
Thông tin chung:
Công trình: Đền Hát Môn (thờ Hai Bà Trưng), huyện Phúc Thọ, TP. Hà Nội
Địa điểm: Huyện Phúc Thọ, TP. Hà Nội, Việt Nam
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô:
Thời gian hình thành:
Giá trị: Di tích quốc gia đặc biệt: (Di tích lịch sử, năm 2013).
Đền thờ là công trình kiến trúc được xây dựng để thờ cúng một vị thần hoặc một danh nhân quá cố.
Nhiều đền thờ dành cho các thần thánh trong tôn giáo hoặc tín ngưỡng địa phương.
Nhiều đền thờ được xây dựng để ghi nhớ công ơn của một anh hùng có công với đất nước hay công đức của một cá nhân với địa phương mà được dựng lên theo truyền thuyết dân gian như: Đền thờ Vua Hùng; Đền thờ Tứ thánh bất tử (Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Thánh Chử Đồng Tử và Thánh Mẫu Liễu Hạnh); Đền thờ Tứ Phủ (liên quan mật thiết với tín ngưỡng thờ Mẫu); Đền thờ các địa điểm linh thiêng như Thăng Long Tứ trấn: Đền Bạch Mã; Đền Voi Phục; Đền Kim Liên; Đền Quán Thánh…
Ở Việt Nam có nhiều nhân vật có thực trong lịch sử được dựng đền thờ ở rất nhiều nơi như: Đền thờ Hai Bà Trưng; Lý Nam Đế; Ngô Quyền; Đinh Tiên Hoàng; Lê Đại Hành; Lý Thái Tổ; Lý Thường Kiệt; Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ; Nguyễn Trãi; Quang Trung và gần đây là đền thờ Đức Thánh Hồ Chí Minh.
Theo truyền thuyết kể lại, Trưng Trắc và Trưng Nhị là con gái quan Lạc tướng (dòng dõi Hùng Vương) huyện Mê Linh, Hà Nội. Mười chín tuổi, Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, con quan Lạc tướng thành Chu Diên. Một năm sau, Thái thú Tô Định nhà Đông Hán (tồn tại năm 23- 220, kinh đô tại Lạc Dương) giết Thi Sách nhằm trấn áp người Việt.
Căm thù giặc cướp nước, hận kẻ giết chồng, mùa Xuân năm 40, Trưng Trắc cùng em dựng cờ khởi nghĩa. Chỉ trong thời gian ngắn, Hai Bà cùng tướng sĩ và người dân chiếm được 65 thành, đuổi Tô Định ra khỏi bờ cõi. Sau đó, Hai Bà xưng vương với tên gọi là Trưng Nữ vương (tại vị năm 40 – 43 sau Công nguyên), lập quốc gia tên là Lĩnh Nam, đóng đô tại Mê Linh. Đại Việt Sử ký Toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử Việt Nam.
Vương triều Lĩnh Nam của Trưng Nữ Vương có lãnh thổ liên quan đến các quận mà người Hán phân định trước đó: Giao Chỉ (Bắc Bộ Việt Nam và một phần phía Tây tỉnh Quảng Tây Trung Quốc); Cửu Chân (Ninh Bình đến Hà Tĩnh hiện nay); Nhật Nam (Quảng Bình đến Bình Định, Phú Yên) và một số quận như Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm, Nam Hải miền Nam Trung Quốc.
Từ đây kết thúc Giai đoạn Bắc thuộc lần thứ nhất, kéo dài từ năm 208/179 TCN, khi nước Nam Việt của Triệu Đà diệt nước Âu Lạc của An Dương Vương, đến năm 40, khi nước Lĩnh Nam của Trưng Nữ vương được thành lập.
Vương triều Lĩnh Nam là vương triều non trẻ, thế và lực còn yếu. Theo sử sách ghi lại, sự kiện duy nhất liên quan tới kinh tế thời Hai Bà Trưng là Trưng Nữ vương miễn thuế hai năm cho dân chúng. Quản trị quốc gia theo kiểu “đức trị” gắn với tập tục, tập quán mỗi vùng. Các đơn vị quân đội thuộc quyền quản lý của thủ lĩnh các vùng, chưa được tổ chức một cách chuyên nghiệp trên bình diện quốc gia.
Năm 43, nhà Hán tấn công Lĩnh Nam, Hai Bà Trưng không chống cự lại được với đội quân chuyên nghiệp của vương triều tập quyền nhà Hán, bị thua và tử trận.
Từ đây, nước Việt lại bị nhà Hán đô hộ, bắt đầu Giai đoạn Bắc thuộc lần 2, từ năm 43, khi nước Lĩnh Nam của Trưng Nữ Vương bị diệt. Trong giai đoạn này, nhà Hán bãi bỏ chế độ cai quản cấp huyện cho các Lạc hầu, Lạc tướng, đặt quan lại cai trị trực tiếp đến cấp huyện. Giai đoạn Bắc thuộc lần 2 kết thúc vào năm 544, khi nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế (vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lý, trị vì năm 544 – 548) được thành lập.
Hai Bà Trưng là người đầu tiên có công xây dựng nền độc lập, đặt nền móng cho truyền thống đánh giặc, ý thức tự lập, tự cường của dân tộc Việt.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng góp phần định hình truyền thống anh hùng của giới nữ và của cả dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập sau này. Đây là sự khác biệt, sự nổi trội của văn hóa Việt Nam so với Trung Quốc và cả phương Tây.
Sử gia Lê Văn Hưu (1230 – 1322, đời nhà Trần) viết trong Đại Việt sử ký toàn thư (bộ Quốc sử đầu tiên của Việt Nam): “ Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương. Tiếc rằng nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà hay sao? Ôi ! Có thể gọi là tự vứt bỏ mình vậy”.
Vua Tự Đức (hoàng đế thứ 4 của triều Nguyễn, trị vì năm 1847- 1883) viết trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục: “Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng đủ làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác, chẳng những mặt dày thẹn chết lắm !”.
Lãnh tụ Hồ Chí Minh viết trong Lịch sử nước ta (năm 1942):
“…Quân Tàu nhiều kẻ tham lam.
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?
Hai Bà Trưng có đại tài,
Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian,
Ra tay khôi phục giang san,
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta…”.
Tháng 11/2017, ông Donald Trump (14/6/1946, Tổng thống Hoa Kỳ thứ 45), trong một lần đến Việt Nam đã phát biểu:”…trong khoảng năm thứ 40 sau Công nguyên, hai chị em người Việt Nam là Hai Bà Trưng đã đứng lên khởi nghĩa chống ngoại xâm, thức tỉnh tinh thần độc lập. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử mà người dân Việt Nam đứng lên vì nền độc lập cũng như niềm tự hào của mình”.
Hai Bà Trưng được coi là Anh hùng dân tộc của Việt Nam và được thờ cúng tại nhiều nơi. Trên cả nước Việt Nam hiện có hơn 100 nơi thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh, tập trung ở các tỉnh, thành phố như: Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Nội, Hải Phòng, Thái Bình, Ninh Bình, trong đó riêng huyện Mê Linh, Hà Nội có 25 di tích ở 13 xã.
Theo truyền thuyết, Trưng Nữ Vương có đến hơn 70 tướng lĩnh, trong đó có nhiều thủ lĩnh các địa phương. Nhiều vị được người dân tôn thờ thành Thành hoàng làng ở miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc, trong số này có nhiều nữ tướng.
Ba trong số đền thờ Hai Bà được nhiều người biết đến, cũng là Di tích quốc gia đặc biệt: Đền Hai Bà Trưng tại huyện Mê Linh; Đền, chùa, đình Hai Bà Trưng, quận Hai Bà Trưng Hà Nội và Đền Hát Môn thờ Hai Bà Trưng tại huyện Phúc Thọ, TP. Hà Nội

Bản đồ Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng

Hai Bà Trưng (tranh Đông Hồ)
Đền Hát Môn hay Đền Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, TP. Hà Nội
Theo một số tài liệu ghi lại, vùng Hát Môn là nơi Hai Bà Trưng tổ chức hội quân sĩ sau khi hội tại thành Phong Châu. Đây cũng là nơi tuẫn tiết của Hai Bà Trưng khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tương truyền, Đền Hát Môn được khởi dựng sau khi Hai Bà Trưng hoá sinh vào cõi bất diệt.
Đền Hát Môn, xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Nội là một trong những ngôi đền thờ Hai Bà Trưng lớn nhất và lâu đời nhất tại Việt Nam.
Đền có bố cục theo hướng đông tây, quay về hướng tây.
Phía bắc của Đền là hai hồ nước.

Tổng mặt bằng Quần thể Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Ghi chú, từ ngoài vào trong: 1) Quán Tiên và Nghi môn ngoại ; 2) Nhà tưởng niệm bà Nguyễn Thị Định; 3) Miếu Tạm ngự; 4) Thủy đình; 5) Đàn thề; 6) Nghi môn; 7) Nhà Tả, Hữu mạc và 2 Nhà bia; 8) Nhà Đại bái; 9) Nhà Tiền tế; 10) Nhà Hậu cung; 11) Nhà khách
Đền Hát Môn là một quần thể với nhiều hạng mục công trình, từ ngoài vào trong gồm:
Quán Tiên
Quán Tiên nằm tại phía bắc của Đền, cạnh Nghi môn ngoại là một kiến trúc nhỏ, xây bằng gạch, cửa mở về hướng Đền kiểu vòm cuốn, có mái đao cong, nền cao hơn mặt đường 45 cm. Theo cuốn thần tích của làng, nơi đây vốn là quán hàng bán bánh trôi nước. Khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng hội tại đàn Thề, bà hàng bánh trôi đã dâng cả gánh bánh để Hai Bà ăn trước khi ra trận dẹp giặc. Ngôi quán nhỏ này được dân làng dựng lên để tưởng nhớ công ơn đối với bà hàng bánh trôi.

Quán Tiên, Quần thể Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Nhà tưởng niệm bà Nguyễn Thị Định
Nhà tưởng niệm bà Nguyễn Thị Định (nữ tướng, năm 1920 – 1992), nằm tại phía bắc của Đền, cạnh hồ nước.
Miếu Tạm Ngự
Miếu Tạm ngự nằm phía trước, bên phải Đền. Miếu có mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm Tiền tế và Hậu cung.
Nhà Tiền tế ba gian, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh. Các bộ vì kết cấu kiểu vì “giá chiêng, hạ kẻ bẩy hiên”.
Toà Hậu cung ba gian, xây nối liền với Nhà Tiền tế. Hệ vì đỡ mái có kết cấu tương tự Nhà Tiền tế. Phía trước mở hệ thống cửa kiểu bức bàn. Công trình kiến trúc này là nơi tạm ngự của Thánh Bà. Khi mùa nước lũ hàng năm, Khu đền chính bị ngập, dân làng rước tượng, ngai thờ và toàn bộ đồ thờ tự của đền về Miếu Tạm ngự, hết mùa nước lũ lại rước Thánh hoàn cung.
Nghi môn ngoại
Nghi môn ngoại có niên đại khởi dựng vào thời Nguyễn, được làm theo kiểu tứ trụ xây gạch, đỉnh trụ đắp nổi hình tứ phượng, lân. Phần lồng đèn đắp nổi hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Thân trụ có câu đối chữ Hán.

Nghi môn ngoại, Quần thể Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội; phía trước, bên phải ảnh là Quán Tiên
Nhà Thủy đình
Từ Nghi môn ngoại theo triền đê xuống là Khu Đền chính. Bên phải Đền chính có hồ nước, giữa hồ có Nhà Thủy đình (Phương đình) mới xây dựng gần đây.

Nhà Thủy đình, Quần thể Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Đàn thề
Đàn Thề được xây dựng mới ở phía trước Cổng Tam quan. Cột đá thề được tạo kiểu trụ hình tháp, bốn mặt có khắc chữ Hán, đặt trên nền cao hơn mặt sân 65 cm vớ 5 bậc lên. Mặt chính của Cột đá thề khắc nội dung lời thề của Hai Bà Trưng. Bao quanh Đàn thề là tường bao lửng, phía ngoài đặt các tượng voi và ngựa bằng đá.

Đàn thề, Quần thể Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội

Tượng voi và ngựa đá xung quanh Đàn thề, Quần thể Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Nghi môn nội
Nghi môn nội của Đền Hát Môn gồm ba gian kiểu chồng diêm, hai tầng mái. Ba cửa vào làm kiểu ván bưng. Các bộ vì đỡ mái được kết cấu theo dạng “giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên”, mái lợp ngói mũi, nền lát gạch Bát Tràng.

Nghi môn nội, Di tích Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Nhà bia
Hai nhà bia của Đền Hát Môn được xây ở vị trí phía ngoài cùng dãy Nhà Tả và Hữu mạc. Nhà Bia đặt trên bệ nền cao hơn mặt sân 30 cm. Mái kiểu phương đình, lợp ngói ta với 4 đầu đao tạo cong vút.

Nhà Bia bên phải, Di tích Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Nhà Tả và Hữu mạc
Nhà Tả và Hữu mạc gồm mỗi dãy 5 gian chạy dọc theo Sân đền, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi, các bộ vì đỡ mái kết cấu dạng “giá chiêng, hạ kẻ”, được đặt lên tường bổ trụ trốn một hàng cột.

Nhà tả mạc và Nhà bia Di tích Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Nhà Đại bái
Nhà Đại bái của Đền Hát Môn là hạng mục được quan tâm nhất, gồm 5 gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc. Các bộ vì đỡ mái kết cấu kiểu “thượng giá chiêng, chồng rường, cốn mê, bẩy hiên”, hoành mái phân “thượng tam - hạ tứ”, mái lợp ngói ri, nền lát gạch Bát Tràng.
\Trang trí trên kiến trúc tập trung dày đặc ở đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, ván gió dưới dạng chạm nổi, chạm lộng …, với các đề tài rồng, tứ linh. Đây là sản phẩm nghệ thuật từ thời Lê Trung Hưng đến thời Nguyễn. Gian giữa treo hoành phi, các cột cái đều treo câu đối ca ngợi công đức Hai Bà.

Mặt trước Nhà Đại bái, Di tích Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội

Bên trong Nhà Đại bái, Di tích Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Nhà Tiền tế
Nhà Tiền tế của Đền Hát Môn nằm phía sau Nhà Đại bái gồm 5 gian, xây gạch kiểu tường hồi bít đốc. Nền nhà cao hơn mặt sân 30 cm, xung quanh bó gạch vỉa. Các bộ vì kết cấu“thượng rường giá chiêng, hạ bẩy hiên”.
Nhà Hậu cung
Nhà Hậu cung của Đền Hát Môn, nằm vuông góc với Nhà Tiền tế, tạo thành chữ Đinh/ chữ T” gồm 3 gian, xây trên nền cao hơn mặt sân, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Bộ khung gỗ đỡ mái gồm 4 bộ vì kèo dạng “chồng rường”. Trang trí trên kiến trúc này chủ yếu là phượng. Gian giữa Hậu cung được tạo một khám gỗ bưng kín bằng các ván gỗ, là nơi thờ Hai Bà.

Ban thờ Hai Bà tại Hậu cung, Di tích Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội

Hình tượng hổ phù tại nhang án thờ, Di tích Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Nhà khách
Nhà khách của Đền Hát Môn gồm 5 gian, kiểu tường hồi bít đốc. Các bộ vì đỡ mái tạo kiểu “thượng giá chiêng, hạ kẻ, bẩy hiên” cột trốn.
Gò Giấu Ấn
Gò Giấu Ấn của Đền Hát Môn nằm ở phía sau Nhà Hậu cung. Tương truyền, đây là dấu tích nơi Hai Bà Trưng cất giấu ấn tín trước lúc rút quân hoá thân về cõi vĩnh hằng ở cửa sông Hát. Hiện nay, Gò Giấu Ấn được bó vỉa, xây tường gạch bao quanh.

Gò giấu ấn, Di tích Đền Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội
Đền Hát Môn còn bảo lưu được nhiều di vật, cổ vật có giá trị về văn hoá, lịch sử, gồm: 293 di vật, cổ vật với nhiều chủng loại và phong phú chất liệu, như: gỗ, đá, đồng, sứ, giấy, kim loại... có niên đại trải dài từ thời Lê, Tây Sơn, Nguyễn đến nay.
Hội đền Hát Môn được tổ chức hằng năm vào ngày 6 tháng 3 (Âm lịch), với các nghi lễ và trò diễn dân gian thu hút đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương. Đặc biệt, tục làm bánh trôi và lễ rước bánh trôi dâng Hai Bà đã trở thành một sinh hoạt văn hóa độc đáo của vùng đất này..
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://vi.wikipedia.org/wiki/Di_t%C3%ADch_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%91%E1%BA% B7c_bi%E1%BB%87t
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%81n_H%C3%A1t_M%C3%B4n
http://vietlandmarks.com/module/groups/action/viewimages/id/417/album/0#0
https://dinhquat.blogspot.com/2019/05/en-tho-va-di-tich-hai-ba-trung-tai-ha.html
https://www.youtube.com/watch?v=LuES-_W4OYM
Xem các bài viết về chùa Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về đình, đền Việt Nam tại đây
Xem các bài viết về Di sản văn hóa thế giới tại đây
|