Tuần -19 - Ngày 19/03/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Lý thuyết kiến trúc
Làng đô thị tại Việt Nam
05/10/2019


Tại Việt Nam, trong quá trình đô thị hóa có một hiện tượng, hiện chưa nhận thức rõ, đó là “ Làng trong đô thị” hay “Làng đô thị”. Khi phát triển, mở rộng đô thị, một số điểm dân cư nông thôn xưa, nay nằm trong phạm vi đô thị. Trong các đồ án quy hoạch, những khu dân cư này không di dời và thường kèm theo quyết định “ Giữ lại cải tạo chỉnh trang theo quy hoạch”, song không rõ, cải tạo chỉnh trang như thế nào. Các nhà đầu tư chỉ tập trung xây dựng tại các khu đất trống và các làng đô thị này dần bị bỏ lại phía sau trong quá trình đô thị hóa, trở thành nơi tích tụ nhiều vấn đề về xã hội.

Hiện tượng “Làng trong đô thị” hay “ Làng đô thị” phổ biến trong cả nước.
Làng đô thị tại Việt Nam khác với Làng đô thị tại các quốc gia phát triển. Trong các quốc gia này, Làng đô thị được coi là một mô hình có quan điểm, lý luận để hiểu và thực hiện. Tại Việt Nam, đó lại là một khoảng trống không nhỏ về cả khái niệm và lý luận.
Bài viết dưới đây chia sẻ một số nhận thức về vấn đề này. 

Làng đô thị tại các quốc gia phát triển
Thuật ngữ Làng đô thị có ở khắp nơi. Song do quá trình đô thị hóa diễn ra không đồng đều giữa các quốc gia, vì  vậy khái niệm về Làng đô thị cũng khác nhau.
Tại các quốc gia thuộc nhóm nước phát triển với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đã diễn ra hàng trăm năm, Làng đô thị (Urban village) là một khu vực phát triển đô thị được đặc trưng bởi: Nhà ở có mật độ xây dựng trung bình, phân vùng sử dụng hỗn hợp, giao thông cộng cộng tốt, chú trọng vào việc đi bộ và không gian công cộng.
Khái niệm Làng đô thị chính thức ra đời ở Anh vào cuối những năm 1980, sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia và được cả cơ quan chính quyền cũng như các nhà đầu tư sử dụng như một định hướng cho nhiều dự án.
Đây là mô hình bổ sung cho những quan niệm thống trị quy hoạch và kiến trúc đô thị những năm 1950 – 1960, gắn với việc quá coi trọng các khu phố truyền thống và vai trò của nội thành. Đây cũng là mô hình được cho là có khả năng giải quyết được căn bệnh xã hội đặc trưng cho chủ nghĩa đô thị hiện đại, như đường cao tốc, đường sắt trên cao, các khu nhà cao tầng và việc mở rộng đô thị một cách tràn lan (Urban sprawl).
Mô hình Làng đô thị diễn ra thuận lợi tại quốc gia phát triển, bởi họ dần giảm các ngành công nghiệp độc hại (do chuyển đến các quốc gia thuộc nhóm nước đang phát triển) và sự xuất hiện nền kinh tế dịch vụ (Service economy). Điều này cho phép trong mô hình Làng đô thị hình thành các khu chức năng sử dụng hỗn hợp giữa ở và làm việc mà không gây bất lợi cho cư dân.
Mô hình Làng đô thị được xem là một giải pháp bổ sung cho các mô hình phát triển đô thị tại nhiều thành phố, đặc biệt là nâng cấp và mở rộng đô thị. Các làng đô thị này được xây dựng với mục đích:
- Giảm sự phụ thuộc vào xe hơi và thúc đẩy sử dụng xe đạp, đi bộ với quy mô phù hợp bán kính có thể đi bộ được;
- Mức độ tự chủ cao, tích hợp được các chức năng ở, làm việc và tái tạo trong cùng một khu vực;
- Tạo điều kiện cho các tổ chức cộng đồng phát triển mạnh mẽ và tương tác với nhau.
Trào lưu phát triển Làng đô thị được cho là ảnh hưởng bởi trào lưu Thành phố vườn (Garden city movement) của Ebenezer Howard (người Anh, 29/1/1850- 1/5/1928), là cộng đồng dân cư khép kín, gồm các khu nhà ở, công nghiệp và nông nghiệp, được bao quanh bởi vành đai xanh

Song nhiều chuyên gia đô thị lại cho rằng, đây không phải khái niệm mới, mà đơn giản chỉ là sự phục hồi lại các ý tưởng đã phổ biến trong quy hoạch đô thị từ trước và phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội gắn với sự xuất hiện của nền kinh tế dịch vụ và gia tăng tầng lớp trung lưu.
Mô hình làng đô thị tại Anh có nhiều điểm tương đồng với trào lưu của Chủ nghĩa đô thị mới (New Urbanism) tại Mỹ, là một trào lưu thiết kế đô thị nhằm thúc đẩy thói quen thân thiện với môi trường bằng cách tạo ra các khu phố có thể đi bộ, chứa nhiều loại công việc và nhà ở. Trào lưu này phát sinh cũng vào đầu những năm 1980 như mô hình Làng đô thị và có ảnh hưởng đến phát triển bất động sản, quy hoạch đô thị và chiến lược sử dụng đất của các thành phố.
 


Một khu dân cư theo trào lưu Chủ nghĩa Đô thị mới – Phố chợ tại, Celebration, Florida, Mỹ

Các vấn đề của Làng đô thị tại Việt Nam

Tại Việt Nam, làng xã là một đơn vị dân cư cơ sở của xã hội, nơi lưu giữ truyền thống tự do sáng tạo và đức tin mạnh mẽ của người Việt, là cội nguồn của sức mạnh nội sinh để dân tộc Việt có thể tiếp thu hoặc phản kháng các yếu tố ngoại nhập. Đây là nơi sản sinh ra vô vàn triết lý, như “Trống làng nào làng ấy đánh, Thánh (thành hoàng) làng nào làng ấy thờ”; “Phép vua thua lệ làng”…và tập hợp thành hệ tư tưởng làng xã, tồn tại và chi phối đời sống nông thôn Việt Nam cả ngàn năm nay. Người dân trong làng làm nghề nông nghiệp và thủ công. Quy mô dân số khoảng vài ngàn (2000 – 8000 người).
Làng đô thị tại Việt Nam là ngôi làng nông thôn tồn tại bên trong phạm vi thành phố trong quá trình đô thị hóa. Số lượng Làng đô thị Việt Nam không hề nhỏ, đặc biệt là tại TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Trong đô thị, mối quan hệ giữa Khu đô thị mới và Làng đô thị là mối quan hệ cộng sinh.
Đánh giá vấn đề Làng đô thị không hề dễ dàng. Trước hết cần hiểu rõ đô thị được quy hoạch và quản lý theo nguyên tắc nào. Từ đó mới rõ sự tồn tại của Làng đô thị có xung đột với nguyên tắc đó hay không và xã hội mới có thể rút ra được bài học và giải pháp: Phá bỏ hay tái sinh Làng đô thị ?

Phần viết dưới đây trình bày đô thị và Làng đô thị dựa theo Nguyên tắc của Chủ nghĩa đô thị thông minh (Principles of intelligent urbanism - PIU ), là một lý thuyết về quy hoạch đô thị đang được chú ý hiện nay, bao gồm một bộ 10 nguyên tắc, nhằm hướng dẫn quy hoạch và thiết kế đô thị trên cơ sở tích hợp nội dung quản lý và quy hoạch đô thị. Nguyên tắc này được đề xuất bởi Christopher Charles Benninger (giáo sư, kiến ​​trúc sư và nhà quy hoạch người Mỹ gốc Ấn Độ, 23/11/1942). Chủ nghĩa đô thị thông minh coi quy hoạch đô thị, không chỉ là một quy hoạch mang tính vật lý, mà còn là một quy hoạch kinh tế và quy hoạch xã hội. 

1) Cân bằng với tự nhiên
Trong quá trình đô thị hóa, cân bằng với tự nhiên nhấn mạnh cân bằng sinh thái đô thị, gắn với việc sử dụng và khai thác tài nguyên. Cân bằng này tập trung vào các ngưỡng bị vượt qua bởi nạn phá rừng, xói mòn đất, cạn kiệt tầng nước ngầm, phù sa và lũ lụt. Trong đô thị, việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên thường vượt xa khả năng tự phục hồi của hệ sinh thái tự nhiên. Vì vậy, việc đánh giá môi trường để xác định khu vực có hệ sinh thái bị phá vỡ, khu vực có môi trường sống bị đe dọa luôn được đặt lên hàng đầu. Từ đây hình thành các giải pháp về bảo tồn tự nhiên, kiểm soát mật độ xây dựng, chức năng sử dụng đất, hình thành các không gian mở (cây xanh, mặt nước) và thúc đẩy các giải pháp tái tạo tài nguyên (năng lượng tái tạo, tái sử dụng nước, chất thải…).

Làng xưa kia là một khu dân cư nông nghiệp, xung quanh là vườn, ruộng, mặt nước ao, sông. Trong làng, diện tích không gian mở chiếm tỷ lệ lớn. Môi trường sống của con người cân bằng với tự nhiên và hòa làm một với tự nhiên.

Làng đô thị nay không còn hệ sinh thái thực vật, động vật và môi trường tự nhiên xung quanh, do dành đất cho mục đích xây dựng. Lẽ ra, Làng đô thị phải là một dạng không gian mở cho đô thị, song tại đây do không được kiểm soát, không gian mở bị luôn thu hẹp lại, tiềm ẩn ô nhiễm đe dọa môi trường sống. Nguồn ô nhiễm này lan truyền ra các Khu đô thị mới xung quanh. Đây có thể coi là điểm yếu nhất của mô hình Làng đô thị Việt Nam.  


Làng Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội; Mảnh vườn trồng hoa còn sót lại
 

2) Cân bằng với truyền thống
Trong quá trình đô thị hóa, cân bằng với truyền thống có thể coi là sự cân bằng giữa sự tiếp nhận theo chiều rộng của văn hóa mới (văn hóa công nghiệp, dịch vụ, liên kết) và sự kết tinh theo chiều sâu của văn hóa truyền thống (văn hóa nông nghiệp). Cân bằng với truyền thống nhấn mạnh việc tích hợp giải pháp quy hoạch với tài sản văn hóa hiện có, tôn trọng di tích lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán và phong cách kiến trúc địa phương. Các yếu tố mới về không gian đô thị và kiến trúc được thực hiện gắn với việc khai thác tối đa các kiến thức bản địa; biểu tượng văn hóa và xã hội; cách thức thich nghi với điều kiện khí hậu, hoàn cảnh xã hội, vật liệu và công nghệ truyền thống; cách thức tiếp thu các phong cách kiến trúc, trang trí và họa tiết truyền đạt các giá trị văn hóa truyền thống. Tại đây, các di tích lịch sử, di sản trở thành các điểm nhấn thị giác.

Làng xưa là nơi tôn trọng, tích tụ truyền thống văn hóa và lưu truyền từ đời này sang đời khác. Các dấu hiệu và biểu tượng của truyền thống văn hóa gắn với đức tin, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh xã hội, vật liệu và công nghệ sẵn có, được thể hiện qua yếu tố nghệ thuật vật thể như cổng làng, giếng làng, đình, đền, chùa, chợ, nhà ở, họa tiết trang trí; và yếu tố nghệ thuật phi vật thể như lệ làng, hương ước, tín ngưỡng, lễ hội, hát, trò chơi….

Làng đô thị nay, dù nằm trong ranh giới đô thị, song vẫn mang đậm truyền thống nông thôn. Các hộ dân trong làng vẫn còn lưu giữ được các bản sắc văn hóa nhất định của hộ gia đình nông nghiệp. Nếu gìn giữ được văn hóa truyền thống, Làng đô thị sẽ trở thành một điểm tựa, kết nối với văn hóa hiện đại  được hình thành trong các Khu đô thị mới xung quanh và tạo nên sự cân bằng với truyền thống trong toàn đô thị. Làng đô thị là nơi có một số đông cư dân từ nơi khác đến, dễ dẫn đến các yếu tố văn hóa truyền thống của làng xưa bị lãng quên và dần lụi tàn. Nếu không lưu giữ được yếu tố văn hóa truyền thống, Làng đô thị chỉ còn là một khu vực phát triển chất lượng thấp trong đô thị.  

3) Công nghệ phù hợp
Trong quá trình đô thị hóa, công nghệ phù hợp nhấn mạnh việc sử dụng vật liệu xây dựng, kỹ thuật xây dựng, hệ thống cơ sở hạ tầng và quản lý dự án phù hợp với bối cảnh địa phương. Năng lực của người dân, điều kiện khí hậu, nguồn lực sẵn có và nguồn vốn đầu tư là tiền đề để lựa chọn một công nghệ phù hợp cho việc thực hiện quy hoạch. Nơi nào có nhiều thợ thủ công, phương pháp sử dụng nhiều lao động là thích hợp. Trong thời đại hội nhập, nhiều công nghệ, vật liệu với tiềm năng tạo giá trị gia tăng cao xuất hiện. Để đạt hiệu quả, các công nghệ mới, vật liệu mới cũng phải được tiếp nhận.

Làng xưa được hình thành gắn với công nghệ xây dựng phù hợp và thống nhất trong toàn làng, theo thời gian hình thành nên các yếu tố mang tính bản địa của kiến trúc mỗi làng.

Làng đô thị nay tiếp thu mọi loại công nghệ theo nhu cầu của mọi loại chủ sở hữu. Công nghệ nào cũng được, miễn xây dựng nhanh chóng, lấp đầy các khoảng trống để tận dụng các cơ hội cho nhu cầu sinh tồn với chi phí thấp nhất và nhanh nhất. Từ đây tạo ra một khu vực trăm hoa đua nở hay hỗn độn về kiểu cách xây dựng.

4) Tương tác xã hội
Trong quá trình đô thị hóa, tương tác xã hội nhấn mạnh việc hình thành các khu vực công cộng với nhiều cấp khác nhau phù hợp với mức tương tác cá nhân, bạn bè, hộ gia đình, cộng đồng và xã hội. Tại đây có nhiều loại không gian công cộng như quảng trường, sân thể thao, địa điểm trình diễn, đường dạo…, là nơi ai cũng có thể tiếp cận tự do bởi không có rào cản về vật thể hay kinh tế và xã hội. Các không gian công cộng này thúc đẩy hoạt động tương tác, gắn kết xã hội và cung cấp cho cư dân đô thị nhiều cơ hội (ngoài mạng xã hội) để họ gặp gỡ, giao tiếp với nhau, hình thành nên những cộng đồng với những nhóm người cùng sở thích, chia sẻ các công việc xã hội và hành vi văn hóa. Rộng hơn, tương tác xã hội là cơ hội cho công dân trong đô thị hiểu xã hội và tham gia các quyền lực xã hội, khởi nguồn cho việc hình thành các tầng lớp tinh hoa mới trong xã hội.

Làng xưa là nơi rất coi trọng tương tác xã hội. Tất cả các thành viên trong làng được kết nối với nhau trong một cộng đồng gia tộc, dòng họ, nghề nghiệp, tín ngưỡng, làng xóm, thông qua các địa điểm như đình, chùa làng, lễ hội… Các không gian cộng đồng trong làng được quản lý bởi cộng đồng, nơi mà người dân nhận diện ra nhau, chia sẻ các tài nguyên văn hóa chung, thể hiện niềm tin vào cái chung, sự tự do và sáng tạo của mỗi cá nhân trong cộng đồng.

Làng đô thị nay giảm sút yếu tố tương tác xã hội. Trong làng không ai biết ai. Mọi quan hệ xã hội được giải quyết theo cái lý, thiếu sự trân trọng, đoàn kết và tình thương yêu như văn hóa xưa. Mặc dù nằm trong đô thị, song trong Làng đô thị thiếu hẳn các không gian công cộng như trong các Khu đô thị mới. 

5) Hiệu quả
Trong quá trình đô thị hóa, hiệu quả nhấn mạnh đến việc thúc đẩy sự cân bằng giữa tiêu thụ tài nguyên, sử dụng nhân lực, thời gian, tài chính với các thành tựu đáp ứng nhu cầu cơ bản và nhu cầu cấp cao của con người. Theo thuyết nhu cầu Maslow (Maslow's hierarchy of needs), đó là 5 bậc nhu cầu về: Sinh tồn; An toàn; Cộng đồng; Vị thế và Cống hiến. Hiệu quả thể hiện cụ thể qua việc: Sử dụng tối ưu đất công cộng, dịch vụ, sản xuất và mạng lưới cơ sở hạ tầng; Giảm chi phí cho mỗi hộ gia đình, đồng thời tăng thu nhập, năng suất lao động, học vấn và năng lực công dân; Tổ chức giao thông vận tải gắn với việc thúc đẩy giao thông công cộng; Hình thành các khu định cư hỗn hợp giữa ở và làm việc, có quy mô phù hợp với đi bộ bên cạnh các khu vực đô thị tập trung quy mô lớn với mật độ dân cư cao...

Làng xưa được hình thành và tồn tại nhờ tạo ra hiệu quả xã hội cho từng cư dân của làng. Hương ước của làng luôn khuyến khích chia sẻ nhân lực, tài nguyên, cơ sở vật chất và tài chính và điều hòa các mối quan hệ xã hội, nhằm không có ai bị bỏ lại phía sau và thúc đẩy vị thế của từng hộ dân trong làng, vị thế của làng trước thiên hạ.

Làng đô thị nay được hình thành nhằm đáp ứng hiệu quả trước hết trong lĩnh vực bất động sản. Các hộ gia đình cũ trong làng, nhờ giá trị đất tăng, chia nhỏ lô đất ở để bán và thu được kinh phí cho việc cải tạo nâng cấp nhà cũ và củng cố nghề nghiệp. Những người nơi khác đến đây cũng nhận thấy Làng đô thị là một địa điểm có thể mua được đất rẻ để xây dựng nhà hơn hẳn việc mua các chung cư hiện đại trong các Khu đô thị mới với giá thành qúa cao so với khả năng chi trả. Vì vậy, hầu hết làng đô thị có dân cư đông đúc. Mật độ xây dựng của một số làng có thể đến hơn 70%. Làng như một mê cung với các dãy nhà liên kế, san sát nhau, cao 2- 5 tầng bám theo các ngõ hẹp 2- 3m, hầu như chỉ cho xe máy, xe đạp đi lại, phía trên là.những mớ dây điện, thông tin liên lạc vắt ngang. Trong nhiều trường hợp, ngõ làng chật hẹp tối và ẩm quanh năm, phải dùng đèn chiếu sáng cả vào ban ngày, ngăn cản cứu trợ trong trường hợp khẩn cấp. Khe hở giữa các tòa nhà chưa đầy rác thải, nơi sinh sản của chuột. 

6) Quy mô của con người
Trong quá trình đô thị hóa, quy mô của con người nhấn mạnh đến việc phát triển đô thị trên mặt đất, có thể đị bộ được và các giải pháp định hướng không gian dựa trên các biện pháp nhân trắc học, gắn với việc tìm hiểu những quy luật phát triển hình thái và thể lực con người. Trong đô thị khuyến khích loại bỏ hàng rào nhân tạo và thúc đẩy tiếp xúc trực tiếp; cung cấp các nơi thân thiện, lối đi dành cho người đi bộ và các khu vực công cộng, nơi mà mọi người có thể gặp gỡ tự do. Các không gian này có thể là công viên, vườn hoa, khu trưng bày, sân trong, quán cà phê, lối đi dạo.

Làng xưa luôn gắn với con người, từ cả ngôi nhà đến từng chi tiết kiến trúc, từ công trình nhà ở đến cổng làng, ngôi đình, chùa. Trong làng không có hàng rào nhân tạo nào ngăn cản con người giao tiếp với nhau. Không gian của làng trải rộng trên mặt đất gắn với tầm nhìn rộng mở của con người. Tất cả đều được xây dựng phù hợp với kích thước của con người.

Làng đô thị nay nổi bật bởi các ngôi nhà ống bám sát đường, kín cổng, cao tường và đua tranh vươn lên theo chiều cao. Trong các ngõ hẹp không còn tầm nhìn rộng mở cho con người, như đẩy con người vào tình trạng biệt lập so với xung quanh. Mọi người chỉ còn hướng vào ngôi nhà riêng của họ. Các ngôi đình, đền xưa nằm chen sát cạnh các lô nhà và không còn một khoảng trống. Con người trong các ngõ hẹp không còn cảm nhận sự thường trực của màu xanh cây cối, màu xanh của bầu trời. Tất cả chỉ còn lại là màu của vật liệu xây dựng trên bề mặt của mỗi ngôi nhà. Trong một môi trường chật hẹp và tù túng như vậy, khó có thể hình thành và nuôi dưỡng được các hành vi tốt đẹp của con người để hướng tới sự khoan dung, yêu thương và hòa bình.

7) Ma trận cơ hội
Thành phố là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế. Đây là nơi kết tụ và thu hút con người đến để tăng cường kiến thức, kỹ năng và mức tự chủ của họ một cách hiệu quả. Thành phố là phương tiện cho cá nhân, xã hội phát triển, thông qua việc tiếp cận các tổ chức, dịch vụ, cơ sở hạ tầng và cung cấp nhiều cơ hội lập nghiệp, giáo dục và giải trí. Ma trận cơ hội nhấn mạnh đền việc thúc đẩy khả năng tiếp cận nơi ở, chăm sóc sức khỏe, tăng điều kiện an toàn và vệ sinh và phát triển nguồn nhân lực. Ma trận cơ hội cũng khác biệt với nhiều tầng lớp người: Người lao động giản đơn, người lao động có tay nghề cao, các chuyên gia, tầng lớp trung lưu và doanh nhân giàu có. Gắn với đó là nhu cầu về mức thu nhập, nhà ở, cống hiến…

Làng xưa là không gian với những cơ hội mà ai cũng có thể hình dung và ai cũng có thể tham gia.

Làng đô thị không thể bằng Khu đô thị mới về một số cơ hội, song tại đây có thể tìm thấy từ cơ hội thuê nhà, mua nhà giá rẻ đến việc khởi sự kinh doanh các việc nhỏ gắn với các tuyến ngõ dịch vụ, phù hợp cho những cư dân mới đến thành phố sinh sống. Đây là điểm mạnh của mô hình Làng đô thị. Song đây cũng là ma trận của rủi ro với các vấn đề không thể kiểm soát như tình trạng ô nhiễm, quá tải về dân cư, tệ nạn xã hội, đói nghèo, sức khỏe kém, suy dinh dưỡng, thiếu hiểu biết, kỹ năng thấp, mất an toàn và thiếu công bằng. Trong Làng đô thị có cả các yếu tố ma trận cơ hội và ma trận rủi ro. 

8) Hội nhập khu vực
Đô thị luôn là một phần hữu cơ của một hệ thống địa lý, kinh tế xã hội và văn hóa địa lý lớn hơn, cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của nó. Trong quá trình đô thị hóa, hội nhập nhấn mạnh đến sự liên kết bên trong đô thị và với bên ngoài đô thị. Hội nhập các khu chức năng bên trong đô thị để tạo thành một thực thể thống nhất, thông qua kết nối về các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và điều kiện vật lý hay môi trường sinh thái, tự nhiên, như hành lang xanh, lưu vực tiêu nước, cao độ địa hình, tuyến phòng thủ an ninh, khoảng cách cách ly với cơ sở gây ô nhiễm như sản xuất công nghiệp, logistics, xử lý chất thải…Hội nhập đô thị với bên ngoài để tạo thành một mạng lưới đô thị, trong đó mỗi đô thị đều là một điểm nút của các dòng chảy kinh tế (Hàng hóa và nhân lực; Công nghệ và tài chính; Văn hóa và tri thức), thông qua các kết nối của các tuyến đường cao tốc, quốc lộ, tỉnh lộ. 

Làng xưa luôn là một phần hữu cơ của một hệ thống địa lý, kinh tế xã hội và văn hóa địa lý lớn hơn, cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của nó. Làng xã luôn gắn bó hay hội nhập với các làng xã khác trong một huyện, một tỉnh và quốc gia.

Làng đô thị hội nhập với các khu vực khác của đô thị thông qua việc kết nối dòng người di chuyển giữa nơi làm việc, mua sắm, chăm sóc sức khỏe, giải trí…Việc hội nhập hay kết nối này có nhiều mức độ rất khác nhau, từ gắn bó hoàn toàn với Khu đô thị mới đến trở thành một khu vực bị bỏ lại phía sau trong đô thị, chờ đến thời điểm thuận lợi để phá bỏ. 

9) Đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là cân bằng giao thông 
Trong quá trình đô thị hóa, ngoài việc đầu tư xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng (hạ tầng kinh tế, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội), cân bằng giao thông nhấn mạnh đến việc hình thành hệ thống giao thông tích hợp và cân bằng giữa phương thức đi bộ, xe đạp, xe máy, ô tô, xe bus, tàu điện; cân bằng thông qua việc phân chia các tuyến hàng lang vận chuyển hàng hóa và các tuyến không có xe cơ giới tiếp cận các cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội đô thị.  

Làng xưa có hệ thống giao thông chủ yếu là đi bộ và xe thô sơ với các tuyến đường có mặt cắt hẹp.

Làng đô thị là nơi tự phát cải tạo hệ thống giao thông xưa cho phù hợp với nhu cầu hiện đại. Tại đây không có khái niệm về các tuyến hành lang cho vận chuyển hàng hóa hay cho người đi bộ. 

10) Chính thể
Trong quá trình đô thị hóa, vấn đề chính thể nhấn mạnh đến việc quy hoạch và quản trị đô thị gắn với trách nhiệm, minh bạch, khả năng giải trình và có sự tham gia của xã hội. Quy hoạch và quản trị đô thị được hình thành trên hệ thống cơ sở dữ liệu, quyền lợi chính đáng, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân. Quản trị đô thị hoạt động hiệu quả khi có một khung thể chế (Institutional Framework), được vận hành dựa trên bản quy chế hay quy định kiểm soát phát triển (Development Control Regulations). Bản quy chế này như một công cụ pháp lý để hướng dẫn sự tăng trưởng, phát triển và nâng cao vị thế đô thị, ví dụ như hướng dẫn làm thể nào để đất đai được khai thác và tiếp cận; cung cấp cho chủ sở hữu, nhà đầu tư thông tin để họ hình thành các kịch bản trong tương lai. Nhà đầu tư và các bên liên quan phải được tuyên truyền để thực sự hiểu bản quy chế và cùng tham gia thực hiện. Quy chế phát triển đô thị cũng giúp cho cơ quan quản lý địa phương chuyên nghiệp hơn trong việc quản lý, phục vụ và tạo điều kiện cho phát triển đô thị. Ngoài ra, trong quá trình đô thị hóa, phải hình thành được hệ thống tham gia của các bên liên quan, thông qua các cuộc họp công khai, các phiên điều trần và các quy trình minh bạch để giải quyết các bất đồng. Trong thời hiện đại, quy hoạch và quản trị đô thị là một trong những biểu hiện nổi bật nhất của văn minh.

Làng xưa có tổ chức làng, thường bao gồm: Hội đồng ra quyết định (hội đồng hương chính); Người chủ tọa (xã trưởng); Người chấp hành (lý trưởng) và Người phụ trách trị an (tuần đinh). Tổ chức làng điều hành hoạt động của làng theo phép vua và lệ làng. Lệ làng là một hệ thống quản trị địa phương trong tất cả các lĩnh vực và quản trị thiên về hướng mở để ai cũng hiểu, có trách nhiệm và quyền lợi thực hiện. Đây cũng là một trong cội nguồn sức mạnh đoàn kết của người Việt.

Làng đô thị nay trong nhiều trường hợp rơi vào cảnh: Lệ làng thì không còn, song quy chế quản lý đô thị lại chưa tới. Việc quản trị đô thị không chuyên nghiệp. Các nhà kinh doanh bất động sản lớn, nhỏ đến đây cùng mô hình “chia lô, bán nền” với mối quan tâm duy nhất là: tìm kiếm đất, xây dựng, bán nhà, kiếm lợi nhuận và tiếp tục. Tại đây thiếu những chế tài yêu cầu các sản phẩm hình thành trong quá trình đầu tư là an toàn, hợp vệ sinh, trật tự và mang lại cả hiệu quả cho xã hội. 

Phá bỏ hoặc tái sinh Làng đô thị
Làng đô thị, một mặt cung cấp cơ hội sinh tồn cho những cư dân nghèo đến từ các vùng nông thôn. Mặt khác, đây cũng là nơi sản sinh các vấn đề xã hội như ô nhiễm môi trường và tội phạm. Làng đô thị dần trở thành một khu vực khác biệt với Khu đô thị mới xung quanh, từ kết cấu hạ tầng đến không gian kiến trúc.
Từ đây có thể phân thành hai loại: Làng đô thị hy vọng (hoàn toàn có thể tái phát triển) và Làng đô thị tuyệt vọng (cần phá hủy).
Nhằm tối đa hóa giá trị đất đai và cải thiện hình ảnh hiện đại của thành phố, việc phá bỏ di dời Làng đô thị dần trở thành mối quan tâm của chính quyền và các nhà đầu tư có tiềm năng. Song điều này sẽ không đơn giản bởi nhiều hộ dân không muốn di dời mảnh đất mà tổ tiên của họ để lại.
 


Bức ảnh về một Làng đô thị tại thành phố Quảng Đông Trung Quốc, gắn với tiêu đề: Sự sụp đổ và nơi ẩn náu cuối cùng của người di cư.
  


Bức ảnh về Làng đô thị nằm xen trong Khu đô thị mới  tại phía Nam thành phố Hà Nội

Có thể hình thành một cách tiếp cận khác là tái phát triển, bảo tồn Làng đô thị, nhằm phát triển bất động sản cung cấp nhà ở giá rẻ trong thành phố... và là một nơi lan truyền các yếu tố văn hóa truyền thống.
Làng đô thị gắn với sự tự so sáng tạo và thần đạo mạnh mẽ của người Việt có thể trở thành địa điểm tạo lập tinh thần nơi chốn (Sense of place) của đô thị và có thể phát triển theo hướng mô hình Làng đô thị tại các quốc gia phát triển. Trong trường hợp này, Khu đô thị mới và Làng đô thị là một hiện tượng cộng sinh với ý nghĩa tích cực.
Người ta hay nói tới khái niệm “thời điểm giải quyết”, giải quyết sớm thì không có nguồn lực, giải quyết muộn thị không kịp. Có thể tại các thành phố khác, vấn đề Làng đô thị chưa cần phải quan tâm so với vô vàn các việc cấp thiết khác, song tại Hà Nội phải sớm đặt ra, trước khi mô hình Làng đô thị sụp đổ. Cuối tháng 9/2019, các báo đưa tin về trung tâm Hà Nội ở trong tình trạng ô nhiễm không khí rất nghiêm trọng. Một trong những nguyên nhân là do tại đây diện tích cây xanh chiếm tỷ lệ rất thấp, đặt biệt là tại các khu vực Làng đô thị.
Hiện tại, quan tâm của chính quyền và giới chuyên môn xây dựng tập trung chủ yếu cho các Khu đô thị mới, mà chưa chú ý đến Làng đô thị, tương tự như vấn đề cải tạo chung cư cũ. Phá bỏ hoặc tái sinh Làng đô thị, vấn đề này phải sớm được dự báo, nghiên cứu và đưa ra các giải pháp để xã hội cùng thực hiện.

TS. Phạm Đình Tuyển, Bộ môn KTCN, ĐHXD 

Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A0ng_(Vi%E1%BB%87t_Nam)
https://en.wikipedia.org/wiki/Urban_village
https://en.wikipedia.org/wiki/Service_economy
https://en.wikipedia.org/wiki/Garden_city_movement
https://en.wikipedia.org/wiki/New_Urbanism
https://en.wikipedia.org/wiki/Principles_of_intelligent_urbanism
https://en.wikipedia.org/wiki/Maslow%27s_hierarchy_of_needs
https://en.wikipedia.org/wiki/Urban_village_(China)
http://www.thatsmags.com/shenzhen/post/19140/the-fall-of-urban-villages-migrants-last-refuge
https://u.osu.edu/mclc/2017/05/30/the-fall-of-guangdongs-urban-villages/
https://en.wikipedia.org/wiki/Sense_of_place 
 

Cập nhật ( 14/10/2019 )
 
Tin đã đưa:
“Muốn cho người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã”
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com