Tuần -13 - Ngày 05/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Điểm tin
Có cần lọt vào Top 200 các trường ĐH trên thế giới?
19/11/2008


Gần đây chúng ta nói nhiều đến mục tiêu: năm 2020 Việt Nam có một đại học lọt vào Top 200 của các trường đại học trên thế giới. Ngoài tính thiếu thực tế của mục tiêu này, vấn đề quan trọng hơn cần bàn là chúng ta có cần lọt vào danh sách các Top 200, Top 100, khi mà những tiêu chí để các nhóm truyền thông lập bảng xếp hạng thiếu tính khoa học và hợp lý. Do đó, không cần và không nên chạy theo những mục tiêu mơ hồ như thế; thay vào đó, nên tập trung đầu tư vào những việc thực tế hơn để nâng cao tiêu chuẩn đào tạo ở trình độ quốc tế, sao cho sinh viên khi tốt nghiệp có thể hội nhập với cộng đồng quốc tế dễ dàng.

 

Ước vọng thiếu thực tế

Không phải chỉ riêng đại học nước ta có ước vọng lọt vào Top 200, mà ngay tại Úc, một số đại học cũng từng có ước vọng này, nhưng nay thì họ đang xét lại mục tiêu đó có xứng đáng để tập trung tài lực hay không. Nhưng trong bối cảnh hiện nay ở nước ta, bất cứ có quan tâm đến giáo dục đại học nước nhà đều có thể nói rằng ước vọng 200 vẫn chỉ là ước mơ và nguyện vọng vì nó rất khó thành hiện thực.

Có nhiều nhóm truyền thông đứng ra lập những danh sách “top 200” và “top 500” cho các trường đại học trên thế giới nhằm mục tiêu hướng dẫn “khách hàng” và sinh viên. Trong số này phải kể đến nhóm Phụ trang giáo dục đại học của tờ Thời báo (THES – Times Higher Education Supplement) và nhóm thuộc Đại học Giao thông Thượng Hải (GTTH) được nhiều người biết đến từ 2003. Hai nhóm này sử dụng những tiêu chí khác nhau để đánh giá và xếp hạng đại học. Các tiêu chí mà THES sử dụng là: đánh giá của giới khoa bảng từ các trường khác ; số sinh viên tốt nghiệp làm việc trong các công ti toàn cầu ; phần trăm giáo sư là người nước ngoài ; phần trăm sinh viên là người nước ngoài ; tỉ số sinh viên / giáo sư ; và số lần trích dẫn tính trên đầu mỗi giáo sư. Nhóm GTTH dựa vào một số tiêu chí chính như số nhà khoa học đoạt giải Nobel và giải Fields; số nhà khoa học có công trình được trích dẫn nhiều; số bài báo nguyên thủy trên các tập san ScienceNature; tổng số bài báo công bố trên các tập san quốc tế.

Trong những tiêu chí trên, chúng ta thấy tiêu chí quan trọng nhất của một đại học top 200 hay “đẳng cấp quốc tế” là nghiên cứu khoa học. Một thước đo chính về nghiên cứu khoa học là số lượng và chất lượng bài báo khoa học được công bố trên các tập san quốc tế. Tính đến tháng 10 năm 2008, các nhà khoa học Việt Nam công bố được 910 bài báo khoa học. Con số này chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và 1/5 của Singapore. Tôi ước tính rằng nếu sự tăng trưởng như hiện nay được duy trì, thì đến năm 2020, con số bài báo khoa học của Việt Nam còn thấp hơn con số của Thái Lan hay chỉ bằng 1/3 của Singapore năm 2008. Cả Thái Lan và Singapore chưa có đại học nào được xem là đẳng cấp quốc tế.

Thật ra, có đến 60% những công trình khoa học Việt Nam được công bố trên các tập san quốc tế là do hợp tác hay làm việc chung với các nhà khoa học ngoại quốc. Nói cách khác, chỉ có khoảng 40% công trình nghiên cứu là “thuần Việt”, tức do các nhà khoa học Việt Nam chủ trì và thực hiện. Do đó, trong thực tế, thực lực khoa học nước ta còn rất thấp, chưa đủ để cạnh tranh trên trường quốc tế.

Đó là số lượng, còn chất lượng thì vẫn còn quá thấp. Đại đa số những nghiên cứu khoa học của Việt Nam chỉ công bố trên những tập san có hệ số ảnh hưởng rất thấp. Ở bất cứ lĩnh vực khoa học nào, chỉ số trích dẫn của các nghiên cứu Việt Nam thuộc vào hàng thấp nhất. Nhiều công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực "mạnh" của Việt Nam có số lần trích dẫn không cao và có thể chẳng có ảnh hưởng gì lớn trên thế giới. Khoảng 20 đến 30% các bài báo về toán và vật lí Việt Nam chưa bao giờ được ai trích dẫn. Tỉ lệ không trích dẫn này trong ngành kĩ thuật lên đến 41% ! Nói cách khác, có nhiều nghiên cứu từ Việt Nam chẳng ai quan tâm.

Chúng ta chưa có nhà khoa học nào được trao giải Nobel hay giải Fields. Chúng ta chưa có những công trình khoa học thuần Việt trên các tập san khoa học hàng đầu như Nature, Cell, Science, v.v… Chúng ta chưa có những nhà khoa học có trích dẫn cao (highly cited researchers). Nói tóm lại, trong bất cứ tiêu chí nào, khoa học Việt Nam nói chung và trường đại học Việt Nam nói riêng xuất phát từ một vị thế rất bất lợi để phấn đấu vào danh sách "Top 200".

Do đó, những ai qun tâm đến giáo dục đại học đều biết rằng ước vọng 200 khó thành hiện thực, chứ không không phải đợi đến một nhà khoa học giáo dục người Úc lịch sự nói “Việt Nam chưa sẵn sàng cạnh tranh được một cách nghiêm túc trên cơ sở công bố công trình và khối lượng được trích dẫn" và “Tóm lại con đường dẫn đến bảng xếp hạng 200 trường ĐH hàng đầu do Trường ĐH Giao thông Thượng Hải công bố đối với ĐH Quốc gia Hà Nội hay một trường ĐH nào khác của VN là một con đường dài và việc đạt được nó vào năm 2020 là nằm ngoài khả năng hiện thực.” (Tuổi Trẻ, 14/11/2008).

Các trường đại học hàng đầu thế giới luôn lấy chất lượng đào tạo (output) làm uy tín

Những tiêu chí thiếu tính khoa học

Như nói trên, có nhiều nhóm lập ra những danh sách top 200, nhưng chẳng có danh sách nào, kể cả danh sách của GTTH, được xem là có cơ sở khoa học vững vàng cả; đó chỉ là những danh sách phục vụ cho mục tiêu thương mại, chứ không phải khoa học. Xin lấy các tiêu chí của GTTH để phân tích.

Thứ nhất là đếm số nhà khoa học chiếm giải Nobel hay giải Fields, tuy phản ảnh một phần nào về chất lượng nghiên cứu khoa học của trường, nhưng trong thực tế thì không hẳn như thế, bởi vì nhiều nhà khoa học đang tại chức tại một đại học từng chiếm giải Nobel nhờ các công trình nghiên cứu thực hiện ở trường khác. Trong số 22 nhà khoa học chiếm giải Nobel y học 1997-2006, có đến 15 người là nhờ công trình nghiên cứu từ trường khác trước khi tham gia trường hiện tại. Do đó, tiêu chí này phản ảnh khả năng thu hút nhân tài, chứ không hẳn phản ảnh chất lượng nghiên cứu khoa học.

Thứ hai là số nhà khoa học có nhiều trích dẫn tuy trên lí thuyết thì có vẻ phản ảnh chất lượng khoa học, nhưng trong thực tế thì không đơn giản như nhóm GTTH làm. Lí do đơn giản là chỉ số trích dẫn tùy thuộc vào cơ sở dữ liệu sử dụng. Ngoài ra, còn có vấn đề tác giả. Chẳng hạn như một bài báo với 1 tác giả được trích dẫn 100 lần và một bài báo với 865 tác giả (và nhà khoa học đứng tên tác giả số 342) cũng được trích dẫn 100 lần không thể xem tương đương, nhưng cách làm của GTTH thì lại xem là tương đương! Thêm vào đó là chỉ số trích dẫn thường tính cho 2 thập niên trước, như vậy không phản ảnh chất lượng hiện tại. Trong số 10 tác giả có chỉ số trích dẫn cao trong thời gian 1996-1999, 5 người đã chuyển chỗ làm hay qua đời.

Thứ ba là số bài báo trên tập san ScienceNature không hẳn phản ảnh chất lượng nghiên cứu khoa học, bởi vì trong thực tế có nhiều tập san khác có hệ số ảnh hưởng (impact factor) cao hơn ScienceNature rất nhiều. Nên nhớ rằng trong số những bài báo được trích dẫn nhiều, chỉ có 22% được công bố trên hai tập san này. Do đó, tính hợp lí (validity) của số bài báo trên ScienceNature có vấn đề nghiêm trọng.

Thứ tư là số lượng bài báo trên các tập san cũng tùy thuộc vào cơ sở dữ liệu sử dụng. Số lượng bài báo chắc chắn không nói lên ảnh hưởng của các bài báo này. Đó là chưa tính đến tình trạng “salami publication” (kiểu cắt nem chua ra từng miếng nhỏ), tức là công bố nhiều bài báo để nâng số lượng mà chẳng quan tâm đến chất lượng.

Nói tóm lại, không có một tiêu chí nào có tính hợp lí cao, và cũng chẳng có một cách làm nào của GTTH và THES được xem là mang tính khoa học. Đó là sự thật. Chính vì thế mà hai danh sách này không nhất quán với nhau. Một số trường xuất hiện trên danh sách top 200 của THES thì lại vắng mặt trong danh sách của GTTH (và ngược lại). Theo xếp hạng năm 2006, 4 trong số 50 trường hàng đầu của GTTH không nằm trong top 500 của THES. Có thể xem qua danh sách trong bảng sau để thấy sự bất hợp lí của cách xếp hạng.

Một số đại học trong danh sách top 70 của GTTH nhưng không có trong top 500 của THES

Một số đại học trong danh sách top 70 của GTTH nhưng không có trong top 500 của THES

· University of California, San Francisco (GTTH hạng 18)

· ĐH Rockefeller (GTTH hạng 30)

· ĐH Paris 6 (GTTH hạng 45)

· Viện Karolinska (GTTH hạng 48)

· Fondation des Scienes Politique (THES hạng 52)

· Ecole Polytech fed Lausanne (THES hạng 64)

· Indian Institutes of Management (THES hạng 68)

· School of Oritental and African Studies (THES hạng 70)

Biểu đồ sau đây cho thấy chẳng có mối tương quan nào giữa xếp hạng của THES và GTTH. Một số trường trong danh sách top 50 của GTTH thậm chí không nằm trong danh sách top 500 của THES. Tính tổng cộng, chỉ có 133 trường nằm trong cả hai danh sách! Phân tích này một lần nữa cho thấy cách xếp hạng của cả hai nhóm không đáng tin cậy.


Biểu đồ về mối tương quan giữa xếp hạng top 500 của THES (trục hoành) và xếp hạng top 500 của Đại học GTTH (trục tung). Nguồn: Ioannidis JAP, et al. BMC Medicine 2007;5:30.

Chính vì tính phi khoa học này nên trong thực tế đã xảy ra chuyện khôi hài. Năm 2004, Đại học Malaya (một đại học lâu đời nhất của Mã Lai) được THES xếp hạng 89. Trước “tin vui” này, hiệu trưởng trường ra chỉ thị treo biển to tướng ở cổng trường với hàng chữ “University of Malaya a world’s top 100 university”. Nhưng chỉ một năm sau, khi THES xếp hạng lại thì Đại học Malaya tụt xuống hạng 169, dù trong thời gian ngắn đó đại học này chẳng có thay đổi gì về nghiên cứu khoa học hay nhân sự! Hệ quả là sau đó vị hiệu trưởng này mất chức.

Chính vì những bất cập và phi khoa học này mà có tác giả đã nghiêm khắc cảnh báo rằng cách xếp hạng hiện nay có thể gây tác hại cho khoa học và giáo dục.

Có cần xem trọng danh sách top 200 ?

Nhưng một câu hỏi nghiêm túc cần đặt ra là chúng ta có cần tập trung công sức tài lực để chỉ có tên trong danh sách top 200? Theo tôi thì không, chúng ta không cần phải có tên trong danh sách đó. Chúng ta không cần quá bận tâm với những danh sách đó, vì như tôi trình bày trên, chẳng có danh sách nào mang tính khoa học và đáng tin cậy.

Thế thì chúng ta cần tập trung vào vấn đề gì ? Giáo dục đại học bao gồm việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập. Có thể xem ba khía cạnh đó của giáo dục đại học là một hệ thống đặc trưng bởi ba khía cạnh trên. Vì là hệ thống nên phải có đầu vào (input), qui trình (process), và đầu ra (output). Do đó, chất lượng giáo dục đại học là tập hợp một số nguyên tố liên quan đến đầu vào, qui trình đào tạo, và đầu ra. Chúng ta nên tập trung để nâng cao tiêu chuẩn cho ba khía cạnh trên.

Đầu vào là những tiêu chuẩn liên quan đến sinh viên được nhận vào học tại trường đại học. Hiện nay chúng ta có quá nhiều đại học nhưng chất lượng đầu vào là một câu hỏi lớn. Một số nghiên cứu cho thấy số điểm trung bình của thí sinh được nhận vào đại học có tương quan đến số điểm tốt nghiệp: sinh viên với số điểm cao lúc nhập học đại học thường là những sinh viên có xác suất tốt nghiệp đại học cao. Nếu xem điểm thi tốt nghiệp hay điểm tuyển sinh đại học phản ảnh trình độ của học sinh, thì trường có nhiều học sinh giỏi cũng có nghĩa là môi trường học tập được nâng cao, và qua đó tác động tích cực đến chất lượng giáo dục của trường.

Qui trình ở đây bao gồm các tiêu chuẩn liên quan đến người thầy, giảng dạy, cơ sở vật chất cho học tập, nghiên cứu khoa học, và cơ sở hạ tầng cũng như dịch vụ dành cho giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Giáo dục đại học bao gồm giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Có thể nói chung rằng "sức khỏe tài chính" của một trường được phản ảnh qua sự tài trợ hay thu hút tài trợ từ Nhà nước và các nguồn tư nhân. Nhưng sử dụng tài chính vì lợi ích của sinh viên cần được quan tâm đặc biệt; vì thế, các tiêu chuẩn như chi tiêu, dịch vụ, cơ vật chất, v.v…

Ở bậc đại học, người thầy (hay cô) không chỉ đơn giản là một người giảng bài, mà còn là một chuyên gia về một lĩnh vực chuyên môn (khác với bậc trung học, người thầy không phải là một chuyên gia). Để truyền đạt hữu hiệu đến sinh viên, ngoài những kĩ năng sư phạm, người thầy cần phải có kiến thức về chuyên ngành để có thể khai triển những lí thuyết và ý tưởng từ nội dung của giáo trình. Những kiến thức này có thể tiếp thu qua nghiên cứu khoa học. Nhưng “hộ chiếu” để làm nghiên cứu khoa học là học vị tiến sĩ. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy các trường đại học Tây phương xem văn bằng tiến sĩ như là một tiêu chuẩn tối thiểu để được bổ nhiệm làm giảng viên hay giáo sư đại học. Một phần lớn các chỉ tiêu về chất lượng giáo dục đại học xoay quanh trình độ của người thầy và nghiên cứu khoa học.

Sản phẩm chính của nghiên cứu khoa học là những bài báo khoa học công bố trên các tập san quốc tế. Những bài bào hay công trình có chất lượng cao thường được công bố trên các tập san có chỉ số ảnh hưởng (impact factor) cao, hoặc có số lần trích dẫn (citations) cao. Do đó, một tiêu chuẩn được đa số chuyên gia chấp nhận là chuẩn mực để đánh giá chất lượng nghiên cứu khoa học là số bài báo khoa học được công bố trên các tập san quốc tế tính trên mỗi GV/GS và số lần trích dẫn các bài báo khoa học từ trường trong vòng 2 năm qua tính trên mỗi GV/GS. Ngoài ra, một số tiêu chuẩn khác cũng phản ảnh uy tín của trường là số bằng sáng chế (patent) đã được công nhận và đăng kí với một cơ quan bản quyền quốc tế, số giáo sư và sinh viên nước ngoài theo học tại trường, và số bằng khen hay số lần các giáo sư được mời làm chủ tọa các hội nghị quốc tế.

Thay vì chạy theo một mục tiêu mơ hồ mang tính truyền thông như có trong danh sách top 200 hay top 500 như ngành giáo dục đề ra, chúng ta cần và nên phát triển những tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học, nâng cao chất lượng đầu vào, qui trình đào tạo, và đầu ra. Mục tiêu hàng đầu và thật sự của đại học là đào tạo những chuyên gia có kiến thức và kĩ năng đóng góp vào phát triển kinh tế và hội nhập khoa học quốc tế, chứ không phải có tên trong danh sách top 200. Do đó, cần nên tập trung sức lực vào những việc thực tế hơn để dần dần nâng cao tiêu chuẩn đào tạo ở trình độ quốc tế, sao cho sinh viên khi tốt nghiệp có thể hội nhập với cộng đồng quốc tế dễ dàng (chứ không phải như hiện nay chúng ta bị xem thường). Một khi tiêu chuẩn đã đạt chuẩn quốc tế thì mục tiêu top 200 hay top 500 không còn là vấn đề nữa.

Nhưng nghiên cứu khoa học đòi hỏi cơ sở vật chất, và đặc biệt là thông tin (thư viện) và các thiết bị để sử dụng, kể cả công nghệ thông tin. Một đại học có chất lượng tối thiểu cũng phải có đủ không gian (kể cả bàn, ghế) cho giảng dạy, có phòng labo với thiết bị đầy đủ cho thí nghiệm và thực tập, có hệ thống hỗ trợ bằng công nghệ thông tin để giảng viên và học sinh có thể truy cập internet miễn phí, và nhất là hệ thống thư viện. Có thể nói không ngoa rằng thư viện và công nghệ thông tin là bộ mặt của một trường đại học. Cho dù một đại học có 100% giảng viên với trình độ tiến sĩ, mà không có thư viện tốt hay thiết bị công nghệ thông tin dồi dào thì cũng trường đại học không thể nào làm nghiên cứu khoa học tốt, không thể nào giảng dạy tốt được. Đề cập đến chất lượng giáo dục đại học nhất định phải đề cập đến các chỉ tiêu quan trọng về đầu tư cho thư viện và công nghệ thông tin.

Đầu ra là những tiêu chuẩn phản ảnh tình trạng của sinh viên sau khi tốt nghiệp. Giáo dục bậc cao có bốn chức năng chính: một là đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của cá nhân về tri thức, để họ có thể tự khai thác tiềm năng của mình và cống hiến lại cho xã hội; hai là cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, cần thiết cho sự tăng trưởng và giàu mạnh của một nền kinh tế hiện đại; ba là khai hóa xã hội, hướng dẫn dư luận, góp ý về đường lối và chính sách của nhà nước; và bốn là thu thập hay sáng tạo ra kiến thức qua nghiên cứu và chuyển giao những kiến thức này đến xã hội. vì thế, “sản phẩm” chính của giáo dục đại học là sinh viên tốt nghiệp với trình độ chuyên môn cao. Đây cũng là những tiêu chuẩn khó định lượng chính xác, vì các chuyên gia vẫn chưa nhất trí cách đánh giá. Tuy nhiên, người ta ghi nhận rằng danh tiếng (phản ảnh gián tiếp chất lượng giáo dục) của một trường đại học thường gắn liền sự sự thành đạt của sinh viết nghiệp từ trường đó. Các đại học như Harvard, Yale, Princeton, v.v… sở dĩ có tiếng trên thế giới là vì những sinh viên tốt nghiệp từ các trường này thường giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy kinh tế hay Nhà nước. Do đó, các tiêu chuẩn trong phần “đầu ra” cụ thể là tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp, có việc làm, sự hài lòng của doanh nghiệp hay cơ quan tuyển dụng, sinh viên quay lại theo học tiếp cấp thạc sĩ hay tiến sĩ, v.v…

Do đó, theo tôi, thay vì chạy theo một mục tiêu mơ hồ mang tính truyền thông như có trong danh sách top 200 hay top 500 như ngành giáo dục đề ra, chúng ta cần và nên phát triển những tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học, nâng cao chất lượng đầu vào, qui trình đào tạo, và đầu ra. Mục tiêu hàng đầu và thật sự của đại học là đào tạo những chuyên gia có kiến thức và kĩ năng đóng góp vào phát triển kinh tế và hội nhập khoa học quốc tế, chứ không phải có tên trong danh sách top 200. Do đó, cần nên tập trung sức lực vào những việc thực tế hơn để dần dần nâng cao tiêu chuẩn đào tạo ở trình độ quốc tế, sao cho sinh viên khi tốt nghiệp có thể hội nhập với cộng đồng quốc tế dễ dàng (chứ không phải như hiện nay chúng ta bị xem thường). Một khi tiêu chuẩn đã đạt chuẩn quốc tế thì mục tiêu top 200 hay top 500 không còn là vấn đề nữa.

 
Nguyễn Văn Tuấn (theo Tia sáng)
Cập nhật ( 21/11/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
“Chủ nghĩa xã hội là 'làm cho dân giàu nước mạnh' là 'mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do' ”.
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com