Tuần -12 - Ngày 07/05/2024
|
|
|
|
Thông tin định kỳ
|
|
|
Phát triển công nghiệp Việt Nam
VN: Cuộc quyết đấu giữa công nghệ nguồn và công nghệ rác |
26/12/2008 |
Mười mấy năm thu hút đầu tư nước ngoài, CNH-HĐH đất nước, Việt Nam hầu như không tiếp nhận được công nghệ nguồn, công nghệ cao từ các nước phát triển, mà toàn là công nghệ thấp, lạc hậu. Nếu cứ tiếp tục kiểu ấy mà mang ra "thi thố" các nước khác thì thua là cái chắc! |
Điều này đã được đề cập đến trong Lý thuyết “Vòng đời quốc tế của sản phẩm” của Raymond Vernon. Theo đó sau khi đã sử dụng hết khấu hao dây chuyền công nghệ, khi nhu cầu về sản phẩm trong nước giảm, trong khi nhu cầu ở nước ngoài lại tăng thì sản xuất được mở rộng thông qua FDI, những nhà máy ở nước ngoài bắt đầu được xây dựng. Và nước xuất khẩu thì đang nghiên cứu để áp dụng công nghệ vượt trội hơn, hiệu quả hơn, còn nước nhập khẩu thì xây dựng vòng đời mới cho những kỹ thuật bị bỏ đi.
Như vậy, vô hình trung các nước đang phát triển trở thành nơi tập kết của những công nghệ lạc hậu, đã hết khấu hao ở các nước tư bản phát triển. Chẳng bao lâu sau khi các nhà đầu tư kết thúc công việc của mình, khi chuyển giao công nghệ được tiến hành, nước đang phát triển sẽ được chuyển giao những gì? Họ sẽ tiếp tục sản xuất với công nghệ đã quá lạc hậu. Chi phí họ bỏ ra để khắc phục những hậu quả từ công nghệ lỗi thời ấy: ô nhiễm môi trường, vấn đề an toàn lao động, năng suất thấp so với năng suất trung bình của thế giới là rất lớn. Rồi khi những công nghệ ấy đã quá xa so với công nghệ của thế giới thì họ sẽ giải quyết nó thế nào? Chưa có ai có được câu trả lời và cũng chưa có một giải pháp nào được đưa ra.”
Không khó bắt gặp những mẩu tin thế này trên báo chí:
“Nhược điểm về trình độ công nghệ Việt Nam thể hiện ở các mặt: thiết bị mới nhập về của các DN Việt Nam phần lớn là từ các nước đang phát triển hoặc các nước công nghiệp mới, rất ít từ công nghệ nguồn (từ các nước phát triển). Bản thân các thiết bị này dù với Việt Nam là hiện đại hơn nhiều, nhưng vẫn lạc hậu so với công nghệ nguồn 2-3 thế hệ. Với trình độ công nghệ này, rất khó tạo được thế cạnh tranh bằng chất lượng hàng hoá dịch vụ cao, giá thành hạ (tức là để có năng suất cao).”
“Không phải lúc nào việc chuyển giao công nghệ cũng mang ý nghĩa tốt đẹp. Mục đích của các tập đoàn đa quốc gia là tiết kiệm tư bản, tiếp tục kéo dài chu kỳ sống của công nghệ đã trở nên lạc hậu tại nước họ, mang nó đến những nước đang khát vốn và nghèo về công nghệ.
|
“Trong khi xuất siêu sang Hoa Kỳ, châu Âu... thì Việt Nam lại nhập siêu rất lớn từ châu Á. Cần nhớ rằng, Mỹ, EU tuy là thị trường xa, nhưng lại có công nghệ nguồn, công nghệ cao, có tác động lớn đến đổi mới kỹ thuật-công nghệ trong nước. Trong khi đó với châu Á tuy là thị trường gần, việc mở cửa đối với khu vực này sớm hơn nhưng chưa phải là công nghệ nguồn, trong nhiều trường hợp còn là công nghệ lạc hậu, thậm chí còn là “rác” công nghệ.”
Theo những ý kiến trên đây thì dường như các công ty ở các nước phát triển có ý thức dân tộc rất cao. Họ không muốn các nước khác vượt mình, cạnh tranh với sản phẩm của nước mình. Họ làm mọi cách để ngăn cản điều đó. Còn các nước nghèo thì lại quá kém cỏi đi, đồ ngon không lấy, cứ lấy đồ dở hơi.
Nhưng có thực thế không?
Cái gì chi phối quyết định đầu tư của các doanh nghiệp? Trong tác phẩm nổi tiếng “Nghiên cứu về bản chất và nguồn gốc của cải của các dân tộc”, Adam Smith viết về động cơ của nhà tư bản như sau:
“Động cơ duy nhất thúc đẩy một người đầu tư một tư bản vào một ngành nào đó là lợi nhuận. Anh ta không bao giờ có ý nghĩ tính xem mỗi một phương thức sử dụng tư bản đó sẽ tạo ra bao nhiêu việc làm, hoặc sẽ thêm bao nhiêu giá trị vào tổng sản phẩm xã hội của nước mình.
|
Với những dự án FDI đổ vào BĐS, sân golf, thiìsẽ mang lại cho VN được bao nhiêu công nghệ hiện đại như mục tiêu đề ra? Ảnh: VNN.
|
Những thao tác lao động quan trọng nhất được điều chỉnh và chỉ đạo theo những kế hoạch và những tính toán của những người sử dụng tư bản; và mục đích mà họ đặt ra trong tất cả các kế hoạch và tính toán ấy là lợi nhuận.”
Say, một nhà kinh tế học khác thời đó viết: “Việc sử dụng tư bản một cách có lợi nhất cho nhà tư bản, sẽ là việc sử dụng nào đem lại cho anh ta lợi nhuận lớn nhất; nhưng việc sử dụng đó không phải lúc nào cũng sẽ có lợi nhất cho xã hội".
Ricardo trong tác phẩm “Địa tô” nhận xét: “Một người có một tư bản 2 vạn franc đem lại cho anh ta hàng năm 2 nghìn franc lợi nhuận, thì hoàn toàn không quan tâm xem tư bản của anh ta sử dụng 100 hay 1,000 người…”
Như thế, động cơ tối hậu của doanh nghiệp luôn là lợi nhuận. Việc áp dụng công nghệ nào hoàn toàn tùy thuộc vào lợi nhuận tạo ra. Lợi nhuận càng cao khi chi phí sản xuất càng thấp. Phải chăng dùng công nghệ cao luôn tạo ra sản phẩm rẻ hơn công nghệ thấp?
Hoàn toàn không phải thế.
Trong tác phẩm “Tư bản ” Marx phân tích việc nhà tư bản sử dụng máy móc như sau:
“Nếu coi máy móc chỉ là phương tiện để làm cho sản phẩm rẻ đi, thì giới hạn sử dụng máy móc được quyết định bởi cái tình hình là: số lao động tiêu phí để sản xuất ra máy móc phải ít hơn số lao động mà việc sử dụng máy móc thay thế. Song đối với nhà tư bản thì giới hạn đó còn hẹp hơn nữa. Vì hắn không trả cho lao động đã sử dụng, mà chỉ trả cho giá trị sức lao động đã sử dụng, cho nên đối với hắn, việc sử dụng máy móc bị giới hạn bởi số chênh lệch giữa giá trị của chiếc máy và giá trị sức lao động (tức tiền công trả cho công nhân) bị máy đó thay thế. Chênh lệch này quyết định chi phí sản xuất ra hàng hóa, và điều này lại quyết định việc có nên sử dụng máy móc hay không.
Chính vì thế, ở những nơi sức lao động có giá rẻ mạt thì việc sử dụng máy móc trở thành vô ích theo quan điểm của nhà tư bản. Ở Anh, trước khi có lệnh cấm dùng phụ nữ và trẻ em dưới 10 tuổi trong các hầm mỏ, các chủ tư bản đã vô tư sử dụng những phụ nữ và thiếu nữ trần truồng ở dưới các hầm mỏ, lắm lúc cùng với đàn ông – một điều phù hợp với quy tắc đạo đức của nó và nhất là phù hợp với sổ cái kế toán của nó đến mức là chỉ sau khi điều đó bị cấm thì tư bản mới dùng đến máy móc. Người Mỹ đã chế ra máy nghiền đá, nhưng người Anh không sử dụng chúng, vì công nhân đập đá chỉ được trả lương rẻ mạt đến mức sử dụng máy móc sẽ làm cho sản xuất đắt lên đối với nhà tư bản. Vì vậy, không một nơi nào lại lãng phí sức người một cách vô liêm sỉ vào những công việc nhỏ nhặt như ở ngay nước Anh, nước của máy móc”.
Như thế, việc các doanh nghiệp FDI mang công nghệ thấp vào nước ta, hay việc chính các doanh nghiệp nước ta mua công nghệ thấp, thì hoàn toàn không phải vì phía nước ngoài muốn chơi xỏ ta, biến ta thành bãi rác công nghệ; hay các doanh nghiệp nước ta quá kém cỏi trong việc lựa chọn công nghệ. Khi đầu tư, các doanh nghiệp phải giải bài toán sau: sử dụng công nghệ rất hiện đại nhưng cực đắt, tức là khấu hao tính trên mỗi sản phẩm rất cao, cộng với chi phí nhân công không đáng kể do sử dụng ít nhân công, thì sản phẩm có giá thành thế nào, tỷ suất lợi nhuận ra sao so với sử dụng công nghệ thấp, giá rẻ, khấu hao trên mỗi sản phẩm thấp, cộng với chi phí nhân công nhiều hơn. Tính toán và thực tiễn kinh doanh cho thấy phương án sau thường là có hiệu quả kinh tế hơn, và đó là lý do của việc sử dụng công nghệ thấp ở các nước nghèo trong giai đoạn đầu phát triển.
Điều này rất dễ hiểu. Một dây chuyền công nghệ cực kỳ hiện đại, và cực đắt tiền, sử dụng rất ít nhân công, thì giá thành sản phẩm được sản xuất ra dù ở Đức, nơi có giá nhân công rất cao, hay ở Việt Nam, nơi có giá nhân công rất thấp, thì không khác nhau mấy, do trong giá thành sản phẩm chỉ có một phần rất nhỏ là chi phí nhân công, còn lại chủ yếu là khấu hao chi phí đầu tư. Mà nếu thế thì việc gì nhà đầu tư phải mang máy móc sang tận Việt Nam sản xuất?
|
Ngành dệt may VN vẫn chủ yếu là CN cũ và thâm dụng lao động. Ảnh: VNN.
|
Trái lại, nếu sử dụng công nghệ thấp, suất đầu tư thấp, thì khấu hao vào sản phẩm giảm đi đáng kể. Đồng thời, do nhân công ở Việt Nam rẻ gấp hàng chục lần so với ở Đức, nên cho dù có sử dụng số nhân công nhiều gấp cả chục lần so với dùng công nghệ cao, thì chi phí cho nhân công vẫn thấp hơn chi phí nhân công ở Đức. Kết quả là giá thành hàng hóa sản xuất ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với sản xuất ở Đức, tức là có sức cạnh tranh hơn. Đồng thời, do suất đầu tư giảm nên tỷ suất lợi nhuận tăng lên tương ứng. Bởi vì nhà đầu tư nào cũng tính toán như thế, nên ai dại dột sử dụng công nghệ hiện đại, đắt tiền, ít thâm dụng lao động, ắt sẽ thua cuộc.
Cái sự kiện là ở những ngành nào, nơi nào sử dụng nhiều lao động sống thì ở đó tỷ suất giá trị thặng dư cao hơn nơi sử dụng nhiều máy móc, thì đã được kinh tế học nói đến từ lâu.
Ở đây ta tạm bỏ qua các yếu tố khác cũng ảnh hưởng tới quyết định sử dụng công nghệ, ví dụ như yêu cầu về bảo vệ môi trường, tiêu hao năng lượng v.v… Ta cũng không xét đến những loại hàng hóa mà việc sản xuất nhất thiết đòi hỏi công nghệ cao, ví dụ ngành chế tạo máy bay. Ta chỉ xem xét khía cạnh kinh tế của việc áp dụng công nghệ trong sản xuất các hàng hóa thông thường, nơi có thể áp dụng cả công nghệ cao lẫn công nghệ thấp mà vẫn cho ra những sản phẩm chất lượng như nhau. Trong cuộc đấu này, ở giai đoạn hiện nay, tỷ số là 1-0 nghiêng về phía “công nghệ rác”!
Tóm lại, không phải nước Đức giàu vì có công nghệ cao, còn Việt Nam nghèo vì ôm công nghệ thấp như người ta vẫn tưởng. Trái lại, chính vì nước Đức giàu, giá nhân công đắt đỏ nên họ buộc phải dùng công nghệ cao; và chính vì Việt Nam còn nghèo, giá nhân công rẻ mạt nên cần sử dụng công nghệ thấp, thâm dụng lao động.
Không có biên giới trong áp dụng công nghệ
Công nghệ nói chung, trừ những loại liên quan đến an ninh quốc phòng, thì không thuộc về quốc gia, mà thuộc về các công ty. Trong thời đại toàn cầu hóa, các công ty ngày càng trở nên xuyên quốc gia, đa quốc tịch. Các công ty chả có lý do gì để giữ rịt công nghệ xịn cho “nước mình” và áp dụng công nghệ bèo nhèo ở “nước khác”. Với họ, “nước mình” và “nước khác” là những khái niệm vô nghĩa. Động cơ duy nhất khiến họ áp dụng công nghệ cao hay thấp là công nghệ nào đem lại lợi nhuận cao nhất trong hoàn cảnh cụ thể của nước đó ở giai đoạn đó. Mà ở những nước có nhân công rẻ mạt thì sử dụng công nghệ thấp, thâm dụng lao động, lại luôn mang lại lợi nhuận nhiều hơn là sử dụng công nghệ cao, sử dụng ít lao động.
Ngược lại, ở các nước phát triển, do nhân công đắt đỏ nên họ buộc phải thường xuyên cải tiến công nghệ để tiết giảm chi phí nhân công. Hoàn toàn không phải vì lòng “yêu nước” mà họ giữ công nghệ cao cho mình và đem bán công nghệ thấp cho nước khác. Nếu hoàn cảnh bắt buộc, họ sẵn sàng bán công nghệ cao và sử dụng công nghệ thấp. Trong “Tư bản” Marx có lấy ví dụ: nhiều lúc, những máy móc được phát minh ở Anh lại chỉ được dùng ở Mỹ; máy móc phát minh ở Đức chỉ được dùng ở Hà Lan, còn nhiều phát minh của Pháp lại chỉ dùng ở Anh v.v…
Ngoài ra, tuy nhà đầu tư không quan tâm tới việc công nghệ đó sẽ tạo ra bao nhiêu chỗ làm như Smith và Ricardo đã nhận xét, nhưng việc sử dụng công nghệ thấp lại thu hút nhiều lao động hơn so với sử dụng công nghệ cao, đó cũng là một điều tốt cho các nước mới chuyển sang công nghiệp hóa, đang phải đối mặt với lượng lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp chuyển sang. Các doanh nghiệp thường hay lấy điều này ra để khoe về đóng góp của mình cho xã hội! Mặc dù, khi cần thiết, họ sẵn sàng cắt giảm lao động ngay tức khắc.
Có lẽ trong số các chuyên gia kinh tế, nhà báo, nhà quản lý đang kêu than về tình hình công nghệ ở nước ta, chưa có ai phải trực tiếp vò đầu bứt tai giải bài toán đầu tư nói trên. Nên họ mới tưởng rằng cứ công nghệ cao là ngon, còn công nghệ thấp là vứt. Thực ra, không phải nhờ công nghệ cao, mà trái lại, chính nhờ sử dụng công nghệ thấp mà hàng hóa của ta còn có sức cạnh tranh, đó là quy luật tất yếu ở giai đoạn phát triển hiện nay.
|
Công nghệ hiện đại Nano vẫn là điều mới mẻ với Việt Nam. Ảnh: vatly.org.
|
Những người nông dân chất phác, khi mua xe công nông để chở thóc lúa chứ không mua xe tải xịn của Mercedes, hoặc ngược lại, khi chuyển sang thuê máy gặt đập thay cho thuê thợ gặt tay vì giá nhân công lên cao, đã tỏ ra nắm sâu sắc các quy luật kinh tế gấp bội các chuyên gia kinh tế chỉ biết kêu ra rả “phải có công nghệ nguồn, phải có công nghệ nguồn”, bất chấp điều kiện cụ thể, trình độ phát triển cụ thể của đất nước.
Vậy khi nào công nghệ cao sẽ được áp dụng?
Như đã phân tích ở trên, công nghệ cao là thứ không thể áp dụng một cách tùy hứng chỉ để lấy tiếng. Nhiều người thường kêu ca rằng Việt Nam không có nguồn nhân lực trình độ cao nên khó áp dụng công nghệ tiên tiến. Nói thế là ngược. Việc sử dụng công nghệ nào quyết định trình độ của nguồn nhân lực, chứ không phải ngược lại. Nhân lực không tự dưng mà có, không phải cứ muốn là được. Nó phụ thuộc vào trình độ công nghệ đang được áp dụng. Không thể đào tạo nhân lực “cao” một cách đại trà khi mà công nghệ thấp đang được áp dụng phổ biến. Mà công nghệ cao lại không thể sử dụng khi giá nhân công còn rẻ. Việc tập đoàn Intel mới đây than phiền rằng họ cần mấy nghìn lao động cho dự án tỷ đô của mình, nhưng chỉ tuyển được vài chục, hoàn toàn chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Đáng ngạc nhiên chính là việc Intel ngạc nhiên về chuyện đó!
Nhưng tình hình đó sẽ không kéo dài mãi mãi. Cùng với đà phát triển của nền kinh tế, giai cấp công nhân ngày càng có ý thức hơn về quyền lợi của mình. Họ bắt đầu có các hành động đình công, với yêu sách đòi tăng lương, cải thiện điều kiện lao động. Giới chủ bực ghê lắm nhưng buộc phải chấp nhận. Giá nhân công đắt dần lên, lâu lâu công nhân lại đình công, tình trạng này buộc giới chủ phải thay đổi công nghệ để ít phụ thuộc vào lao động sống hơn. Như Marx viết, máy móc đã trở thành vũ khí chiến đấu mạnh mẽ nhất để chống lại những cuộc nổi dậy có tính chất chu kỳ của công nhân. Bên cạnh đó, cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp cũng là yếu tố thúc đẩy việc cải tiến kỹ thuật. Chính những điều đó đã thúc đẩy việc áp dụng công nghệ mới. Chứ lòng tự hào dân tộc của các chủ doanh nghiệp, kiểu như nỗi khao khát đưa đất nước đuổi kịp và vượt các nước khác, đóng vai trò rất ít ở đây.
Các doanh nghiệp FDI chắc chắn rồi cũng sẽ phải chuyển dần sang công nghệ hiện đại hơn, khi không còn lợi dụng được nguồn nhân công rẻ nữa. Khi áp dụng công nghệ hiện đại thì dĩ nhiên phải đào tạo lại công nhân, và rồi nước ta sẽ có nguồn nhân lực tương ứng. Các doanh nghiệp đi đầu trong việc áp dụng công nghệ mới, Intel chẳng hạn, luôn phải chịu những chi phí đào tạo này, còn các doanh nghiệp đi sau sẽ hưởng lợi khi tìm cách hớt tay trên nguồn nhân lực đã được đào tạo. Chơi thế rất chi là không đẹp, nhưng biết làm sao được! Bao giờ cũng vậy, chính các quy luật kinh tế, với sức mạnh gang thép của mình, mới là nhân tố quyết định buộc người ta hành động thế này hay thế khác. Rất khó nói chuyện đạo lý quân tử ở đây.
Điều đó đã và đang diễn ra ở các nước đang phát triển khác, ví dụ như Trung Quốc. Việc Trung Quốc đang tiến tới nắm các công nghệ cao của Nhật, Mỹ, thì không chứng tỏ rằng họ giỏi còn ta kém. Chẳng qua họ xuất phát trước chúng ta, và giờ đây là thời điểm các điều kiện đã chín muồi để họ từ bỏ công nghệ thấp, chuyển sang công nghệ cao hơn - dù muốn hay không. Và điều quan trọng nhất - chẳng có “bãi rác công nghệ” nào ở đây hết! Công nghệ thấp đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của chúng, giờ có thể yên nghỉ ngàn thu!
Cuối cùng ta có thể đặt câu hỏi thú vị nhưng ít ai để ý sau: tại sao các nước phát triển mang tiếng là có công nghệ nguồn, có tiềm lực khoa học kỹ thuật hùng mạnh, có đội ngũ nhân lực trình độ cao, có hệ số sử dụng vốn ICOR rất tốt v.v…, thì tốc độ tăng trưởng GDP lại thấp thảm hại đến như vậy so với các nước đang phát triển vốn thua kém họ đủ bề? Khoa học kỹ thuật càng phát triển mạnh mẽ, càng tiến vào cái gọi là “nền kinh tế tri thức” thì tốc độ tăng trưởng càng chậm lại, thậm chí khủng hoảng, suy thoái, thế là thế quái nào?
Sự kiện đó chứng tỏ rằng công nghệ, trình độ quản lý, Nobel kinh tế v.v… không hề là yếu tố quyết định trong việc gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế như người ta vẫn tưởng. Vai trò của chúng là ở chỗ khác.
Lại cũng Adam Smith đã viết về điều đó từ cách đây hai thế kỷ như sau:
“Không giống như địa tô và tiền công, tỷ suất lợi nhuận không tăng lên cùng với sự phồn vinh của xã hội và không hạ xuống cùng với sự suy sụp của xã hội. Ngược lại, tỷ suất đó tự nhiên là phải thấp ở những nước giàu và cao ở những nước nghèo; và chưa bao giờ tỷ suất đó lại cao như ở những nước đang lao nhanh nhất đến sự phá sản.”
Smith nhận thấy hiện tượng kỳ quặc đó, nhưng chưa thể lý giải rõ ràng. Sau này Marx đã làm sáng tỏ điều đó bằng lý luận về giá trị thặng dư, vạch ra quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế.
Marx từng lưu ý: “Nước phát triển hơn về công nghiệp chỉ nêu lên cho nước kém phát triển cái hình ảnh tương lai của bản thân nước này mà thôi” (Tư bản). Điều đó có nghĩa là những gì đang diễn ra ở nước ta hiện nay thì đều đã diễn ra ở các nước khác vài chục, vài trăm năm trước. Nếu như hiểu được điều đó, có lẽ chúng ta đã không phải hốt hoảng đến thế về cái nguy cơ tưởng tượng - biến thành “bãi rác công nghệ” của thế giới!
- Đoàn Tiểu Long (theo VNnet)
|
|
Cập nhật ( 27/10/2014 )
|
|