Thông tin chung:
Công trình: Nghĩa trang cổ đại của người Etruscan tại Cerveteri và Tarquinia (Etruscan Necropolises of Cerveteri and Tarquinia)
Địa điểm: Các tỉnh Rome và Viterbo, vùng Latium, Italia (N42 0 24,6 E12 6 6,8)
Thiết kế kiến trúc: Quy mô: Diện tích Di sản: 326,93 ha; Diện tích vùng đệm: 4.932,11 ha
Năm hình thành:
Giá trị: Di sản thế giới (năm 2004 hạng mục i, iii, iv)
Ý (Italia) là một quốc gia bao gồm một bán đảo được giới hạn bởi dãy Alps và một số hòn đảo xung quanh.
Ý nằm ở trung tâm Nam Âu và được coi là một phần của Tây Âu, có chung biên giới trên bộ với Pháp, Thụy Sĩ, Áo, Slovenia và các khu vực bao quanh của Thành phố Vatican và San Marino. Ý còn có vùng lãnh thổ ở Campione, Thụy Sĩ và Lampedusa (vùng biển Tunisia).
Quốc gia này có diện tích 301.340 km2, dân số 60,317 triệu người (năm 2020), thủ đô là Rome.
Do vị trí địa lý trung tâm ở Nam Âu và Địa Trung Hải, Ý là nơi sinh sống của vô số dân tộc và nền văn hóa.
Vào thời Cổ đại (năm 750 - 200 trước Công nguyên/TCN), đây là nơi cư trú chủ yếu của các dân tộc nói ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European language, có nguồn gốc từ từ Tây và Nam Á - Âu).
Bắt đầu từ thời Cổ điển (thế kỷ 8 TCN - thế kỷ 6 sau Công nguyên, chủ yếu gồm nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại), người Phoenicia (tồn tại năm 2500 TCN – 539 TCN) và người Carthage (Đế chế Carthage, tồn tại năm 814 TCN – 146 TCN) đã thành lập các thuộc địa chủ yếu ở khu vực nội địa Ý.
Người Hy Lạp (Ancient Greece) đã thành lập các khu định cư Magna Graecia tại miền nam nước Ý, trong khi người Etruscans (tồn tại năm 900 TCN –27 TCN) và người Celt lần lượt sinh sống ở miền trung và miền bắc nước Ý.
Một bộ tộc người Ý, được gọi là người Latins (Italic tribe), đã thành lập Vương quốc La Mã (Roman Kingdom, tồn tại năm 753 TCN – 509 TCN) vào thế kỷ thứ 8 TCN, sau này trở thành nước Cộng hòa La Mã (Roman Republic, tồn tại năm 509 TCN – 27 TCN).
Cộng hoà La Mã ban đầu chinh phục và đồng hóa các nước láng giềng trên bán đảo Ý, cuối cùng mở rộng và chinh phục các vùng đất của Châu Âu, Bắc Phi và Châu Á.
Vào thế kỷ 1 TCN, Đế chế La Mã (Roman Empire, tồn tại năm 27 TCN - 476 sau Công nguyên) nổi lên như một quyền lực thống trị khu vực Địa Trung Hải và trở thành một trung tâm văn hóa, chính trị và tôn giáo hàng đầu, hình thành nền văn minh La Mã Cổ đại (Pax Romana), một giai đoạn hơn 200 năm phát triển của luật pháp, công nghệ, kinh tế nghệ thuật và văn học Ý.
Trong suốt thời kỳ Trung Cổ, Ý vẫn là quê hương của con người và Đế chế La Mã, mà di sản của nó về văn hóa, thể chế, Kitô giáo và tiếng Latinh lan truyền khắp toàn cầu.
Vào đầu thời kỳ Trung Cổ, Ý phải chịu đựng sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã (Western Roman Empire, tồn tại vào năm 395–476/480), với việc lãnh thổ bị phân chia thành các tiểu quốc và các cuộc di dân của các bộ tộc Germanic, Huns, Slavs (Early Slavs) và Pannonian Avars.
Tại miền bắc và một phần miền trung nước Ý, vào thế kỷ 11, nhiều thị quốc (Italian City-states) và nước cộng hòa hàng hải (Maritime Republics) đã vươn lên thịnh vượng thông qua thương mại và ngân hàng, đặt nền móng cho chủ nghĩa tư bản hiện đại. Các thị quốc độc lập này đóng vai trò là trung tâm giao lưu thương mại chính của châu Âu với châu Á và Cận Đông, thường được hưởng một mức độ dân chủ cao hơn so với các quốc gia phong kiến trong các chế độ quân chủ đang thịnh hành khắp châu Âu thời bấy giờ. Một phần miền trung nước Ý nằm dưới sự kiểm soát của các quốc gia Giáo hoàng (Papal States; thần quyền Nhà nước của Giáo hội).
Phần lớn miền nam nước Ý vẫn là chế độ phong kiến cho đến thế kỷ 19. Đây là kết quả của sự kế thừa nền văn minh của người Byzantine, Arab, Norman, Angevin, Aragonese và từ các cuộc chinh phục của các quốc gia bên ngoài.
Tại miền đông nước Ý, tồn tại Đế quốc Byzantine hay Đế chế Đông La Mã (Byzantine Empire/ Eastern Roman Empire, tồn tại năm 330/395–1453), là sự tiếp nối của Đế chế La Mã trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ, khi thủ đô của nó là Constantinople (Thổ Nhĩ Kỳ). Trong khi phần phía tây của Đế chế La Mã đã trải qua quá trình Latinh hóa, thì phần phía đông của Đế chế (Byzantine) vẫn duy trì ở mức độ lớn nền văn hóa Hy Lạp. Sự sụp đổ của Đế chế Byzantine vào tay người Ottoman (Ottoman Empire, tồn tại năm 1299 – 1922) đôi khi được dùng để đánh dấu sự kết thúc của thời Trung cổ và sự khởi đầu của thời kỳ Hiện đại.
Thời kỳ Phục hưng (Renaissance, một giai đoạn lịch sử châu Âu, chuyển đổi từ thời Trung cổ sang Hiện đại, vào thế kỷ 15, 16) bắt đầu ở Ý và lan sang phần còn lại của châu Âu, mang lại mối quan tâm mới về chủ nghĩa nhân văn, khoa học, văn học và nghệ thuật.
Nền văn hóa Ý phát triển mạnh mẽ, sản sinh ra các nhà khoa học, nghệ sĩ và tư tưởng nổi tiếng.
Trong thời Trung cổ, các nhà thám hiểm người Ý đã khám phá ra những tuyến đường mới đến Viễn Đông và Tân thế giới, mở ra Kỷ nguyên Khai sáng (Age of Discovery) của Châu Âu.
Sau nhiều thế kỷ can thiệp và chinh phục từ bên ngoài cùng với sự cạnh tranh giữa các thị quốc nội bộ, nước Ý bị chia rẽ về mặt chính trị, tiếp tục bị chinh phục và phân chia bởi nhiều cường quốc châu Âu.
Vào giữa thế kỷ 19, chủ nghĩa dân tộc của Ý đã trỗi dậy.
Sau nhiều thế kỷ bị ngoại bang thống trị và chia rẽ, Ý gần như hoàn toàn thống nhất vào năm 1861, cùng với việc thành lập Vương quốc Ý (Kingdom of Italy, tồn tại năm 1861–1946).
Từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, miền bắc nước Ý nhanh chóng công nghiệp hóa, giúp quốc gia này trở thành một Đế quốc thuộc địa. Trong khi đó, tại miền nam nước Ý, phần lớn vẫn là cảnh nghèo đói. Sau Chiến tranh thế giới 2, Ý bãi bỏ chế độ quân chủ, thành lập chính thể cộng hòa dân chủ và trở thành một quốc gia phát triển.
Ý ngày nay được phân thành 20 khu vực (vùng) và 107 tỉnh, thành phố.

Bản đồ Italia và vị trí các tỉnh Rome và Viterbo, vùng Latium, Italia
Thời tiền La Mã tồn tại một nền văn minh của người Etruscan (Etruscan civilization, tồn tại năm 900 TCN – 27 TCN), một loại hình văn minh đô thị - thành bang.
Không còn nhiều di tích của người Etruscan cổ đại. Nổi bật trong số các di tích còn lại là Nghĩa trang cổ đại (necropoleis) Banditaccia tại thị trấn Cerveteri và Nghĩa trang cổ đại Monterozzi tại thị trấn Tarquinia, thuộc tỉnh Rome và Viterbo, vùng Latium, Ý.
Hai nghĩa trang này cung cấp phần lớn các khám phá khảo cổ quan trọng nhất, liên quan đến nền văn minh Etruscan cổ đại trong suốt chín thế kỷ. Hai nghĩa trang bao phủ một khu vực rộng lớn với diện tích 326,93 ha và vùng đệm 4.932,11 ha.
Nghĩa trang Banditaccia gần thị trấn cổ Cerveteri (Nghĩa trang Cerveteri) chứa hàng ngàn ngôi mộ được sắp xếp theo một quy hoạch giống như đô thị với những con phố, quảng trường nhỏ và các khu phố. Khu vực rộng 197,57 ha này có niên đại từ thế kỷ thứ 9 TCN và chứa rất nhiều loại mộ khác nhau: Các hầm mộ cắt vào đá; Các gò đất chứa nhiều hơn một ngôi mộ, một số mộ trong đó cũng được chạm khắc vào đá, có hình dạng như những túp lều hoặc ngôi nhà với vô số chi tiết. Đây là một trong những nghĩa trang lớn nhất thời cổ đại, tái hiện “Thành phố của người sống”. Vì có rất ít thông tin bằng văn bản còn sót lại về người Etruscan, nên địa điểm này cung cấp bằng chứng đặc biệt về đời sống gia đình của người Etruscan từ thời Cổ đại đến thời kỳ Hy Lạp.
Nghĩa trang Monterozzi tại thị trấn cổ Tarquinia (Nghĩa trang Tarquinia) chứa 6.000 ngôi mộ được cắt vào đá. Với diện tích 129,36 ha, đây là một trong những khu phức hợp rộng lớn nhất được biết đến. Ngôi mộ sớm nhất có niên đại từ thế kỷ thứ 7 TCN. Nghĩa trang nổi tiếng với 200 ngôi mộ được sơn vẽ. Những bức tranh này cung cấp bằng chứng chính duy nhất về tác phẩm nghệ thuật cổ điển thời tiền La Mã tồn tại ở khu vực Địa Trung Hải.
Hai nghĩa trang của người Etruscan tại hai thị trấn cổ Cerveteri và Tarquinia cung cấp bằng chứng quan trọng duy nhất về nhóm dân cư này, những người đã tạo ra nền văn hóa đô thị đầu tiên ở phía tây Địa Trung Hải, tồn tại trong khoảng 700 năm, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 1 TCN ở miền trung nước Ý, trải dài từ phía bắc Latium đến Tuscany.
Nghĩa trang đã được biết đến trong nhiều thế kỷ. Michelangelo đã đến thăm Tarquinia trong thời kỳ Phục hưng và một bản phác thảo liên quan được lưu giữ tại Kho lưu trữ Buonarroti của Florence.
Nghĩa trang cổ đại của người Etruscan tại Cerveteri và Tarquinia, tỉnh Rome và Viterbo, vùng Latium, Italia được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 2004) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Các nghĩa trang Tarquinia và Cerveteri là một tuyệt tác về tài năng sáng tạo của con người: Những bức tranh tường khổ lớn tại Nghĩa trang Tarquinia là những tác phẩm đặc biệt cả về hình thức lẫn nội dung, thể hiện khía cạnh cuộc sống, cái chết và tín ngưỡng tôn giáo của người Etruscan cổ đại; Nghĩa trang Cerveteri đặc biệt thể hiện về bối cảnh tang lễ, quy hoạch thị trấn và các kiến trúc được sử dụng trong một thành phố cổ.
Tiêu chí (iii): Hai nghĩa trang này là một bằng chứng độc đáo và đặc biệt cho nền văn minh Etruscan cổ đại, loại hình văn minh đô thị duy nhất ở Ý thời tiền La Mã. Hơn nữa, việc mô tả cuộc sống hàng ngày tại các bức bích họa trong các ngôi mộ và nhiều ngôi mộ thể hiện bản sao của những ngôi nhà Etruscan, là minh chứng độc đáo về nền văn minh đã biến mất này.
Tiêu chí (iv): Nhiều ngôi mộ ở Tarquinia và Cerveteri đại diện cho các loại công trình không còn tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào khác. Các nghĩa trang, bản sao của các quy hoạch thị trấn Etruscan, là một trong những nghĩa trang sớm nhất còn tồn tại trong khu vực.
Nền văn minh Etruscan (Etruscan civilization, tồn tại năm 900 TCN – 27 TCN) là một nền văn minh cổ đại do người Etruscan tạo ra. Đây là một dân tộc có chung ngôn ngữ và văn hóa, sinh sống tại Etruria ở Ý cổ đại và thành lập một liên bang các thành bang. Lãnh thổ của nền văn minh này hiện thuộc một phần của Ý, Thành phố Vatican, San Marino, Corse. Khai thác và buôn bán kim loại, đặc biệt là đồng và sắt, đã dẫn đến sự giàu có của người Etruscan. Họ đã mở rộng ảnh hưởng ở bán đảo Ý và các khu vực xung quanh.
Nền văn minh Etruscan thống trị Ý cho đến khi nó rơi vào tay Rome từ cuối thế kỷ thứ 4 TCN do hậu quả của Chiến tranh La Mã-Etruscan. Người Etruscan được cấp quyền công dân La Mã vào năm 90 TCN và vào năm 27 TCN, toàn bộ lãnh thổ Etruscan đã được sáp nhập vào Đế chế La Mã mới thành lập.
Phạm vi của nền văn minh Etruscan được đánh dấu bằng các thành phố. Các thành phố Etruscan phát triển mạnh mẽ trên hầu hết nước Ý trong Thời đại đồ sắt La Mã, đánh dấu phạm vi xa nhất của nền văn minh Etruscan. Các thành phố hay thành bang này dần dần bị đồng hóa, đầu tiên bởi người Italic ở phía nam, sau đó là người Celt ở phía bắc và cuối cùng bởi Cộng hòa La Mã.
Người ta không biết nhiều về kiến trúc của người Etruscan cổ đại. Những người đã tiếp thu các phong cách Ý bản địa và chịu ảnh hưởng hình dáng bên ngoài của kiến trúc Hy Lạp. Đến lượt mình, kiến trúc La Mã cổ đại bắt đầu với phong cách Etruscan và sau đó tiếp tục chịu ảnh hưởng của Hy Lạp. Các ngôi đền La Mã cho thấy nhiều điểm khác biệt về hình thức so với các ngôi đền Hy Lạp mà các ngôi đền Etruscan có, nhưng giống như người Hy Lạp, kiến trúc Etruscan sử dụng đá, sao chép chặt chẽ các phong Hy Lạp. Những ngôi nhà của những người giàu có thường rộng rãi và thoải mái.
Những nghĩa trang cổ đại của người Etruscan với các hầm mộ bên trong thường chứa đầy đồ tùy táng.
Kiến trúc Etruscan thường không được coi là một phần của kiến trúc cổ điển Hy Lạp-La Mã.
Bộ sưu tập nghệ thuật và hiện vật của người Etruscan cổ đại hiện được lưu giữ tại Villa Giulia là một biệt thự ở Rome , Ý, là Bảo tàng Quốc gia Etruscan (Museo Nazionale Etrusco).

Nền văn minh Etruscan và 12 thành bang của Liên minh Etruscan, Ý

Lãnh thổ Etruscan và các con đường lan truyền chính của những sản phẩm Etruscan
Nghĩa trang Banditaccia của người Etruscan tại thị trấn Cerveteri
Nghĩa trang Banditaccia của người Etruscan tại thị trấn Cerveteri (Cerveteri, Etruscan Necropolis of Banditaccia), thuộc thành phố Rome, vùng Lazio của Ý ( N42 0 24,60 E12 6 6,80). Diện tích Di sản 197,57ha; Diện tích vùng đệm 1.824,04 ha.


Sơ đồ Di sản Nghĩa trang Banditaccia của người Etruscan tại Cerveteri, Rome, Ý
Cerveteri một thị trấn cổ ở thành phố Rome. Người La Mã cổ đại gọi là Caere. Trước đó người Etruscan gọi là Caisra hoặc Cisra và người Hy Lạp gọi là Agylla.
Đây là địa điểm của một thành phố Etruscan cổ đại, một trong những thành phố Etruscan quan trọng nhất, với diện tích lớn hơn 15 lần thị trấn ngày nay.
Cerveteri là một trong những thành bang của Liên minh Etruscan và ở thời kỳ đỉnh cao, khoảng năm 600 TCN dân số của thành phố vào khoảng 25.000 – 40.000 người.
Thành phố cổ này nằm cách biển khoảng 7 km và giàu có nhờ thương mại và khai thác quặng sắt.
Người ta biết rất ít về thành phố cổ này, mặc dù một số phần của bức tường thành phố vẫn còn nhìn thấy được cho đến ngày nay. Khi khai quật, đã tìm thấy tàn tích của 1 nhà hát và 3 nghĩa trang.
Thị trấn cổ Cerveteri hiện được nhiều người biết tới bởi Di sản Nghĩa trang Banditaccia.
Nghĩa trang Banditaccia rộng 197,57 ha, có niên đại từ thế kỷ thứ 9 TCN, là một trong những nghĩa trang lớn nhất thời cổ đại, như tái hiện thành phố của người sống.
Vì có rất ít thông tin bằng văn bản còn sót lại về người Etruscan, nên địa điểm này cung cấp bằng chứng đặc biệt về kiến trúc lăng mộ, cũng như văn hóa của người Etruscan từ thời cổ đại đến thời kỳ Hy Lạp.
Một số ngôi mộ trong Nghĩa trang đã bị khai quật. Người ta đã tìm thấy những đồ vật phong phú và tinh xảo, bao gồm đồ gốm và đồ trang sức, mà ngày nay tô điểm cho nhiều bảo tàng trên thế giới.

Phối cảnh một góc Nghĩa trang Banditaccia của người Etruscan thị trấn cổ Cerveteri, Rome, Ý
Quan tài gốm
Văn hóa Etruscan rất coi trọng việc chăm sóc hài cốt của những người chết. Điều này được thể hiện qua số lượng tài nguyên lớn được đầu tư vào việc xây dựng lăng mộ và nghệ thuật tang lễ của họ, đến nỗi nghĩa trang còn được gọi là Thành phố của người chết (necropoleis).
Người chết được hỏa táng. Tro cốt được đặt vào trong các quan tài bằng gốm.
Một trong những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng và quan trọng tại Di sản Nghĩa trang Banditaccia là Tác phẩm Quan tài hình 2 vợ chồng (Sarcophagus of the Spouses), được coi là một trong những kiệt tác của Nghệ thuật Etruscan. Đây là một quan tài chứa tro cốt dạng hình người vào cuối thế kỷ 6 TCN, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Etruscan Quốc gia tại Villa Giulia, Rome (National Etruscan Museum at Villa Giulia in Rome).
Chiếc quan tài được làm bằng đất nung và từng được sơn màu sáng.
Hình dáng bên ngoài của quan tài mô tả một người đàn ông và một người phụ nữ nằm trên một chiếc ghế dài có đệm (kline). Tỷ lệ cơ thể của người đàn ông và người phụ nữ đã được kéo dài như thường thấy trong thời kỳ Cổ xưa. Tóc của họ đã được tạo kiểu theo kiểu tết. Khuôn mặt của cặp đôi cho thấy họ đang mỉm cười và hạnh phúc. Chiếc quan tài này được tạo ra từ bốn mảnh gốm, được nung riêng biệt và sau đó được lắp ráp lại.

Quan tài hình 2 vợ chồng, Nghĩa trang Banditaccia của người Etruscan tại Cerveteri, Rome, Ý

Bình đựng tro cốt hình người, Nghĩa trang Banditaccia của người Etruscan tại Cerveteri, Rome, Ý
Bức bích họa
Bên trong các ngôi mộ của người Etruscan có nhiều bức bích họa, phù điêu trang trí trên tường, trần.
Các bức bích họa, phù điêu mô tả các hoạt động xã hội như những bữa tiệc thịnh soạn, tang lễ với những người, cả nam và nữ, có địa vị trong xã hội, trong một gia đình, các nhạc công chơi nhạc và nhảy múa.
Những ngôi mộ
Nghĩa trang Banditaccia có nhiều ngôi mộ với nhiều hình dạng theo 3 giai đoạn:
Những ngôi mộ đầu tiên từ thế kỷ thứ 9 TCN: Là những ngôi mộ đơn giản, dạng như một cái hố, nơi chứa tro cốt của người chết (Pit tombs). Chúng được hình thành bởi một lỗ hình chữ nhật đào xuống đất, đôi khi được phủ bằng các phiến đá, hoặc đá hoặc gạch đơn giản, được liên kết bằng vôi và hiếm khi được trát.
Những ngôi mộ vào thế kỷ thứ 6 TCN với hai loại lăng mộ: Lăng mộ kiểu gò mộ (tumulus) và ngôi mộ vuông đơn giản (dice) được xây dựng thành hàng dài dọc theo các con đường trong nghĩa trang.
Gò mộ là những cấu trúc hình tròn (tholos) được xây dựng bằng đá tuf (loại đá mềm, được tạo thành từ tro núi lửa), trên đỉnh đắp đất tạo gò. Bên trong gò mộ bố trí tái hiện ngôi nhà của người chết, bao gồm một hành lang (dromos), một sảnh trung tâm và một số phòng. Các cấu trúc này được tạo bởi cấu trúc khắc vào trong những tảng đá tự nhiên (living rock/ Rock-cut architecture).
Những ngôi mộ vào thế kỷ thứ 3 TCN: Một số ngôi mộ được đánh dấu bằng một tấm bia, cột hay tác phẩm điêu khắc (cippi). Những bia mộ này còn mang ý nghĩa ma thuật và tôn giáo, đánh dấu sự khác biệt giữa nam và nữ. Tại đây, ngôi mộ của nam được đánh dấu bằng cột hình trụ, ngôi mộ của nữ được đánh dấu bằng biểu tượng của một ngôi nhà nhỏ hoặc đền thờ.

Phối cảnh một góc Nghĩa trang Banditaccia của người Etruscan tại Cerveteri, Rome, Ý

Sơ đồ vị trí một số ngôi mộ quan trọng tại Nghĩa trang Banditaccia của người Etruscan tại Cerveteri, Rome, Ý
Những ngôi mộ quan trọng nhất trong Nghĩa trang gồm:
1. Lăng mộ Regolini-Galassi
Lăng mộ Regolini-Galassi (Tomb Regolini-Galassi): Là một trong những ngôi mộ gia đình Etruscan giàu có nhất ở Cerveteri, một thành phố cổ ở Ý cách Rome khoảng 50–60 km về phía bắc-tây bắc. Lăng mộ có niên đại từ giữa thế kỷ thứ 7 TCN.
Lăng mộ nằm biệt lập, gần với một cụm dân cư.
Ngôi mộ được phát hiện vào năm 1836, trong tình trạng nguyên vẹn và được đặt theo tên của những người khai quật, tướng Vincenzo Galassi và linh mục trưởng của Cerveteri, Alessandro Regolini.
Ngôi mộ có niên đại từ năm 680/675-650 TCN. Đồ tùy táng đi kèm với hai người đã khuất bao gồm vạc đồng và đồ trang sức bằng vàng có nguồn gốc Etruscan theo phong cách phương Đông.
Ngôi mộ chứa hai phòng chôn cất, nằm ở hai bên của một hành lang dài 37m và 1,8 m.
Phần dưới của ngôi mộ được cắt vào đá tufa, trong khi phần trên được xây dựng bằng các khối đá vuông, tạo một phần nhô ra do các khối đá kéo dài chồng lên nhau.
Lăng mộ được bao phủ bởi một gò đất cao 46 m, tạo mặt tiền của một tượng đài.
Các đồ vật trong mộ hiện được lưu giữ trong Bảo tàng Etruscan Gregorian (Gregorian Etruscan Museum).
Các cuộc khai quật tại địa điểm này đã phát hiện ra một phụ nữ hoàng gia được chôn cất trong phòng giam cuối cùng và một người đàn ông đã hỏa táng trong phòng giam bên phải, cùng vô số đồ vật, bao gồm đồ trang sức bằng vàng, đồ bạc, đồ mạ vàng, đồ đồng và một cỗ xe ngựa. Ngoài ra còn tìm thấy trên chiếc giường bằng đồng trong một phòng phụ là thi thể của một người nữa, danh tính của người này vẫn là một bí ẩn chưa được giải đáp.
Một số đồ vật thể hiện các trang trí của nền văn hóa Villanovan (Villanovan culture, khoảng năm 900 – 700 TCN, được coi là giai đoạn đầu tiên của nền văn minh Etruscan; Người Villannovan giới thiệu nghề luyện sát đến Bán đảo Ý; thực hành hỏa táng và chôn tro cốt của người chết trong bình gốm). Nổi bật trong số đó là đồ trang sức với kỹ thuật chế tác điêu luyện, gồm: Một chiếc trâm cài lớn, được trang trí bằng 5 con sư tử nhỏ được miêu tả đang sải bước trên bề mặt của nó; Một tấm bảng lớn dài 25 cm, được trang trí bằng các hình ảnh động vật có nguồn gốc từ phương Đông; Diềm trang trí hình kỳ lân…
Những ảnh hưởng phương Đông hóa nổi bật trong lăng mộ, kết hợp các phong tục của người Etruscan với phong tục của Hy Lạp và Đông Địa Trung Hải. Việc sử dụng nhiều vật liệu trong các đồ vật bao gồm sắt, thiếc,
đồng, bạc và vàng, minh họa cho tầm quan trọng của sự giàu có về khoáng sản trong khu vực, nơi chứng kiến các khu định cư của người Villanovan, phát triển từ những ngôi làng nông nghiệp nghèo nàn thành những thành phố thịnh vượng.
Những di tích trang trí thể hiện nhiều điều về giới tinh hoa Etruscan, như nhu cầu giao tiếp và củng cố địa vị kinh tế xã hội, bằng cách tích lũy và trưng bày một số loại đồ vật phù hợp với địa vị. Không chỉ nhiều đồ vật trong số này được chế tác từ những vật liệu có giá trị nội tại như vàng, mà chúng còn có sức hấp dẫn bởi mặt hàng nhập khẩu và kỳ lạ.

Sơ đồ Lăng mộ Regolini-Galassi, Cerveteri, Rome, Ý

Tấm bảng trang trí 5 con sư tử, Lăng mộ Regolini-Galassi, Cerveteri, Rome, Ý

Tấm bảng trang trí các động vật có nguồn gốc phương Đông, Lăng mộ Regolini-Galassi, Cerveteri, Rome, Ý
2. Lăng mộ Túp lều
Lăng mộ Túp lều (Tomba della Capanna, hình vẽ ký hiệu 2) lấy theo tên do mô phỏng theo một túp lều, nơi ở của người Etruscan. Lăng mộ có niên đại từ thế kỷ thứ 7 TCN.
Lăng mộ nằm bên trong Tumulus II, một trong những gò mộ lớn nhất trong nghĩa trang. Gò mộ đặt 4 lăng mộ: Lăng mộ Túp lều; Lăng mộ Bình hoa Hy Lạp; Lăng mộ Dolia và Andirons và Lăng mộ Giường tang lễ.
Ngôi mộ có một hành lang dài dẫn đến phòng tang lễ đầu tiên. Cấu trúc trần dạng mái dốc với một thanh dầm ở giữa, mô phỏng một túp lều. Căn phòng đặt những chiếc ghế dài ở hai bên. Từ đây dẫn đến một căn phòng thứ hai nhỏ hơn, nơi đặt xác của người chết, trên một lớp sỏi sông.

Sơ đồ 4 lăng mộ bên trong Gò mộ Tumulus II, Cerveteri, Rome, Ý

Bên trong Lăng mộ Túp lều, Cerveteri, Rome, Ý
3. Lăng mộ của những chiếc bình Hy Lạp
Lăng mộ của những chiếc bình Hy Lạp (Tomba dei Vasi Greci, hình vẽ ký hiệu 3) lấy theo tên như vậy do có rất nhiều bình đựng đồ nhập khẩu từ Hy Lạp được tìm thấy bên trong. Lăng mộ có niên đại vào thế kỷ thứ 6 TCN.
Lăng mộ nằm bên trong Tumulus II, một trong những gò mộ lớn nhất trong nghĩa trang. Gò mộ đặt 4 lăng mộ: Lăng mộ Túp lều; Lăng mộ Bình hoa Hy Lạp; Lăng mộ Dolia và Andirons và Lăng mộ Giường tang lễ.
Ngôi mộ đã bị xâm phạm nhiều lần và thậm chí được sử dụng làm chuồng cừu. Nơi đây vẫn còn lưu giữ được một số bình hoa Hy Lạp.
Ngôi mộ có cấu trúc gồm một hành lang vào ngắn, hai bên là hai phòng phụ đối xứng nhau. Trong cùng là một phòng chính, đặt ngang so với lối vào. Trong phòng chính, hai bên có nhiều băng ghế, dành để đặt bình đựng tro cốt và quan tài, còn phía sau là ba lối vào các phòng chôn cất khác.

Bên trong Lăng mộ của những chiếc bình Hy Lạp, Cerveteri, Rome, Ý

Chi tiết chiếc bình bên trong Lăng mộ của những chiếc bình Hy Lạp, Cerveteri, Rome, Ý
4. Lăng mộ của Dolia và Andirons
Lăng mộ của Dolia và Andirons (Tomba dei Dolii e Degli Alari, hình vẽ ký hiệu 4) lấy theo tên của bình chứa và giá đỡ đồ đạc lưu giữ trong hầm mộ. Lăng mộ có niên đại từ cuối thế kỷ thứ 6 TCN.
Lăng mộ nằm bên trong Tumulus II, một trong những gò mộ lớn nhất trong nghĩa trang. Gò mộ đặt 4 lăng mộ: Lăng mộ Túp lều; Lăng mộ Bình hoa Hy Lạp; Lăng mộ Dolia và Andirons và Lăng mộ Giường tang lễ.
Ngôi mộ có cấu trúc rất đều đặn; một hành lang lối vào ngắn, nhìn ra hai phòng đối xứng nhau, được đặt trước phòng chính, hình chữ nhật và được đào thẳng hàng với hành lang lối vào, tiếp theo là một phòng chôn cất khác. Bên trong mộ có nhiều dolia (dolium, số nhiều là dolia, là một vật chứa lớn, thường được làm bằng đất nung, dùng để chứa thực phẩm dạng lỏng như rượu, dầu…) hoặc thực phẩm khô như ngũ cốc, các loại đậu.
Ngoài các bình chứa, tại đây còn tìm thấy giá lò sưởi (andari) còn nguyên vẹn, bên trên đặt các dụng cụ nấu thịt như chậu, vạc, xiên, chảo gang và rất nhiều nguyên vật liệu quý giá.

Bên trong Lăng mộ Dolia và Andirons, Cerveteri, Rome, Ý
5. Lăng mộ Giường tang lễ
Lăng mộ của Giường tang lễ (Tomba dei Letti Funebri, hình vẽ ký hiệu 5) lấy theo tên từ 2 chiếc quan tài phụ nữ đồ sộ nằm trong gian chính. Lăng mộ có niên đại từ cuối thế kỷ thứ 6 TCN.
Lăng mộ nằm bên trong Tumulus II, một trong những gò mộ lớn nhất trong nghĩa trang. Gò mộ đặt 4 lăng mộ: Lăng mộ Túp lều; Lăng mộ Bình hoa Hy Lạp; Lăng mộ Dolia và Andirons và Lăng mộ Giường tang lễ.
Bên trong lăng mộ có một gian chính với 2 quan tài phụ nữ đồ sộ, tiếp theo là một không gian khác thẳng hàng, nơi đặt những chiếc ghế tang lễ đơn giản. Trong hai phòng bên nhỏ hơn, có thêm hai bệ (giường tang), một dành cho nam và một dành cho nữ.

Bên trong Lăng mộ Giường tang lễ, Cerveteri, Rome, Ý
6. Lăng mộ tranh Sư tử
Lăng mộ tranh Sư tử (Tomba dei Leoni Dipinti, hình vẽ ký hiệu 6) lấy tên theo bức tranh vẽ trên tường mô tả một người đàn ông đứng giữa hai con sư tử và bức tranh vẽ những con sử tử bên trong các phòng khác. Lăng mộ có niên đại từ cuối thế kỷ 7 TCN.
Lăng mộ nằm tại một trong những gò mộ lớn nhất trong nghĩa trang. Gò mộ đặt 2 lăng mộ: Lăng mộ Tranh Sư tử và Lăng mộ Khiên và Ghế.
Vào lăng mộ qua một hành lang ngoài trời với một cầu thang dài và thấp, ở cuối cầu thang có hai cánh cửa hình vòm mở vào các phòng, đặt hai bên hành lang. Phòng chính có hai cột trụ độc lập, bên trong đặt hai bệ (giường) chạm khắc vào trong đá. Các phòng phụ, bên trong đặt các bệ, băng ghế và hốc tường chạm vào trong đá.
Các bức vẽ người đàn ông đứng giữa hai con sư tử là một trong những hình ảnh miêu tả con người lâu đời nhất trong nghệ thuật Etruscan.
Ngoài các bức tranh vẽ hình sư tử, nội thất của lăng mộ đáng chú ý bởi mô phỏng theo cấu trúc các ngôi nhà vùng Ceregna, gồm: trụ cột, dầm đỡ mái. Trần nhà có hai dạng, dạng phẳng và dạng tam giác với đỉnh hướng về phía cửa.

Tổng mặt bằng Lăng mộ tranh Sư tử và Lăng mộ Khiên và Ghế, Cerveteri, Rome, Ý

Hình ảnh phục dựng Tranh vẽ Sư tử Bên trong Lăng mộ Sư tử, Cerveteri, Rome, Ý, hiện không còn tồn tại

Cấu trúc xây dựng bên trong Lăng mộ Sư tử, Cerveteri, Rome, Ý

Cấu trúc xây dựng trần phẳng và trần dốc bên trong Lăng mộ Sư tử, Cerveteri, Rome, Ý
7. Lăng mộ Khiên và Ghế
Lăng mộ Khiên và Ghế (Tomba degli Scudi e delle Sedie, hình vẽ ký hiệu 7) lấy tên theo những chiếc khiên và ghế trong phòng mộ. Lăng mộ có niên đại từ cuối thế kỷ 7 đến đầu thế kỷ thứ 6 TCN.
Lăng mộ nằm tại một trong những gò mộ lớn nhất trong nghĩa trang. Gò mộ đặt 2 lăng mộ: Lăng mộ Tranh Sư tử và Lăng mộ Khiên và Ghế.
Gò mộ có đường kính 40m với cấu trúc kiến trúc đặc trưng của nhiều ngôi mộ trong Nghĩa trang.
Lăng mộ gồm một cửa ra vào, qua một hành lang (Dromos) ngắn dẫn đến tiền sảnh, nơi có hai phòng mở theo chiều ngang và đến một phòng chính hình chữ nhật có mái bằng và dầm cao. Phía sau có ba căn phòng nhỏ.
Sáu chiếc bệ hay giường được đục vào đá tuf, có chân trụ. Bên trên đặt các quan tài.
Bên trong phòng chính có 14 chiếc khiên được khắc trên tường.
Trên bức tường phía sau, giữa cửa ra vào và hốc trang trí, có 2 chiếc ghế có lưng cong và 1 chiếc ghế đẩu. Bên trên ghế đặt các bức tượng bằng đất nung.

Bên trong Lăng mộ Khiên và Ghế, Cerveteri, Rome, Ý
8. Lăng mộ Đầu cột
Lăng mộ Đầu cột (Tomba dei Capitelli, hình vẽ ký hiệu 8) lấy tên theo hai đầu cột theo phong cách Ionic đặt trong phòng chính. Lăng mộ có niên đại từ giữa thế kỷ thứ 6 TCN.
Từ lối vào Lăng mộ có một hành lang nhỏ dẫn đến 3 căn phòng dành để chôn cất người chết, gồm 2 phòng nhỏ nằm ở hai bên hành lang trước phòng chính.
Bên trong Lăng có trần phẳng với các phù điêu mô phỏng các dầm gỗ và mái tranh, mô phỏng ngôi nhà của người Etruscan. Trong phòng mộ có một số bệ, dành đặt thi thể người chết được quấn trong vải liệm, không được đặt trong quan tài.
Ở phòng phía sau phòng mộ chính có 2 bệ, một bệ dành cho người đàn ông và bệ còn lại dành cho người phụ nữ, nhiều khả năng là những người sáng lập ra gia đình.

Bên trong Lăng mộ Đầu cột, Cerveteri, Rome, Ý
9. Lăng mộ Khung
Lăng mộ Khung (Tomba della Cornice, hình vẽ ký hiệu 9) lấy theo tên như vậy là do có một khung chạy dọc theo đỉnh của tất cả các bức tường và được dùng để trưng bày các bình hoa và đồ nội thất nhỏ. Lăng mộ có niên đại từ thế kỷ thứ 6 TCN.
Lăng mộ nằm bên trong một gò mộ tròn nhỏ.
Ngôi mộ có cấu trúc rất đều đặn gồm một hành lang lối vào ngắn, hai bên là phòng đối xứng nhau, được đặt trước phòng chính. Phòng chính hình chữ nhật, nằm ngang so với hành lang lối vào.
Hai bên phòng có nhiều băng ghế, dành để đặt bình đựng tro cốt và quan tài, phía sau có ba lối vào dẫn đến ba phòng chôn cất, phòng ở giữa dành cho những người sáng lập gia tộc. Những thanh dầm được đục vào trần nhà mô phỏng theo ngôi nhà của người Etruscan.

Bên trong Lăng mộ Khung, Cerveteri, Rome, Ý
10. Lăng mộ Ngôi nhà nhỏ
Lăng mộ Ngôi nhà nhỏ (Tomba della Casetta, hình vẽ ký hiệu 10) lấy theo tên như vậy là do có hình thức như một ngôi nhà nhỏ nằm dưới lòng đất. Lăng mộ có niên đại từ thế kỷ thứ 6 TCN.
Ngôi mộ được đào cắt sâu vào một bờ đá tuf, có cấu trúc kiến trúc gồm: Từ lối vào qua một hành lang ngắn dẫn đến phòng tang lễ chính. Từ đây, dẫn đến 3 phòng tang lễ khác, được sắp xếp theo hình chữ thập. Các cánh cửa phòng mộ được trang trí bằng những mái vòm nhỏ và những hốc cửa sổ nhỏ được thiết kế đặc biệt tinh xảo. Trong lăng mộ có 6 bệ (giường) tang.

Bên ngoài Lăng mộ Ngôi nhà nhỏ, Cerveteri, Rome, Ý

Bên trong Lăng mộ Ngôi nhà nhỏ, Cerveteri, Rome, Ý
11. Lăng mộ Phù điêu
Lăng mộ Phù điêu (Tomba dei Rilievi, hình vẽ ký hiệu 11) lấy theo tên của của các bức phù điêu trát vữa bên trong lăng mộ, thay vì các bức bích họa thông thường. Lăng mộ có niên đại vào thế kỷ thứ 4-2 TCN.
Lăng mộ được phát hiện vào năm 1847.
Ngôi mộ thuộc về gia đình Matuna theo các dòng chữ khắc bên trong phòng. Phòng hình chữ nhật được đi vào thông qua một bậc thang dốc xuống. Trung tâm của căn phòng được bao quanh bởi một bệ cao, được ngăn cách bởi các gờ thấp thành 32 không gian để đặt xác người chết.
Phía trên những bệ này là 12 hốc hình chữ nhật được chạm khắc trên tường, cung cấp không gian cho nhiều người chết hơn. Các hốc được mô phỏng theo những chiếc giường có gối trát vữa. Hốc trung tâm ở bức tường phía sau sâu hơn, cho phép đặt một cặp vợ chồng đã chết cạnh nhau. Bên trong các hốc được trang trí phù điêu mô tả các vị thần và ác quỷ.
Các bức tường và hai trụ đứng riêng biệt bên trong lăng mộ được trang trí bằng phù điêu vữa trát mô tả các vật dụng gia đình, vật nuôi và các loài động vật khác. Một số đồ vật tượng trưng cho quyền lực của gia đình Matuna với các loại mũ sắt, áo giáp, khiên và vũ khí.
Các đồ trang trí mang lại ấn tượng chân thực về nội thất của những ngôi nhà Etruscan. Vì không có tủ nên mọi thứ đều được treo trên tường. Món đồ nội thất duy nhất là một chiếc rương ở chân hốc trung tâm trên bức tường phía sau. Chiếc rương này được dùng để cất giữ đồ vật có giá trị. Vật liệu gấp ở trên cùng của chiếc rương này là tấm vải lanh để viết văn bản tôn giáo hoặc hồ sơ gia đình.

Sơ đồ mặt bằng, mặt cắt Lăng mộ Phù điêu, Cerveteri, Rome, Ý

Lối vào Lăng mộ Phù điêu, Cerveteri, Rome, Ý

Bên trong Lăng mộ Phù điêu, Cerveteri, Rome, Ý
Nghĩa trang Monterozzi của người Etruscan tại thị trấn Tarquinia
Nghĩa trang Monterozzi của người Etruscan tại thị trấn Tarquinia (Tarquinia, Etruscan Necropolis of Monterozzi), tỉnh Viterbo, vùng Lazio , miền Trung nước Ý (N42 15 1,60 E11 46 11,50). Diện tích Di sản 129,36 ha; Diện tích vùng đệm 3.108,07 ha.
Tarquinia là một thị trấn cổ, trước đây là Corneto. Năm 1922, thành phố được theo tên thành phố cổ Tarquinia.
Đây là một trong những thành phố Etruscan cổ xưa và quan trọng nhất.
Nhiều nghi lễ và nghi thức tôn giáo La Mã bắt nguồn từ Tarquinia.
Vào thế kỷ thứ 8 TCN, Tarquinia như một thị quốc thương mại.
Vào cuối thế kỷ thứ 5 và trong nửa đầu thế kỷ thứ 4 TCN, Tarquinia đã vượt qua nhiều thành phố Etruscan khác về quyền lực và ảnh hưởng.
Thị trấn cổ Tarquinia hiện được nhiều người biết tới bởi Di sản Nghĩa trang Monterozzi, có niên đại từ thời kỳ Đồ sắt, hoặc thời kỳ Villanovan (thế kỷ thứ 9 TCN), cho đến thời La Mã.
Tương tự như Nghĩa trang Banditaccia của người Etruscan tại thị trấn Cerveteri, Nghĩa trang Monterozzi của người Etruscan tại thị trấn Tarquinia gồm những ngôi mộ tạc vào trong đá, trên bề mặt đắp cao như gò đất, đôi khi có kích thước ấn tượng để tăng cường quyền lực và uy tín của giới quý tộc, đặc biệt trong những ngôi mộ của hoàng gia. Nhiều ngôi mộ như bản sao của những ngôi nhà Etruscan, là bằng chứng độc đáo cho nền văn hóa đã biến mất này.
Nghĩa trang Monterozzi chứa 6.000 ngôi mộ được cắt vào đá và đắp đất bên trên tạo thành gò mộ. Ngoài ra, tại đây còn nổi tiếng với 200 ngôi mộ được sơn vẽ, ngôi mộ sớm nhất có niên đại từ thế kỷ thứ 7 TCN.
Những bức tranh này cung cấp bằng chứng chính duy nhất về tác phẩm nghệ thuật cổ điển thời tiền La Mã tồn tại ở lưu vực Địa Trung Hải. Các ngôi mộ được sơn vẽ của nghĩa trang là tài liệu lớn nhất về nghệ thuật hội họa Etruscan và là minh chứng duy nhất cho cuộc sống thường ngày, các nghi lễ và thần thoại của người Etruscan.
Các bức bích họa thể hiện nhiều chủ đề khác nhau, bao gồm các nghi lễ, động vật, chủ đề ma thuật, khiêu vũ và nhạc cụ.


Sơ đồ Di sản Nghĩa trang Monterozzi của người Etruscan tại Tarquinia, Ý
Khu vực Di sản Nghĩa trang Monterozzi chạy dài theo hướng đông tây, theo chiều dài có thể phân làm 2 phần: Phần phía tây và phần phía đông.
Phần phía tây Khu vực Di sản Nghĩa trang Monterozzi có hàng rào bảo vệ bao quanh, gồm một số lăng mộ chính:

Sơ đồ vị trí một số lăng mộ chính tại phần phía tây Khu vực Di sản Nghĩa trang Monterozzi, Tarquinia, Ý
1) Lăng mộ của Những người tung hứng
Lăng mộ của những người tung hứng (Tomb of Juggler, hình vẽ ký hiệu 1) lấy theo tên hình vẽ những người đang tung hứng trong các trò chơi và điệu nhảy để tôn vinh người đã khuất.
Lăng mộ có niên đại vào thế kỷ 6 TCN.
Ngôi mộ được phát hiện vào năm 1961.
Lăng mộ gồm một phòng mộ duy nhất với trần nhà dốc đôi. Trên sàn, vẫn có thể nhìn thấy các hốc để chân của chiếc bệ giường chôn cất duy nhất.

Bức tranh miêu tả những người trong các trò chơi, Lăng mộ của Những người tung hứng, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
2) Lăng mộ Lều săn bắn
Lăng mộ Lều săn bắn (Tomb of the Hunting Lodge, hình vẽ ký hiệu 2) lấy theo hình vẽ phủ bên trong nội thất phòng mộ, như một chiếc lều, được dựng lên trong các chuyến đi săn. Vải tạo nên chiếc lều rất nhẹ và gần như vô hình, cho phép những người bên trong lều có thể nhìn thấy quang cảnh bên ngoài.
Lăng mộ có niên đại vào thế kỷ 6 TCN.
Ngôi mộ, được phát hiện vào năm 1962.
Lăng mộ có một phòng mộ hình tứ giác duy nhất với mái dốc đôi. Trên các bức tường bên và phía sau có một băng ghế cao và liên tục, nơi đặt đồ tùy táng, và ở giữa có một bệ giường chôn cất đặt thi thể của người đã khuất.

Hình ảnh các bức tranh xung quanh phòng mộ, Lăng mộ Nhà săn bắn, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
3) Lăng mộ Pulcella
Lăng mộ Pulcella (Tomb of the Pulcella, hình vẽ ký hiệu 3) lấy theo tên hình ảnh một cô hầu gái trẻ được vẽ trên bức tường bên trái hầm mộ.
Lăng mộ có niên đại vào thế kỷ 5 TCN.
Ngôi mộ được phát hiện vào năm 1865.
Trên bức tường phía sau có một hốc tường được trang trí mô phỏng theo một ngôi đền. Trên các bức tường bên có hình vẽ mô tả các cặp đôi đang dự tiệc.

Hình ảnh cô hầu gái trẻ, Lăng mộ Pulcella, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
4) Lăng mộ Sư tử cái
Lăng mộ của những chú sư tử cái (Tomb of the Lionesses, hình vẽ ký hiệu 5) lấy theo tên hình ảnh một con sư tử cái vẽ trên tường hầm mộ.
Lăng mộ có niên đại vào thế kỷ 6 TCN (năm 530-520 TCN).
Ngôi mộ được phát hiện vào năm 1874.
Lăng mộ gồm một hầm mộ nhỏ hình tứ giác với trần nhà dốc đôi. Trần được đỡ bởi sáu cột kiểu Tuscan.
Trên các bức tường hai bên phòng mộ vẽ hai người nam tham gia tiệc, nằm trên đệm.
Trên bức tường phía sau vẽ các vũ công và nhạc công đang chiêu đãi khách tại bữa tiệc.

Hình ảnh sư tử cái, Lăng mộ Sư tử cái, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý

Hình ảnh vũ công và nhạc công, Lăng mộ Sư tử cái, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
5) Lăng mộ Săn bắn và câu cá
Lăng mộ Săn bắn và câu cá (Tomb of Hunting and Fishing, hình vẽ ký hiệu 5) lấy tên theo hình ảnh săn bắn và câu cá trang trí bên trong hầm mộ.
Lăng mộ có niên đại vào thế kỷ thứ 6 TCN (khoảng năm 530 – 500 TCN).
Lăng mộ được phát hiện vào năm 1873, được cho là một trong những lăng mộ Tarquinian đẹp nhất và nguyên bản nhất từ thời kỳ Hậu Cổ đại.
Lối vào lăng mộ dẫn đến tiền sảnh, từ đây có một lối vào dẫn đến phòng mộ chính.
Các bức bích họa trên tường mô tả cảnh săn bắn và tiệc tùng, là những hoạt động điển hình của tầng lớp quý tộc Etruscan, thể hiện địa vị của những người được chôn cất trong lăng mộ.
Các bức bích họa trên tường của tiền sảnh cho thấy những nhân vật gần như khỏa thân, dường như đang tham gia vào một điệu nhảy nghi lễ thờ thần Dionysian (trong tôn giáo và thần thoại Hy Lạp cổ đại, là thần làm rượu, vườn cây ăn quả, khả năng sinh sản, lễ hội và là vị thần về sự phục sinh).
Đầu hồi của bức tường phía sau tiền sảnh cho thấy một cảnh săn bắn, miêu tả những người thợ săn và chó trở về với con mồi.
Đầu hồi của bức tường phía sau của phòng mộ chính là một bức bích họa về cảnh tiệc tùng. Một người đàn ông và một người phụ nữ ăn mặc chỉnh tề nằm trên ghế dài (có thể là người chồng và vợ được chôn cất trong lăng mộ). Họ được bao quanh bởi hai người hầu rượu khỏa thân và chơi đàn. Ngoài ra còn có hai cô gái trẻ đang đan vòng hoa (có thể là hai con gái của gia chủ). Những bức bích họa mà ngôi mộ được biết đến nhiều nhất nằm bên dưới đầu hồi của phòng chính. Chúng cho thấy cảnh biển với vách đá, thuyền, ngư dân với lao móc và lưới, thợ săn với dây ná, chim nước và cá heo nhảy (thể hiện môi trường tự nhiên của bờ biển Tarquinia). Bức tường phía sau có một hốc để hỏa táng.
Các hình vẽ bên trong phòng mộ được trình bày theo nguyên tắc kết hợp với không gian phòng (gắn với điểm tụ), tạo thành các ảo ảnh.

Bức tranh trang trí trong tiền sảnh, Lăng mộ Săn bắn và câu cá, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý

Bức tranh mô tả săn bắt cá trong phòng mộ, Lăng mộ Săn bắn và câu cá, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
6) Lăng mộ Cardarelli
Lăng mộ Cardarelli (Cardarelli Tomb, hình vẽ ký hiệu 8) được đặt theo tên nhà thơ nổi tiếng người Tarquinian là Vincenzo Cardarelli (năm 1887 – 1959).
Lăng mộ có niên đại vào thế kỷ 6 TCN.
Ở giữa bức tường phía sau hầm mộ vẽ một cánh cửa, hai bên có hai người đang biểu diễn.
Trên bức tường bên trái, một hình người, đi trước là một nhạc công đang chơi đàn aulos, đang đi về phía một người phụ nữ ăn mặc sang trọng, có lẽ là người đã khuất được chôn trong ngôi mộ.
Trên bức tường bên phải là một vũ công, một nhạc công, một người hầu và một người chơi đàn cottabus đang rót rượu vào một chiếc bình.

Bức tranh hai người đang biểu diễn, Lăng mộ Cardarelli, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý

Bức tranh vũ công, Lăng mộ Cardarelli, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
7) Lăng mộ 5513 hay Lăng mộ Claudio Bettini
Lăng mộ 5513 (Tomb 5513, hình vẽ ký hiệu 10), hiện được đặt theo tên của nhà khảo cổ học Claudio Bettini (nhà sử học người Ý, năm 1940- 1997, tiên phong trong việc phục hồi và bảo tồn các ngôi mộ Etruscan được sơn vẽ ở Tarquinia).
Lăng mộ có niên đại vào giữa thế kỷ thứ 5 TCN.
Ngôi mộ được phát hiện vào năm 1967.
Ngôi mộ bao gồm một phòng đơn với trần dốc đôi.
Trên bức tường phía sau, một cảnh tiệc được mô tả có hai cặp đàn ông đang nằm; phía sau và bên cạnh họ là những người phụ nữ đang đứng.
Trên các bức tường bên là các cảnh khiêu vũ và âm nhạc được thiết lập trong một khu rừng nhỏ có chim sinh sống với những cây nhỏ được trang trí bằng dây hoa.

Bức bích họa bên trong Lăng mộ Claudio Bettini, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
8. Lăng mộ Báo hoa mai
Lăng mộ Báo hoa mai (Tomb of the Leopards, hình vẽ ký hiệu 11) lấy theo tên bức vẽ con báo phía trên một cảnh bữa tiệc trong phòng mộ.
Lăng mộ có niên đại vào thế kỷ 5 TCN (năm 470 – 450 TCN).
Ngôi mộ được phát hiện vào năm 1875.
Bên trong hầm mộ có một số bức bích họa được bảo quản tốt nhất tại Tarquinia và được biết đến với màu sắc sống động và những hình ảnh phong phú của các cử chỉ, chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp-Attic.
Một trong số các bức bích họa đó là bức Bữa tiệc. Trong bức tranh mô tả người dự tiệc là những cặp đôi nam-nữ ăn mặc thanh lịch với hai chàng trai khỏa thân mang theo dụng cụ phục vụ.
Những người phụ nữ được miêu tả là có làn da trắng và những người đàn ông có làn da ngăm đen, phù hợp với các quy ước về giới tính được thiết lập ở Hy Lạp cổ đại, Cận Đông cổ đại và Ai Cập cổ đại.
Bức tường hai bên bức tranh Bữa tiệc là bức tranh vẽ mô tả vũ công và nhạc sĩ.
Trần nhà được trang trí bằng những họa tiết đầy màu sắc của các hình vuông màu đỏ, đen, vàng và xanh lam.

Bức tranh miêu tả Bữa tiệc, bên trên là họa tiết báo đốm, Lăng mộ Báo hoa mai, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý

Bức tranh miêu tả vũ công và nhạc công, Lăng mộ Báo hoa mai, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
9) Lăng mộ Bacchants
Lăng mộ Bacchants (Tomb of the Bacchants, hình vẽ ký hiệu 12) lấy theo tên bức vẽ hình ảnh các nhạc công và vũ công (bacchants).
Lăng mộ có niên đại vào cuối thế kỷ thứ 6 TCN.
Ngôi mộ được phát hiện vào năm 1874.
Hầm mộ là một căn phòng nhỏ với trần nhà dốc đôi và là một trong những ngôi mộ nhỏ nhất được sơn vẽ ở Tarquinia.
Trên tường có hình ảnh các vũ công và nhạc công say rượu đội vương miện bằng cành nho và được ngăn cách bằng những cây nhỏ.

Bức tranh miêu tả vũ công và nhạc công, Lăng mộ Bacchants, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
10) Lăng mộ Charuns
Lăng mộ Charuns (Tomb of Charuns, hình vẽ ký hiệu 13) lấy theo tên hình vẽ hai con quỷ Charun, trong thần thoại Etruscan, có nhiệm vụ hộ tống linh hồn người chết xuống Địa ngục.
Lăng mộ có niên đại vào nửa đầu thế kỷ thứ 3 TCN.
Ngôi mộ được phát hiện vào năm 1960.
Đây là một ví dụ về một ngôi mộ từ thời kỳ Hy Lạp hóa với hai tầng và một tiền sảnh.
Ở tầng một có một căn phòng, được trang bị ghế dài, được sử dụng cho các nghi lễ tôn giáo. Từ đây có lối vào hai căn phòng thấp hơn, đi lên bằng một cầu thang hẹp và dốc, nơi diễn ra lễ chôn cất.
Ở tầng trên, tại các bức tường tiền sảnh, có hai cánh cửa giả được chạm khắc. Hai bên cửa là hình quỷ Charun.

Bức tranh miêu tả quỷ Charuns hai bên cánh cửa giả, Lăng mộ Charuns, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
11) Lăng mộ Triclinium
Lăng mộ Triclinium (Tomb of the Triclinium, hình vẽ ký hiệu A) lấy tên theo hình ảnh phòng ăn trang trọng (triclinium) của người La Mã xuất hiện trong các bức bích họa. Lăng mộ có niên đại vào năm 470 TCN.
Lăng mộ được phát hiện vào năm 1830.
Lăng mộ nằm cạnh Lăng mộ Bacchants (ký hiệu 12) và Lăng mộ Charuns (ký hiệu 13).
Các bức bích họa trong lăng mộ đã bị hư hỏng và mất đi một số màu sắc và chi tiết. Năm 1949, chúng được chuyển đến Bảo tàng Quốc gia Tarquinia để bảo tồn.
Chất lượng nghệ thuật của các bức bích họa được mô tả là vượt trội hơn nhiều lăng mộ Etruscan khác.
Lăng mộ có một phòng mộ uy nhất.
Trên bức tường phía sau phòng mộ có bức bích họa mô tả một cảnh tiệc tùng. Những người dự tiệc nằm ngả lưng trên ba chiếc ghế dài (klinai). Trên sàn nhà bên dưới ghế dài là một con mèo, một con gà trống và một con gà gô.
Trên bức tường bên trái phòng mộ có bức bích họa mô tả ba vũ công nữ, một vũ công nam và một nhạc công nam cầm một cây kèn. Xung quanh là những hàng cây nhỏ đầy chim đậu.
Trên bức tường bên phải phòng mộ có bức bích họa tương tự như bức tường bên trái.
Trên bức tường dọc theo lối vào có bức bích họa mô tả hai thành niên xuống ngựa.
Các bức bích họa trong Lăng mộ Triclinium tương tự như các bức bích họa trong Lăng mộ 5513 (cũng ở Nghĩa trang Monterozzi) đã khiến người ta cho rằng chúng là sản phẩm của cùng một xưởng vẽ.

Trang trí bên trong Lăng mộ Triclinium, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý

Bức bích họa hai vũ công bên trong Lăng mộ Triclinium, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
12) Lăng mộ Quỷ xanh
Lăng mộ Quỷ xanh (Tomb of the Blue Demons) lấy tên theo hình ảnh những con quỷ da xanh và đen xuất hiện trong một cảnh địa ngục trong các bức bích họa. Lăng mộ có niên đại vào cuối thế kỷ thứ 5 TCN.
Lăng mộ được phát hiện vào năm 1985.
Lăng mộ nằm đối diện, về phía nam, Lăng mộ 5513.
Trên bức tường bên trái phòng mộ có bức bích họa mô tả một người đàn ông cưỡi một cỗ xe hai ngựa (biga).
Ông được các nhạc công hộ tống trong một đám rước di chuyển về phía bên phải.
Trên bức tường bên phải phòng mộ có bức bích họa mô tả một người phụ nữ và một cậu bé theo một hành trình đến địa ngục. Xung quanh là những con quỷ, được cho là lấy cảm hứng từ tôn giáo Hy Lạp cổ đại.
Trên bức tường phía sau có bức bích họa mô tả cảnh hội thảo với các cặp đôi đang ngả lưng trên băng ghế.

Trang trí bên trong Lăng mộ Quỷ xanh, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý

Bức bích họa với hình tượng con quỷ trang trí bên trong Lăng mộ Quỷ xanh, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
Một số lăng mộ khác nằm ngoài khu vực phía tây Di sản Nghĩa trang Monterozzi, gồm:
13. Lăng mộ Nhà tiên tri
Lăng mộ của các nhà tiên tri (Tomb of the Augurs) lấy theo hình ảnh một linh mục La Mã hay nhà tiên tri vẽ trên bức tường bên phải hầm mộ. Lăng mộ có niên đại vào thế kỷ 6 TCN (khoảng năm 530-520 TCN).
Lăng mộ nằm tại phía đông Khu vực Di sản.
Ngôi mộ này là một trong những ngôi mộ đầu tiên ở Tarquinia có trang trí hình tượng trên cả bốn bức tường của phòng chính, phòng duy nhất của hầm mộ.
Chủ đề của các bức bích họa không phải là thần thoại, mà là những mô tả về trò chơi tang lễ .
Tại bức tường phía sau: Mô tả một cánh cửa tượng trưng cho cổng vào Địa ngục. Hai bên cánh cửa là hai hình người đàn ông, là người đưa tin hoặc than khóc người đã khuất. Phía trên cánh cửa có hình một con sư tử và một con báo đang giết một con nai.
Tại bức tường bên phải: Mô tả trò chơi tang lễ. Đây là một truyền thống trong nhiều xã hội cổ đại. Trò chơi tang lễ của người Etruscan, thường đẫm máu và chết người, được coi là trò chơi đấu sĩ nguyên bản.
Tại bức tường bên trái: Mô tả trò chơi tang lễ với hai đô vật đang chiến đấu.

Lối vào Lăng mộ Nhà tiên tri, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý

Bức tranh miêu tả Trò chơi tang lễ với hai đấu sĩ, Lăng mộ Nhà tiên tri, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
14) Lăng mộ Bò đực
Lăng mộ Bò đực (Tomb of the Bulls) lấy tên theo hình ảnh của hai con bò đực xuất hiện trên một trong những bức bích họa của lăng mộ. Lăng mộ có niên đại vào năm 540–530 TCN hoặc 530–520 TCN.
Lăng mộ được phát hiện vào năm 1892.
Đây là ví dụ sớm nhất về một ngôi mộ có những bức bích họa phức tạp trong nghĩa trang và các yếu tố phong cách bắt nguồn từ văn hóa người Ionian (là một trong bốn bộ tộc chính truyền thống của Hy Lạp cổ đại, cùng với người Dorian, người Aeolian và người Achaean. Phương ngữ Ionian là một trong ba nhóm ngôn ngữ chính của thế giới Hy Lạp, cùng với phương ngữ Dorian và Aeolian.
Đây là một trong những ngôi mộ Etruscan hiếm hoi có những bức bích họa khiêu dâm.
Giống như các ngôi mộ Etruscan khác, ban đầu ngôi mộ này chứa nhiều đồ tùy táng, đặc biệt là đồ gốm Etruscan, hiện đã được di dời.
Lối vào lăng mộ dẫn đến phòng chính. Bức tường phía sau của phòng mộ chính nằm đối diện với lối vào và có hai lối vào dẫn đến hai phòng khác.
Phía trên của các bức tường phía trước và phía sau của phòng mộ là bề mặt tường trang trí hình bán nguyệt hoặc tam giác trên lối ra vào (Tympanum).
Những bức bích họa với các loài động vật có màu sắc rực rỡ tô điểm cho các khu vực có mái đầu hồi ở phía trên cùng của các bức tường phía trước và phía sau của các phòng. Chúng bao gồm bò đực, chim, cá ngựa , báo, sư tử và dê. Bức tường phía sau của phòng chính là bức tường duy nhất có các bức bích họa được vẽ bên dưới mái đầu hồi.
Bên dưới bề mặt tường tam giác trên ô cửa là một bức bích họa với hai cảnh khiêu dâm.
Ngoài ra, trong hầm mộ còn có các bức bích họa về đài phun nước, thảm thực vật, vị thần Achilles, bò đực… liên quan đến ảnh hưởng của người Etruscan đối với việc miêu tả thần thoại Hy Lạp.

Trang trí trên bức tường phía sau phòng mộ, Lăng mộ Bò đực, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý

Bức họa khiêu dâm, Lăng mộ Bò đực, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
15) Lăng mộ Đòn roi
Lăng mộ Đòn roi (Tomb of the Whipping) lấy tên theo bức bích họa về hai người đàn ông đánh đòn một người phụ nữ trong bối cảnh khiêu dâm. Lăng mộ có niên đại khoảng năm 490 TCN.
Lăng mộ được phát hiện và khai quật vào năm 1960. Hầu hết các bức tranh trong hầm mộ đều bị hư hỏng nặng.
Ngôi mộ có một phòng. Trên tường hầm mộ trang trí bức bích họa những người tham gia đám rước rượu (Komos) mang tính nghi lễ, gồm nhạc sĩ, vũ công và một võ sĩ quyền Anh khỏa thân. Trên bức tường bên phải lối vào trình bày hai cảnh khiêu dâm. Trong đó có cảnh những người đàn ông đánh đòn người phụ nữ. Việc đánh đòn có thể mang tính chất nghi lễ với mục đích xua đuổi ma quỷ khỏi ngôi mộ.
Cùng với các bức bích họa tại Lăng mộ Bò đực, những bức tranh khiêu dâm là những ví dụ tương đối hiếm về các cảnh tình dục trong nghệ thuật Etruscan, vốn phổ biến hơn nhiều trong nghệ thuật Hy Lạp cổ đại.

Trang trí trên bức tường trong phòng mộ, Lăng mộ Đòn roi, Nghĩa trang Monterozzi, tại Tarquinia, Viterbo, Ý
Di sản Nghĩa trang Etruscan ở Cerveteri và Tarquinia, tỉnh Rome và Viterbo, Italia cung cấp bằng chứng quan trọng duy nhất về nhóm dân cư này đã tạo ra nền văn hóa đô thị đầu tiên ở phía tây Địa Trung Hải, tồn tại từ thế kỷ thứ 9 TCN đến thế kỷ 1 TCN ở miền trung nước Ý, trải dài từ phía bắc Latium đến Tuscany.
Di sản phản ánh các loại hình chôn cất khác nhau và là minh chứng cho những thành tựu của nền văn hóa Etruscan.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn:
https://whc.unesco.org/en/list/1158/
https://en.wikipedia.org/wiki/Italy
https://en.wikipedia.org/wiki/Etruscan_civilization
https://en.wikipedia.org/wiki/Villa_Giulia
https://it.wikipedia.org/wiki/Necropoli_della_Banditaccia
https://en.wikipedia.org/wiki/Cerveteri
https://en.wikipedia.org/wiki/Regolini-Galassi_tomb
https://regolinigalassi.wordpress.com/2011/08/22/the-tumulus-of-the-regolini-galassi-tomb/
https://it.wikipedia.org/wiki/Tomba_dei_capitelli
https://it.wikipedia.org/wiki/Tomba_delle_cinque_sedie
https://www.canino.info/inserti/monografie/etruschi/etruschi_tuscia/cerveteri/leoni_dipinti.htm
https://it.wikipedia.org/wiki/Tomba_della_capanna
https://en.wikipedia.org/wiki/Tomb_of_the_Reliefs
https://en.wikipedia.org/wiki/Sarcophagus_of_the_Spouses
https://en.wikipedia.org/wiki/Cerveteri
https://en.wikipedia.org/wiki/Tarquinia
https://en.wikipedia.org/wiki/Monterozzi_necropolis
https://tarquiniaturismo.com/tomb-of-the-jugglers/?lang=en
https://en.wikipedia.org/wiki/Tomb_of_the_Leopards
https://en.wikipedia.org/wiki/Tomb_of_the_Augurs
https://en.wikipedia.org/wiki/Tomb_of_Hunting_and_Fishing
https://en.wikipedia.org/wiki/Tomb_of_the_Triclinium
https://en.wikipedia.org/wiki/Tomb_of_the_Blue_Demons
https://en.wikipedia.org/wiki/Tomb_of_the_Bulls
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|