I. Thực trạng sử dụng đất phát triển KCN Tính đến cuối tháng 9/2008, cả nước đã có 194 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 46.600 ha, trong đó diện tích đất CN có thể cho thuê đạt gần 30.700 ha, chiếm trên 65% tổng diện tích đất tự nhiên. Hiện có 110 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên gần 26.400 ha,80 KCN còn lại đang trong giai đoạn ĐBGPMB và xây dựng cơ bản. - Các KCN phân bố ở 56 tỉnh, thành phố trên cả nước; tập trung ở 3 Vùng kinh tế trọng điểm với tổng diện tích đất tự nhiên chiếm khoảng 65% tổng diện tích các KCN cả nước. 1. Tình hình cho thuê đất và thu hút đầu tư Tính đến cuối tháng 9/2008, các KCN cả nước đã thu hút được trên 3.300 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 39,2 tỷ USD và 3.100 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 185 nghìn tỷ đồng. Riêng lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng KCN, có 32 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 1.800 triệu USD và 162 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư gần 62.000 tỷ đồng. Như vậy, tổng vốn FDI thu hút được là: 41 tỷ USD; tổng vốn trong nước thu hút được gần 250 nghìn tỷ đồng. KCN đóng góp đáng kể vào kết quả thu hút đầu tư cả nước, đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài. Tính bình quân 1 ha đất CN đã cho thuê thì vốn đầu tư bình quân đạt khoảng 3,8 triệu USD. Tỷ lệ lấp đầy đất CN khá đồng đều giữa các vùng trên cả nước, tỷ lệ lấp đầy đất CN tính chung cho các KCN đã vận hành và đang XDCB của các vùng từ 50%-60%; nếu tính riêng các KCN đã vận hành thì thường ở mức 65%-75%. Một số vùng phát triển KCN từ lâu như Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ lấp đầy đất CN của các KCN đã vận hành cao (Đông Nam Bộ (cả Long An): 73%; đồng bằng sông Hồng: 73%; đồng bằng sông Cửu Long: 89%). Số lượng các KCN đi vào vận hành đạt khoảng 6-12 KCN mỗi năm. Việc các KCN nhanh chóng đi vào vận hành và thu hút đầu tư đã tạo điều kiện khai thác triệt để hơn quỹ đất CN trong các KCN. Tổng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng thực hiện đến cuối tháng 9/2008 của các KCN đã thành lập và đang hoạt động đạt trên 600 triệu USD và 17.000 tỷ đồng, đạt khoảng 58% so với tổng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng đăng ký. Bên cạnh đó, các KCN mới thành lập đều đang khẩn trương triển khai ĐBGPMB và xây dựng cơ sở hạ tầng. Đặc biệt là, những năm gần đây đã thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN (từ Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…). Các KCN do nhà đầu tư nước ngoài làm chủ đầu tư được triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng khá khẩn trương, đồng bộ. 2. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh trên đất KCN - Khoảng 70% số dự án được cấp phép đầu tư vào KCN (4.500 dự án) đã xây dựng nhà xưởng và đi vào sản xuất kinh doanh; 20% số dự án đang triển khai xây dựng nhà xưởng. Tỷ lệ dự án chưa triển khai thấp chiếm 10% do trong quá trình cho thuê đất và cấp phép, chủ đầu tư và cơ quan quản lý nhà nước đã có sự cân nhắc về năng lực, khả năng triển khai của dự án. Giá trị sản xuất CN tính trên 1 ha đất đã cho thuê đạt khoảng 1,6 triệu USD/1 ha/1 năm; lớn hơn nhiều so với giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân (giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2007 đạt gần 240 nghìn tỷ đồng và diện tích đất nông nghiệp của cả nước khoảng 25 triệu ha, tính sơ bộ thì giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân 1 ha 1 năm khoảng 600 USD/ha/năm; tính riêng giá lúa bình quân thì đạt khoảng 900 USD/ha/năm). Các KCN đóng góp đáng kể vào tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước, hàng năm đạt tỷ trọng khoảng 20%. Tính bình quân 1 ha đất CN đã cho thuê tạo ra giá trị xuất khẩu khoảng 700.000 USD/ha. Giá trị này cao hơn giá trị xuất khẩu gạo tính trung bình cho 1 ha (khoảng 320 USD/ha). - Hiện nay, các KCN đã tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động làm việc trực tiếp trong KCN, bình quân 1 ha đất CN đã cho thuê thu hút được trên 70 lao động trực tiếp, nếu tính theo diện tích đất CN của các dự án thực tế đã đi vào hoạt động thì số lượng lao động bình quân sẽ còn cao hơn (một số dự án mới cấp phép đầu tư) ; trong khi đó 1 ha đất nông nghiệp chỉ thu hút được khoảng 10-12 lao động. 3. Về đất quy hoạch phát triển KCN, KCX - Hiện nay, diện tích đất KCN đã có thành lập gần 46.600 ha, diện tích chưa có thành lập là trên 43.000 ha. Tổng diện tích đất KCN đã thành lập và dự kiến thành lập mới và mở rộng theo quy hoạch đến năm 2015 là gần 90.000 ha. Theo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 là của các địa phương, tổng diện tích đất dành cho phát triển KCN đến 2010 trên 142.000 ha. Như vậy, tổng diện tích đất KCN đã thành lập và quy hoạch đến năm 2015 mới đạt hơn 63% so với tổng diện tích đất KCN theo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010. Kết quả kiểm tra công tác quy hoạch phát triển KCN ở các địa phương trên cả nước cho thấy việc xây dựng quy hoạch KCN của các địa phương nhìn chung đều phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của địa phương theo từng thời kỳ được phê duyệt. Nhìn chung, việc thành lập KCN phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển KCN trên cả nước được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo từng thời kỳ. Chỉ có một số ít KCN đã quy hoạch nhưng chưa triển khai được vì đền bù, giải phóng mặt bằng. 4. Về sử dụng đất nông nghiệp và an ninh lương thực trong quy hoạch phát triển KCN - Thực tế ở một số địa phương, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long có sử dụng đất nông nghiệp, đất trồng lúa nước trong phát triển KCN. Đây là vấn đề khó tránh khỏi khi thực hiện CNH, HĐH. Theo thống kê sơ bộ, diện tích đất trồng lúa được chuyển đổi trong các KCN đã thành lập khoảng trên 10.000 ha, chiếm trên 20% tổng diện tích đất tự nhiên của KCN. Diện tích đất trồng lúa trong các KCN quy hoạch phát triển đến năm 2015 ước tính từ 8000-10.000 ha. Tổng diện tích đất trồng lúa được chuyển đổi để phát triển các KCN đến năm 2015 từ 18.000 – 20.000 ha, chiếm khoảng 0,5% tổng diện tích đất trồng lúa trên cả nước theo quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 (trên 3700 nghìn ha). Mặt khác, các địa phương phát triển nhiều KCN thời gian qua như ở Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long thì diện tích đất trồng lúa so với diện tích đất tự nhiên của KCN chiếm tỷ lệ 7-8%, thấp hơn so với tỷ lệ này ở vùng đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh miền Bắc. Việc phát triển KCN đã có những tác động tích cực đến nông dân, nông nghiệp và nông thôn, góp phần hiện đai hóa hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn; thu hút nhiều lao động ở nông thôn; tăng thu nhập, nâng cao trình độ, kỹ năng của người lao động khu vực nông thôn … Qua đó, KCN đã góp phần cải thiện đời sống của người dân khu vực nông thôn. Bên cạnh đó, các địa phương còn sử dụng đất nông nghiệp cho các công trình như đường giao thông, phát triển đô thị, khu dân cư, các khu kinh doanh tập trung khác. Việc sử dụng đất trồng lúa vào mục đích phát triển công nghiệp, dịch vụ, hạ tầng kinh tế… đã được địa phương cân nhắc kỹ khi lập quy hoạch. Các địa phương chủ yếu sử dụng đất trồng lúa có năng suất thấp, 1 vụ và không ổn định để phát triển KCN, đa số các KCN ở miền Trung và miền Nam nếu có sử dụng đất lúa thì đều là đất có năng suất thấp hơn nhiều so với năng suất lúa trung bình trên cả nước. Chỉ có một số tỉnh ở đồng bằng sông Hồng như Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam sử dụng đất lúa có năng suất cao hơn năng suất trung bình để phát triển KCN. Tuy nhiên, đối với các địa phương này thì việc sử dụng một phần diện tích đất nông nghiệp để phát triển KCN là thực sự cần thiết để đẩy nhanh tốc độ tăng giá trị sản xuất CN, tạo động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng công nghiệp hóa và đảm bảo an ninh lương thực. Qua báo cáo của các địa phương cho thấy việc phát triển các cụm CN ở các địa phương thực sự là vấn đề phức tạp và cấp bách hiện nay cần phải giải quyết. Theo thống kê của Bộ Công Thương, các địa phương đã thành lập khoảng 650 cụm CN trong đó có những cụm CN quy mô lớn hàng trăm ha, với tổng diện tích trên 30.000 ha. Đa số các cụm CN rất khó khăn trong thu hút đầu tư, cơ sở hạ tầng yếu kém, không đồng bộ, môi trường chưa được xử lý tập trung…. Vì vậy, việc đánh giá một cách toàn diện về hiệu quả hoạt động của các cụm CN này, đặc biệt là hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, là nhiệm vụ cấp bách cần tập trung trong thời gian tới. Thời gian qua, không ít người đã không phân biệt được đâu là KCN, đâu là cụm CN (hoặc cố tình nhầm lẫn), sử dụng một số khái niệm như KCN nhỏ và vừa, KCN của địa phương thay cho khái niệm Cụm CN… Do vậy, đã có những nhận định, đánh giá, phản ánh không đúng về việc phát triển KCN. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 2031/VPCP-CN ngày 31/3/2008 về không phát triển KCN trên đất nông nghiệp có năng suất ổn định và Quyết định số 391/QĐ-TTg ngày 18/4/2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã có văn bản hướng dẫn các địa phương trong xây dựng quy hoạch phát triển KCN; tổ chức thẩm định các đề án quy hoạch phát triển KCN của địa phương; rà soát, xây dựng phương án điều chỉnh quy hoạch KCN trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ việc bảo đảm không xây dựng KCN trên đất lúa có năng suất ổn định và bảo đảm an ninh lượng thực, đồng thời tổ chức các đoàn kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch KCN, trong đó có vấn đề sử dụng đất phát triển KCN ở các địa phương. 5. Một số khó khăn, hạn chế - Một số KCN triển khai không đúng tiến độ nên diện tích đất sử dụng cho dự án chưa được khai thác. Số dự án đầu tư vào KCN đi vào sản xuất kinh doanh tuy chiếm tỷ lệ lớn, tuy nhiên các dự án chưa thực sự triển khai đầu tư hết các hạng mục theo dự án được duyệt nên tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đầu tư đăng ký của dự án còn thấp (khoảng 40%). - Công tác đền bù giải phóng mặt bằng ở một số KCN còn khó khăn, ảnh hưởng tới tốc độ triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và làm chậm tiến độ khai thác quỹ đất KCN. Việc chi trả tiền đền bù giải phóng mặt bằng nhìn chung đều được triển khai theo quy định, song các công việc sau đền bù như chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo, tái định cư, ổn định đời sống lâu dài cho người dân, đặc biệt là người nông dân ở một số KCN còn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. - Các địa phương còn gặp nhiều khó khăn trong việc đánh giá năng lực của nhà đầu tư cơ sở hạ tầng KCN nên đã có một số KCN do chủ đầu tư kém năng lực huy động vốn, kinh nghiệm xây dựng hạ tầng, hoặc chưa thực sự tập trung hoàn thành hạ tầng KCN và chỉ đăng ký đầu tư với mục đích giữ đất. Tình trạng này có ảnh hưởng tới tốc độ triển khai hạ tầng KCN cũng như chất lượng xây dựng quy hoạch KCN ở các địa phương. - ở một số địa phương, quy hoạch phát triển KCN chưa hài hòa với quy hoạch phát triển cụm CN. II. Một số nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới 1. Về quy hoạch phát triển KCN Khẩn trương nghiên cứu, rà soát điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển KCN trên phạm vi cả nước để làm cơ sở cho các địa phương thống nhất triển khai thực hiện. Việc quy hoạch phát triển KCN của các địa phương cần phải phù hợp với điều kiện và khả năng thu hút đầu tư thực tế của các địa phương, hạn chế tối đa việc phát triển KCN trên đất nông nghiệp năng suất cao và đảm bảo hài hòa giữa phát triển CN với đảm bảo an ninh lương thực. Ở một số tỉnh có sử dụng một phần đất lúa có năng suất cao hơn năng suất trung bình của cả nước (chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng), để phát triển KCN cần phải có đánh giá toàn diện về việc sử dụng đất lúa và rà soát quy hoạch sử dụng đất trong đó xác định cụ thể diện tích và khu vực đất lúa chuyển đổi để phát triển CN để làm cơ sở quy hoạch KCN và đảm bảo an ninh lương thực trên địa bàn. Ngoài ra, cần nghiên cứu tân dụng các khu vực đồi núi, đất xấu, địa hình và vị trí thuận lợi để phát triển KCN. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp chặt chẽ với các bộ ngành địa phương tổ chức khảo sát, rà soát để xây dựng phương án quy hoạch ổn định vùng đất trồng lúa, đảm bảo an ninh lương thực cho vùng và cho cả nước, đồng thời làm cơ sở để thống nhất quy hoạch KCN với quy hoạch vùng đất lúa. 2. Về đảm bảo đời sống của người nông dân có đất bị thu hồi Trong công tác đền bù giải phóng mặt bằng, ngoài việc thực hiện thủ tục đền bù và chi trả tiền đền bù theo quy định của pháp luật, chính quyền các địa phương và chủ đầu tư cần phải quan tâm tới việc đảm bảo nghề nghiệp và cuộc sống lâu dài của người dân có đất bị thu hồi, đặc biệt là người nông dân. Để phát huy vai trò của KCN trong hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, các địa phương cần nghiên cứu tạo điều kiện cho người nông dân ở khu vực thu hồi đất làm KCN chuyển đổi nghề nghiệp, làm việc trong KCN hoặc dịch vụ KCN để nâng cao đời sống của người nông dân. 3. Đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án Rà soát toàn diện tiến độ, khả năng triển khai của các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cũng như dự án đầu tư vào KCN, đôn đốc nhà đầu tư đảm bảo đúng tiến độ, đồng thời xem xét năng lực tài chính, khả năng triển khai của các dự án để có biện pháp hỗ trợ, kiên quyết thu hồi đất các dự án không có khả năng triển khai thực hiện. Trong quá trình thực hiện thủ tục đầu tư, cơ quan cấp phép cần nghiên cứu, xem xét chặt chẽ năng lực, kinh nghiệm của nhà đầu tư để đảm bảo tiến độ và hiệu quả triển khai dự án sau khi cấp phép. 4. Về thu hút đầu tư Điều chỉnh cơ cấu đầu tư một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương và đảm bảo nâng cao hàm lượng vốn đầu tư, hàm lượng công nghệ trong các dự án để nâng cao hiệu quả sử dụng đất KCN. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư, điểm, tập trung vào các nhà đầu tư lớn, có uy tín trên thế giới, các dự án công nghệ cao, thu hút lao động có chất lượng cao, không ảnh hưởng đến môi trường. (Theo TC KCN VN) |