Tuần -13 - Ngày 05/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Điểm tin
Con đường hội nhập thế giới của khoa học Việt Nam
23/01/2009


Hai thập kỷ hội nhập với thế giới về kinh tế đã giúp cho Việt Nam phần nào thoát khỏi cảnh nghèo đói bế tắc của những năm 1980. Để trở thành một nước văn minh, Việt Nam cần hội nhập một cách toàn diện, không chỉ về kinh tế mà còn về những mặt khác, trong đó có khoa học. Việt Nam đã đạt được một số thành tích khoa học trong những thập kỷ qua, và đã có những biểu hiện tích cực trong việc hội nhập thế giới, ví dụ như việc gửi SV và NCS đi đào tạo ở các nước tiên tiến theo chương trình 322, việc thành lập Đại học quốc tế Việt-Đức, việc hình thành Quĩ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, việc Bộ KH&CN mua quyền truy cập điện tử tới hơn 2000 tạp chí quốc tế, việc trực tuyến hóa các tạp chí khoa học của Việt Nam, v.v. Tuy nhiên, nền khoa học Việt Nam còn rất nhiều vướng mắc trong quản lý, và thành tích còn rất khiêm tốn.


Quốc tế hóa khoa học

Trong báo cáo của Đại học Harvard gửi Thủ tưởng Nguyễn Tấn Dũng [1] có viết: “Sử dụng mọi thước đo khách quan, dường như nền khoa học và công nghệ của Việt Nam là một thất bại”. Theo một thống kê của GS Phạm Duy Hiển [2] dựa theo cơ sở dữ liệu ISIKOWLEDGE, tổng số bài báo khoa học công bố quốc tế của Việt Nam trong năm 2007 là 691 bài, chưa bằng 1% của Trung Quốc (81006 bài). Ngay ngành toán học của Việt Nam, được coi là ngành khoa học phát triển tốt nhất, cũng có vị trí rất khiêm tốn trên thế giới [3,4]. Nếu nhìn sang các ngành khoa học khác, ví dụ như cơ học, tình hình có vẻ còn khó khăn hơn nhiều [5]. Con đường hội nhập thế giới của khoa học Việt Nam ắt hẳn còn rất dài và có nhiều trở ngại, cần nhiều thời gian (có thể hàng chục năm hay hàng thế hệ), cần những sự thay đổi đột phá rất lớn, và phụ thuộc nhiều vào tầm nhìn và độ tâm huyết của đội ngũ lãnh đạo ở Việt Nam. Những thế hệ lãnh đạo khoa học mới phải là những trí thức đã từng làm khoa học nghiêm chỉnh thực sự, có tầm nhìn xa và đủ bản lĩnh để tạo ra những thay đổi cơ bản trong việc quản lý khoa học.
Để Việt Nam thực sự hội nhập với thế giới về khoa học, một trong những chiến lược quan trọng nhất là cần phải quốc tế hóa khoa học. Cụm từ quốc tế hóa khoa học mà tôi muốn dùng ở đây bao gồm nhiều khía cạnh, trong đó có:
- Nâng tỷ lệ đầu tư cho khoa học lên ngang tầm quốc tế
- Học tập những mô hình quản lý và phát triển khoa học đã thành công trên thế giới, xóa bỏ những cơ chế vướng mắc cản trở khoa học của Việt Nam.
- Đi theo chuẩn mực quốc tế về chất lượng của các công trình khoa học, bằng cấp khoa học, tạp chí khoa học, và sự trung thực trong khoa học.
- Đi theo chuẩn mực quốc tế về môi trường làm việc khoa học, trong đó có cả điều kiện về cơ sở vật chất, điều kiện về lương bổng, và điều kiện về tự do tư tưởng trong khoa học.
- Thu hút các nhà khoa học quốc tế (trong đó có Việt kiều) đến làm việc hay hợp tác ở Việt Nam, tăng cường tổ chức các hội nghị khoa học quốc tế ở Việt Nam, thiết lập các trung tâm khoa học quốc tế ở Việt Nam, với sự tham gia của các tổ chức quốc tế hoặc của các nước khác
- Khuyến khích các nhà khoa học Việt Nam đi hội nghị và hợp tác khoa học ở nước ngoài, và tham gia vào các hiệp hội khoa học trên thế giới.
- Cập nhật các tri thức khoa học thế giới và tìm cách ứng dụng chúng vào Việt Nam, và đóng góp các nghiên cứu của Việt Nam hoặc về Việt Nam cho thế giới.

 
- Đưa vào sử dụng những công nghệ thông tin hiện đại nhất phục vụ cho việc hợp tác, trao đổi, tìm hiểu và truyền bá thông tin và kiến thức khoa học, khuyến khích mô hình "online" (như online cooperation, online conference) trong khoa học, v.v.
Trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ muốn bình luận thêm một chút một vài điểm trong những điểm vừa nêu ở trên.
 
 
 
 
Một rồng hay mười giun?

GS Hoàng Tụy [6] và nhiều trí thức khác từng có những nhận xét rất chua xót về tình trạng kém chất lượng trong khoa học và giáo dục, bằng rởm, danh hão ở Việt Nam. Đôi khi tôi tự hỏi tình trạng đó có phải là một trong những nét đặc trưng của "người Việt Nam xấu xí" chúng ta không ? Trong văn học dân gian Việt Nam có chuyện về một ông trạng nguyên (Trạng Quỳnh) có một lần thi vẽ tranh với Sứ Tàu. Sứ Tàu còn đang mải miết vẽ chưa xong đầu của con rồng, thì Trạng Quỳnh đã dùng 10 đầu ngón tay vẽ nguyệc ngoạc ra 10 con giun. Tôi không hiểu tại sao dân gian ta lại thích câu chuyện đó đến vậy (có thể tại những lý do lịch sử), nhưng quả thực nếu cách cư xử của ông trạng Việt kia là nét đặc trưng văn hóa của người Việt thì thật đáng buồn: ông trạng Việt không có thực tài (trong hội họa), nhưng thích lươn lẹo, coi thường chuẩn mực về chất lượng, để hòng đạt một danh hão "chiến thắng Sứ Tàu".
Những xu hướng 10 giun có nguy cơ làm hại đất nước chúng ta trong mọi lĩnh vực, và chúng ta cần tìm cách rũ bỏ được cái văn hóa 10 giun đó. Trong khoa học cũng có nhiều biểu hiện của xu hướng 10 giun. Ví dụ như tình trạng "tiến sĩ giấy". Dự án "đào tạo 20 ngàn tiến sĩ trong vòng 10 năm" được Nhà nước đề xướng cách đây ít lâu, nếu không cẩn thận cũng sẽ làm sinh ra thêm hàng ngàn tiến sĩ giấy. Chi phí đào tạo một người từ trình độ đại học loại giỏi lên thành tiến sĩ theo chuẩn quốc tế có thể tính trong khoảng 100 ngàn USD Mỹ. Nếu muốn có 20 ngàn tiến sĩ theo chuẩn quốc tế thì chi phí sẽ tính bằng tiền tỷ USD, chia cho 10 năm ra được con số hàng trăm triệu USD một năm. Con số này rất lớn và không khả thi so với tổng ngân sách chi cho khoa học hiện tại (khoảng 400 triệu USD một năm). Nhưng nếu đào tạo không theo chuẩn mực quốc tế, thì kết quả sẽ là có quá nhiều tiến sĩ hữu danh vô thực, và càng nguy hiểm hơn nữa nếu như chính những tiến sĩ hữu danh vô thực này lại là những người sẽ nắm quyền lãnh đạo.
Tuy về số lượng người làm khoa học ở nước ta chưa nhiều, nhưng cái chúng ta thiếu nhất không phải là số lượng, mà là chất lượng. Theo GS Phạm Duy Hiển và TS Phạm Đức Chính [7] thì về kết quả khoa học chúng ta thua xa Thái Lan, tuy rằng nếu tính về "số người làm khoa học" thì chúng ta nhiều hơn họ những 3,3 lần (21 ngàn người so với 6400 người). Bởi vậy chúng ta cần đặt vấn đề phát triển về chất trong khoa học lên hàng đầu. Thay vì muốn có thêm 20 ngàn tiến sĩ trong vòng 10 năm, tại sao chúng ta không quyết tâm sao cho các tiến sĩ mới ở Việt Nam đều đạt chuẩn mực quốc tế và có lương tối thiểu 20 ngàn USD một năm (xứng đáng với trình độ và hiệu quả lao động của họ) ?
Để đảm bảo chất lượng quốc tế cho những tiến sĩ bảo vệ trong nước, Việt Nam cần khắt khe hơn trong các yêu cầu về khoa học, và đồng thời đầu tư nhiều tiền của hơn cho mỗi nghiên cứu sinh. Ví dụ cần quốc tế hóa các hội đồng bảo vệ luận án tiến sĩ, với ít nhất 2 thành viên là các nhà khoa học nước ngoài có uy tín, và người bảo vệ phải có ít nhất một bài báo khoa học đăng trên một tạp chí quốc tế có uy tín. (Có những tiêu chuẩn trên thế giới để giúp đánh giá thế nào là "có uy tín"). Để đạt được bằng "tiến sĩ quốc tế" như vậy ắt hẳn các nghiên cứu sinh cùng thầy hướng dẫn của họ sẽ phải chọn những đề tài khoa học nghiêm chỉnh hơn, mất nhiều thời giờ nghiên cứu hơn. Đổi lại, họ cần được cấp kinh phí tốt hơn, và những người sau khi đã có bằng tiến sĩ “tiêu chuẩn quốc tế” thì cần có mức lương xứng đáng và điều kiện làm việc thích hợp để họ có thể phát huy khả năng của họ, đem lại hiệu quả lao động cao.

Không chỉ trong việc đào tạo tiến sĩ, mà trong mọi việc khác liên quan đến khoa học, Việt Nam cũng cần đi theo chuẩn mực quốc tế về chất lượng. Ví dụ cơ chế xét duyệt phong GS hay PGS hiện tại có xu hướng chạy theo danh hão và rất hình thức, cần được thay đổi. Theo cơ chế hiện tại, một người không có trình độ khoa học nhưng muốn được phong GS hay PGS, có thể đăng mấy “công trình” không ai quan tâm đến trong một tạp chí “vườn” không có phản biện, các “công trình” đó vẫn được được hội đồng xét chức danh tính điểm cho đủ điểm về khoa học. Trong khi đó một người có trình độ và đóng góp thực sự về khoa học thì có khi lại khó được phong GS hay PGS vì không thỏa mãn một vài điều kiện hình thức. Mới đây tôi nghe nói đến dự án “Trung tâm tiến sĩ Việt Nam” mà cười ra nước mắt. Không cần phải là tiến sĩ cũng có thể nhận thấy sự phù phiếm của cái dự án “có một không hai trên thế giới” này [8]. Tôi rất e ngại là cái dự án đó cũng sẽ thành một thứ 10 giun, làm thỏa mãn danh hão của một số người nào đó và giúp một số người khác chiếm dụng một mảnh đất của Nhà nước có giá trị đến hàng trăm triệu USD. Giá như khu đất đó được dùng cho các nhu cầu thực sự của khoa học và những người làm khoa học thì có lẽ có ích hơn nhiều.
 
Học tập Senegal?

Các nhà khoa học và giảng viên đại học ở Việt Nam có lương quá thấp so với thế giới, không chỉ so với những nước hiện giàu hơn ta nhiều như Mỹ hay Thái Lan, mà ngay cả so với những nước nghèo như Senegal hay Pakistan. Theo một thống kê của Quĩ tiền tệ Quốc tế IMF, thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam, Pakistan và Senegal năm 2007 tính theo PPP (purchasing power parity - điều chỉnh theo giá cả sinh hoạt từ con số GDP) lần lượt là 2589 USD, 2594 USD và 1692 USD (xem [9]), có nghĩa là Pakistan nghèo gần như Việt Nam (và mất ổn định hơn Việt Nam) còn Senegal nghèo hơn Việt Nam. Tôi từng đi công tác tại Dakar (thủ đô của Senegal) năm 2007 và có cảm nhận rõ ràng là Dakar chưa phát triển bằng Hà Nội hay Sài gòn. Thế nhưng lương giảng viên đại học trung bình ở Dakar được khoảng 1500 USD một tháng (và các giảng viên đại học ở Senegal đã từng bãi công đòi tăng lương từ mức trung bình dưới 1000 USD lên mức như vậy). Pakistan còn trả lương cho các nhà khoa học cao hơn nữa, và họ mời nhiều nhà khoa học nước ngoài đến giảng dạy với mức lương cạnh tranh với Âu-Mỹ. Trong khi đó, lương của các giáo sư đầu ngành của Việt Nam kể cả phụ cấp cũng không quá 5-600 USD một tháng. Gần đây TP. HCM có dự án trả “mức lương đặc biệt” cho các chuyên gia Việt kiều được mời về công tác tại Viện Khoa học và Công nghệ Tính toán, nhưng cái mức đặc biệt đó cũng không quá 1000 USD một tháng, không bằng học bổng của một nghiên cứu sinh ở nước ngoài.

Lương của những người làm khoa học ở Việt Nam cũng quá thấp so với những người có trình độ tương đương làm các ngành khác. Ví dụ một chuyên viên kiểm toán làm cho một công ty kiểm toán nước ngoài ở Việt Nam có mức lương một vài nghìn USD một tháng, một kỹ sữ tin học lành nghề cũng dễ dàng có lương trên 10 triệu VND một tháng. Chẳng nhẽ một giáo sư lại không có hiệu quả lao động bằng họ ? Nếu quả thật là hiệu quả lao động của các giáo sư kém vậy, thì cái chức danh giáo sư có nghĩa lý gì ? Còn nếu như giáo sư là quan trọng, thì tại sao lại bị đối xử kém như vậy ?

Các nước khác trên thế giới khác với Việt Nam ở chỗ nào? Ở chỗ họ thực sự coi trọng chất xám, coi trọng khoa học, thể hiện cụ thể bằng việc trả lương xứng đáng cho các nhà khoa học và giảng viên đại học. Đó cũng là con đường mà Hàn Quốc đã lựa chọn từ cách đây mấy chục năm khi nước này còn nghèo. Tại sao Việt Nam không làm được như họ? Theo tôi không có nguyên nhân khách quan nào (nếu Senegal còn làm được, không có cớ gì mà Việt Nam không đủ tiền để làm), mà chỉ toàn những nguyên nhân chủ quan như: những người lãnh đạo chưa thực sự coi trọng khoa học, và chúng ta chưa đủ quyết tâm chính trị hay bản lĩnh trí thức để đấu tranh và xây dựng một chế độ đãi ngộ hợp lý hơn. Chúng ta đã nhiễm thói “ăn giả làm giả” nên sẽ khó chuyển sang chế độ “ăn thật làm thật” trong khoa học.

Hồi nhỏ, tôi có hay nghe thấy một bác thợ thủ công hàng xóm hát nghêu ngao “ít tiền thì ít thù lao, ít cơm ít gạo thì tao ít làm”. Hồi đó tôi nghĩ bác này hơi “phản động”, nhưng sau mới thấy câu hát của bác là chân lý hết sức giản dị. Nếu Nhà nước trả quá ít tiền cho các nhà khoa học, thì điều tất yếu là họ cũng ít làm. Các giảng viên đại học lương không đủ nuôi vợ con, ắt hẳn sẽ phải nghĩ nhiều việc tay trái, ít có thời giờ cho sinh viên và cho khoa học. Hậu quả là một sự giảm sút hiệu quả lao động, lãng phí chất xám rất lớn trên phạm vi toàn quốc. Cái tiền “tiết kiệm” được do trả lương ít không bù lại được cái sự lãng phí do hiệu quả lao động giảm đi có khi chỉ còn dưới 1/10 tiềm năng. Nếu nói về khía cạnh kinh tế thì việc trả lương thấp (cộng với các điều kiện làm việc kém) như hiện nay là một chính sách phản kinh tế, vô cùng lãng phí tiềm năng khoa học. Cũng chính vì chính sách đãi ngộ quá kém, nên Viện khoa học Việt Nam rất khó thu hút các nhà khoa học trẻ có triển vọng vào làm việc, như GS Ngô Việt Trung [4] hay TS Phạm Đức Chính [5] đã phản ảnh.

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân gần đây có tuyên bố Bộ sẽ thưởng 1000 USD cho mỗi bài báo khoa học đăng ở tạp chí quốc tế. Có nhiều tranh cãi xung quanh việc này [10], và chưa biết nó sẽ được thực hiện ra sao, nhưng tôi thấy đây là một cử chỉ có tính thiện chí của Bộ. Tuy nhiên đây không phải là một biện pháp đủ mạnh để kích thích nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, mà may ra chỉ phần nào làm giảm khó khăn vật chất của những người vẫn đang nghiên cứu thật sự. Công sức bỏ ra để có một bài báo khoa học quốc tế là rất lớn (trung bình phải mất hàng nghìn giờ lao động của một nhà khoa học có trình độ quốc tế, chưa kể các chi phí khác), lớn hơn rất nhiều lần so với con số 1000 USD.

Việc thay đổi cơ chế đãi ngộ trong khoa học theo tôi sẽ rất phức tạp, sẽ không tránh khỏi nhiều tranh cãi và bất bình, nhưng đó là một việc hết sức cần thiết, và nếu chúng ta có quyết tâm chính trị thì chắn chắn sẽ thực hiện được, sẽ không thiếu gì những biện pháp thực tế và khả thi.

 

 

Tự do tư tưởng

Có lần GS Hà Huy Khoái [11] phát biểu “Việt Nam chưa có khoa học xã hội”, gây ra khá nhiều phản ứng. Ở Việt Nam có nhiều giáo sư, tiến sĩ về các khoa học xã hội, mà nói là “chưa có khoa học xã hội” thì cũng hơi quá. Nhưng ngay những nhà khoa học xã hội Việt Nam cũng phải thừa nhận rằng, nếu như các ngành khoa học tự nhiên ở Việt Nam chưa đạt chuẩn mực quốc tế, thì các ngành khoa học xã hội còn yếu hơn nữa. Ngoài các khó khăn chung, thì các ngành xã hội có thêm một khó khăn nữa là phải “gò ép” các nghiên cứu sao cho phù hợp với các “tư tưởng chỉ đạo” đã được định sẵn. Một lần tình cờ trong năm 2008 tôi có gặp một lãnh đạo một viện kinh tế ở Việt Nam, và hỏi anh ta là viện có góp ý gì cho Chính phủ về những chính sách kinh tế vĩ mô chưa hợp lý (gây ra khủng hoảng tài chính đầu năm 2008) không ? Anh ta trả lời là “có biết là sai, nhưng không dám góp ý”. Trong việc Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội, có một số nhà khoa học về kinh tế và địa lý nhận thấy những sự bất hợp lý, nhưng cũng không ai dám làm một bài phân tích nào trái ngược với đường lối đã định.

Trong lịch sử thế giới không thiếu những ví dụ về việc “tư tưởng định sẵn” (prejudice) cản trở khoa học phát triển. Nhà thờ thiên chúa giáo đã từng cho Giordano Bruno lên giàn thiêu vì những lý thuyết thiên văn học “tà đạo”, Liên Xô đã từng tiêu diệt bộ môn di truyền học vì coi môn đó là “phản động”. Ngày nay, ở các nước tiên tiến, không ai ngăn cản các nhà khoa học hay trí thức tự do suy nghĩ theo hướng của họ, và họ có thể lên tiếng phê phán bất cứ ai. Ví dụ như GS người Mỹ Joseph Stiglitz, giải Nobel về kinh tế 2001, là người thường xuyên phê phán các chính sách của Chính phủ Mỹ, và nước Mỹ và thế giới biết ơn ông ta đã làm như vậy. Việt Nam cũng cần phải tiến tới chuẩn mực tự do tư tưởng như vậy, nếu muốn phát triển một nền khoa học đạt tầm thế giới.

 

Đầu tư cho khoa học

Tôi có lần tình cờ đọc được câu thơ không biết của ai: “Bắc thang lên hỏi ông Giời, tiền cho khoa học có đòi được không ?” Nó phản ảnh một hiện thực đáng buồn, là quá nhiều đề tài khoa học ở Việt Nam không nghiêm chỉnh, không ra kết quả mới gì, nghiệm thu xong là “cất đi”. Tôi quen một người có lần phải đi nghiệm thu một số đề tài trong một ngành ứng dụng. Người này mang về cho vợ (không cùng chuyên môn) nghiệm thu. Vợ hỏi làm sao đánh giá được thì chồng trả lời “cứ điền đại vào, vì cái nào cũng giống cái nào thôi mà, xong rồi xếp xó mà”.
Tiền đầu tư cho khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện ở mức hơn 400 triệu USD một năm. So với chuẩn quốc tế thì còn rất thấp, vì 400 triệu USD bằng xấp xỉ 0,5% GDP, trong khi các nước tiên tiến đầu tư đến 3% GDP cho khoa học. Nhưng điểm đáng chú ý hơn nữa là một phần không nhỏ số tiền này bị biến tướng đi, không còn là tiền cho nghiên cứu khoa học và công nghê thực sự, mà trở thành tiền phụ cấp khó khăn cho những cán bộ lương quá thấp, hay tiền để chia chác giữa những người có quyền, và bởi vậy hiệu quả thì thấp mà tham nhũng thì nhiều.
Benjamin Franklin đã từng nói: “An investment in knowledge pays the best interest” (đầu tư vào hiểu biết cho lợi nhuận cao nhất). Câu nói đó càng trở nên đúng trong thế kỷ 21, thế kỷ của kinh tế dựa trên hiểu biết. Việt Nam cần học tập các nước khác trong việc tăng mạnh đầu tư cho khoa học và công nghệ (theo mức trung bình của thế giới so với GDP, thì Việt Nam cần đầu tư không phải 400 triệu USD, mà là 2 tỷ USD một năm, cho phát triển khoa học và công nghệ), và đồng thời tăng hiệu quả đầu tư qua việc thay đổi cung cách quản lý, xử lý tận gốc những cơ chế gây ra lãng phí và tham nhũng. Cần đối xử đàng hoàng hơn với các nhà khoa học, minh bạch hơn, công khai hơn trong mọi khâu quản lý, xử lý công bằng những hiện tượng gian trá, khuyến khích mọi người đi theo xu hướng làm thật ăn thật.

Một số tài liệu tham khảo:

[1] Lựa Chọn Thành Công – Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam – Một khuôn khổ chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020 (báo cáo của Đại Học Harvard gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng), http://www.diendan.org/viet-nam/lua-chon-thanh-cong/
[2] Phạm Duy Hiển, Khoa học và đại học Việt Nam qua những công bố quốc tế gần đây, Tia Sáng, 10/11/2008, http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=62&CategoryID=3&News=2518
[3] Nguyễn Tiến Dũng, Một vài suy nghĩ về toán học Việt Nam, 02/2006, http://zung.zetamu.com/ToanHocVietNam.pdf
[4] Đối thoại với GS Ngô Việt Trung, một chuỗi 4 bài, vietimes, 07/2008:
1: http://www.vietimes.com.vn/vn/doithoaiviet/5276/index.viet
2: http://www.vietimes.com.vn/vn/doithoaiviet/5283/index.viet
3: http://www.vietimes.com.vn/vn/doithoaiviet/5284/index.viet
4:
http://www.vietimes.com.vn/vn/doithoaiviet/5285/index.viet
[5] Phạm Đức Chính, Cơ học Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Tia Sáng, 05/11/2008, http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=76&CategoryID=3&News=2509
[6] Hoàng Tụy, Để có lớp trí thức xứng đáng, Tia Sáng, 06/12/2008, http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=76&CategoryID=3&News=2572
[7] Phạm Đức Chính, Vì sao khoa học Việt Nam chưa phát triển, http://www.vietnamnet.vn/khoahoc/2008/05/782005/
[8] Trần Quang Đại, Dự án Trung tâm Tiến sỹ Việt Nam, xin đừng vội vã !, Dân Trí, 51/10/2008, http://dantri.com.vn/c202/s202-255464/du-an-trung-tam-tien-si-viet-nam-xin-dung-voi-va.htm
[9] http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_GDP_(PPP)_per_capita
[10] Nguyễn Quang A, Thưởng 1000USD/bài báo – không phải việc của Nhà nước, 15/10/2008, http://vietsciences.free.fr/vongtaylon/giaoduc/thuong1000usdkhongphai.htm
[11] Phỏng vấn GS Hà Huy Khoái http://www.vietnamnet.vn/giaoduc/vande/2006/04/562806/


 
Nguyễn Tiến Dũng (theo Tia Sáng)
Cập nhật ( 21/11/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“Đặt ra kế hoạch thật tốt, thật sát là rất cần, nhưng đó chỉ là bước đầu, kế hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo sát sao phải là 30 phần- có như thế mới hoàn thành kế hoạch”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com