Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, các hoạt động về bảo vệ môi trường như thu gom xử lý chất thải, xử lý nước thải, tái chế phế liệu, dịch vụ môi trường tư vấn và đánh giá môi trường, sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, sản xuất thiết bị, sản phẩm môi trường… ngày càng gia tăng, vừa góp phần ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục ô nhiễm môi trường, vừa đóng góp vào giá trị sản xuất của nền kinh tế.
Công nghiệp môi trường là một ngành công nghiệp đặc thù, không chỉ đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu các ngành công nghiệp và dịch vụ, đóng góp vào sự tăng trưởng GDP của mỗi quốc gia, mà còn đóng vai trò quyết định trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp đảm bảo đáp ứng các yêu cầu bảo vệ môi trường trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ và sinh hoạt. Với sự phát triển nhanh, tạo ra nhiều thành quả của các ngành khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng trong những thập niên qua, hàng loạt công nghệ sạch, công nghệ thân thiện môi trường trong tất cả các lĩnh vực công nghiệp đã ra đời, góp phần làm giảm thiểu các tác động đến môi trường, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Quá trình thực hiện công nghiệp hóa đất nước tại Việt Nam làm cho nhu cầu và những vấn đề môi trường ngày càng gia tăng. Ngoài ra, các qui định và chính sách môi trường của Việt Nam đang dần được hoàn thiện, tạo cơ sở cho việc thúc đẩy cung cầu thị trường của ngành. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo áp lực, nhưng cũng là cơ hội cho phát triển, mở rộng thị trường và tiếp thu công nghệ mới. Áp lực xã hội trong nước và quốc tế đối với vấn đề ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu toàn cầu đang buộc các doanh nghiệp phải thay đổi hành vi sản xuất theo hướng thân thiện với môi trường.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, các hoạt động này còn manh mún, rải rác với mức độ khác nhau tại các tỉnh/thành phố, làm hạn chế việc thu thập, xử lý thông tin, nên đến nay vẫn chưa có một báo cáo đầy đủ về hiện trạng trong các lĩnh vực hoạt động bảo vệ môi trường của cả nước.
Trong khuôn khổ đề án “Điều tra hiện trạng công nghiệp môi trường, đề xuất giải pháp nhằm phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam” đoàn cán bộ đề án đã có dịp điều tra, khảo sát, tập hợp và phân tích số liệu để có thể có cái nhìn tổng thể về công nghệ xử lý chất thải của Việt Nam, cụ thểnhư sau:
- Về loại hình: Công nghệ xử lý chất thải của Việt Nam tự thiết kế và chế tạo đã tương đối đủ các loại hình có tính phổ biến để xử lý chất thải rắn, nước thải và khí thải.
- Về trình độ công nghệ: Đáp ứng tiêu chuẩn môi trường Việt Nam; đạt trình độ trung bình của thế giới, cá biệt có công nghệ xử lý rác thải đô thị Seraphin hay ASC còn có hiệu quả xử lý tốt hơn công nghệ của nước ngoài.
- Về vận hành và bảo dưỡng: Đáp ứng yêu cầu Việt Nam tự vận hành và bảo dưỡng, kể cả công nghệ của nước ngoài áp dụng ở Việt Nam.
- Về giá: Tối đa chỉ bằng từ 1/2 đến 2/3 giá công nghệ nhập ngoại.
- Về tình trạng sản xuất thiết bị, công nghệ: Còn ở tình trạng đơn chiếc, chưa có được công nghệ sản xuất chế tạo hàng loạt hay quy mô công nghiệp; phần lớn là do các viện, các trung tâm, các công ty tư vấn thiết kế chế tạo theo các hợp đồng cụ thể, chưa có các hãng sản xuất chuyên nghiệp, chưa có nhiều thương hiệu công nghệ môi trường Việt Nam.
Qua điều tra cũng có thể thấy, những trở ngại chính của việc phát triển công nghiệp môi trường là chưa hình thành thị trường công nghệ môi trường nội địa. Bởi nhu cầu thì có, nhưng để thực hiện nhu cầu cần phải có vốn. Vốn đầu tư cho lĩnh vực môi trường của nước ta còn rất hạn chế. Khả năng cung thì có, nhưng chưa có sản phẩm công nghiệp và thương hiệu để bán. Mặt khác, chưa có nhiều các nhà tư bản đầu tư sản xuất kinh doanh về thiết bị công nghệ xử lý ô nhiễm môi trường. Đội ngũ các nhà khoa học và công nghệ môi trường còn yếu và thiếu, đặc biệt là chuyên gia ở độ tuổi sung sức 30-50. Hơn nữa, chế tài chuyển giao công nghệ mới đã nghiên cứu thành công từ cá nhân hoặc đơn vị nghiên cứu, tư vấn, cho các nhà sản xuất kinh doanh công nghệ môi trường chưa hoàn thiện.
Từ kết quả điều tra trên, đề án phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam đưa ra mục tiêu phát triển ngành công nghiệp môi trường thành một ngành kinh tế mũi nhọn, nhằm cung cấp các dịch vụ, công nghệ, thiết bị môi trường, cơ bản đáp ứng nhu cầu bảo vệ môi trường trong nước; tạo bước chuyển biến, vững chắc và toàn diện trong công tác bảo vệ môi trường, từ đó chủ động hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, kiểm soát và cải thiện chất lượng môi trường; giải quyết tình trạng suy thoái môi trường.
Cụ thể, đến năm 2010, hoàn thiện qui hoạch phát triển công nghiệp môi trường; xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển ngành công nghiệp môi trường; cơ bản hình thành và bước đầu phát triển ngành công nghiệp môi trường với cơ cấu tổ chức gồm các mảng: quản lý, nghiên cứu, sản xuất và dịch vụ. Đến năm 2015, đáp ứng cơ bản nhu cầu công nghệ, thiết bị và dịch vụ bảo vệ môi trường, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên trong những lĩnh vực không đòi hỏi công nghệ cao (quản lý chất thải sinh hoạt, xử lý bụi, chất thải rắn và nước thải công nghiệp và thúc đẩy sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, tài nguyên); tiếp cận, áp dụng các công nghệ cao trong bảo vệ môi trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đẩy mạnh phát triển các doanh nghiệp công nghiệp môi trường. Đến năm 2020, ngành công nghiệp môi trường trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đáp ứng nhu cầu bảo vệ môi trường trong nước; tạo bước chuyển biến vững chắc và toàn diện trong công tác bảo vệ môi trường, cung cấp được các công nghệ thiết bị, dịch vụ ở trình độ cao so với các nước trong khu vực, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những mục tiêu như vậy, ngành công nghiệp môi trường Việt Nam cần tập trung vào một số những nhiệm vụ chủ yếu sau:
a. Kiện toàn hệ thống tổ chức và nâng cao năng lực của các cơ quan đầu mối quản lý môi trường các cấp.
b. Kiện toàn hệ thống tổ chức và nâng cao năng lực của các cơ quan nghiên cứu (nghiên cứu về công nghệ, thiết kế chế tạo thiết bị; nghiên cứu chiến lược, chính sách) phát triển ngành công nghiệp môi trường.
c. Kiện toàn hệ thống tổ chức và nâng cao năng lực của các cơ quan tư vấn, dịch vụ, chuyển giao công nghệ môi trường, thuộc các lĩnh vực:
- Dịch vụ phân tích, thử nghiệm môi trường.
- Dịch vụ tư vấn, đánh giá, thẩm định, quản lý dự án, quan trắc, cấp phép môi trường…
- Dịch vụ thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt.
- Dịch vụ thiết kế, chế tạo, xây dựng, vận hành hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp, xử lý bụi và khí thải công nghiệp.
- Dịch vụ thu gom, xử lý, chôn lấp, tái chế chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại.
- Dịch vụ tập huấn, đào tạo vận hành thiết bị, quản lý tài nguyên, môi trường, áp dụng SXSH…
d. Kiện toàn hệ thống tổ chức và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý và sử dụng tài nguyên:
- Hệ thống xử lý và cung cấp nước sạch.
- Hệ thống thu gom, tái chế các sản phẩm phụ, các sản phẩm đã qua sử dụng.
- Hệ thống cung cấp các loại thiết bị năng lượng mới, năng lượng tái tạo: trạm điện/pin mặt trời, trạm điện sức gió, thủy điện nhỏ, địa nhiệt…
- Hệ thống cung cấp các sản phẩm công nghệ và dịch vụ thân môi trường.
e. Phát triển ngành công nghiệp chế tạo thiết bị môi trường:
- Thiết kế, chế tạo thiết bị xử lý nước thải (sinh hoạt và công nghiệp).
- Thiết kế, chế tạo thiết bị xử lý khí thải (thiết bị phun sương, thu bụi túi vải, tính điện…); tiếp nhận chuyển giao, làm chủ và tiến tới chế tạo các thiết bị xử lý chất thải đòi hỏi kỹ thuật cao (như thiết bị DeSOx, DeNOx, thiết bị xử lý chất thải nguy hại…).
- Thiết kế, chế tạo thiết bị xử lý chất thải rắn sinh hoạt và công nghiệp: thu gom, vận chuyển, phân loại, lò đốt…
- Thiết kế, chế tạo thiết bị, dụng cụ lấy mẫu, bảo quản và phân tích môi trường.
g. Hoàn thiện hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về vảo vệ môi trường (văn bản hướng dẫn, các tiêu chuẩn môi trường, qui chế bảo vệ môi trường…)
h. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức và đào tạo nguồn nhân lực bảo vệ môi trường.
i. Xây dựng chiến lược, qui hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp môi trường.
(Minh Hạnh (theo tài liệu của Bộ Công Thương)-TCKHCN số tháng 3-2008) |