầu tư hạ tầng KCN, KCX, CCN và khấu trừ dần vào các khoản thuế phải nộp, phí sử dụng đất...
Đối với các việc cung cấp điện nước, bưu chính viễn thông cần tiến hành xây dựng phương án thành lập các công ty dịch vụ KCN, CCN chuyên nghiệp (có sự tham gia của các đơn vị thuộc ngành điện lực, cấp nước, viễn thông ...) góp phần xác định trách nhiệm và nâng cao quyền lợi của các đơn vị liên quan trong phát triển KCN.
Xã hội hoá các dịch vụ phục vụ cho người lao động như nhà ở công nhân, trung tâm sinh hoạt công nhân; xây dựng các chính sách ưu đãi đối với các dự án hạ tầng xã hội.
5. Ban quản lý phối hợp với chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác giải tỏa đền bù, tạo quỹ đất thu hút đầu tư
Công bố công khai quy hoạch và quản lý quy hoạch, kiên quyết xử lý các trường hợp lấn chiếm, xây dựng trái phép, kịp thời ngăn chặn tình trạng đầu cơ đất quy hoạch gây khó khăn trong giải tỏa. Công khai và dân chủ trong công tác giải tỏa đền bù, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể tại địa phương trong công tác vận động quần chúng trong việc nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương giải tỏa đền bù. Đơn giản các thủ tục thành lập phê duyệt dự án, đẩy nhanh tiến độ phê duyệt giá đền bù. Xây dựng quỹ đất tái định cư trước khi tiến hành giải tỏa thu hồi đất, để tạo cuộc sống ổn định cho người dân thuộc diện di dời.
Chính quyền địa phương cần chủ động trong việc đầu tư khu tái định cư để phục vụ chung công tác giải tỏa. Nguồn vốn thực hiện các dự án này từ nguồn hỗ trợ ngân sách Nhà nước và thu hồi dần từ công ty đầu tư hạ tầng KCN.
6. Hoàn thiện cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” góp phần tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước các KCN, KCX, CCN
Văn bản số 22/TB ngày 04/02/1993 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý thông thoáng mới - cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” đối với các KCX. Đây là cơ sở tạo sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành liên quan trong công tác xây dựng và quản lý KCX và sau này được thể chế hóa, áp dụng cho các KCN với Nghị định 36/CP của Chính phủ ban hành ngày 24/04/1997 về quy chế của KCN, KCX, Khu công nghệ cao đã định hướng tổ chức hoạt động bộ máy quản lý KCN, KCX. Cơ chế quản lý “Một cửa, tại chỗ” đã có tác dụng tích cực trong việc đơn giản tối đa các thủ tục hành chánh; tiết kiệm thời gian, tiền bạc và giảm thiểu phiền hà cho nhà đầu tư; tạo điều kiện Ban quản lý tiếp cận với nền kinh tế thị trường và phương thức quản lý hiện đại tiên tiến; phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp từ trung ương đến địa phương.
Trong thời gian qua, Ban quản lý đã chủ động tiến hành xây dựng, ký kết và triển khai quy chế phối hợp hoạt động giữa Ban quản lý và các sở, ngành, quận huyện, như quy chế phối hợp với: Công an TP về công tác bảo vệ an ninh trật tự, PCCC trong các KCN, KCX; Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Tp. Hồ Chí Minh về hỗ trợ tín dụng và quản lý ngoại hối; Cục thuế TP trong công tác quản lý nhà nước về thuế – tài chính đối của doanh nghiệp tại các KCN, KCX... Thông qua các quy chế này, Ban quản lý và các cơ quan chức năng thành phố đã giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp.
Vũ Văn Hoà - Trưởng Ban quản lý các KCX & CN TP.HCM
(Nguồn: Tạp chí Khu công nghiệp Việt nam)
|