Đánh giá sự phát triển các KKT, KCN của VN thông qua việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
11/09/2011
Đánh giá sự phát triển các KKT, KCN của Việt Nam thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước
Phát triển KCN, KCX, đặc biệt là các KKT là chủ trương lớn của Nhà nước trong quá trình CNH, HĐH đất nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng vùng, từng địa phương thông qua những kết quả rõ ràng về thu hút đầu tư và các nguồn lực, về dịch chuyển cơ cấu kinh tế…
Đối với các KKT, KKT cửa khẩu, việc thành lập và thực tế hoạt động đã mang lại những kết quả, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của các KKT, của các địa phương có KKT, đặc biệt là các vùng có đồng bào dân tộc ít người sinh sống, góp phần ổn định, nâng cao đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng – an ninh biên giới.
Cầu cảng xin măng Nghi Sơn, KKT Nghi Sơn, Thanh Hóa
Quán triệt chủ trương của Nhà nước, Bộ Công Thương đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch các KCN, KCX, KKT gắn liền với quy hoạch phát triển ngành công nghiệp và thương mại vùng, lãnh thổ, cũng như thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của mình được quy định tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ. Cụ thể như sau:
1. Về việc ban hành cơ chế, chính sách đối với các KKT, KKT cửa khẩu, để xác lập khung pháp lý cho hoạt động khu phi thuế quan trong các KKT, cùng với Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02/3/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách tài chính đối với KKT cửa khẩu, Thông tư 137/2009/TT-BTC ngày 03/7/2009 hướng dẫn thực hiện một số điều của Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng dự thảo quy chế hoạt động của khu phi thuế quan trong KKT và đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ban hành tại Quyết định số 100/2009/QĐ-TTg ngày 30/7/2009. Bản quy chế gồm 4 chương, 14 điều, quy định rõ về các điểm như: ranh giới địa lý; các hoạt động và đối tượng được phép hoạt động trong khu phi thuế quan; các quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ; chính sách thương mại đối với khu phi thuế quan… Theo đó, hoạt động trong khu phi thuế quan gồm: các hoạt động thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và một số hoạt động khác quy định tại Luật Thương mại; sản xuất, gia công, tái chế, lắp ráp, chế biến hàng hóa. Hàng hóa xuất – nhập khẩu vận chuyển ra – vào khu phi thuế quan phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan hải quan; hàng hóa trưng bày, triển lãm, lưu kho, lưu bãi tại khu phi thuế quan không bị hạn chế về số lượng và thời gian lưu trữ. Đối tượng hoạt động trong khu phi thuế quan được xuất – nhập khẩu các loại hàng hóa. Những loại hành hóa tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, gia công, quá cảnh tại khu phi thuế quan phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Đặc biệt, hàng hóa chỉ được kinh doanh theo hình thức chuyển khẩu tại khu phi thuế quan có gắn với cảng.
2. Về việc phân cấp, ủy quyền cho ban quản lý: Bộ Công Thương ủy quyền cho ban quản lý cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa sản xuất trong KCN, KKT; cấp, cấp lại, sửa đổi, bổ sung và gia hạn Giấy phép thành lập văn phòng đại diện thương mại của tổ chức và thương nhân nước ngoài đặt trụ sở tại KCN, KKT. Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước, Bộ Công Thương đã ủy quyền cho 36 ban quản lý cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), chủ yếu được thực hiện tại các KKT, KCN của các tỉnh, thành phố lớn, tập trung nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu, Hải Phòng, Hà Nội. Ngoài ra, tại các địa phương khác có số lượng cấp hạn chế như Cần Thơ, Đà Nẵng, Phú Thọ, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh. Hiện còn 14 ban quản lý tại các tỉnh như Quảng Nam, Đồng Tháp, Phú Yên, Long An… từ khi được ủy quyền nhưng chưa cấp C/O nào do không có doanh nghiệp xuất khẩu hoặc không xuất khẩu sang thị trường các nước ASEAN. Để hỗ trợ cho quá trình triển khai cấp C/O của các ban quản lý, Cục Thương mại điện tử và công nghệ thông tin của Bộ Công Thương đã tiến hành hướng dẫn thực hiện áp dụng hệ thống đề nghị cấp C/O quan trọng như mạng Internet (eCOSys). Tuy nhiên, cho đến thời điểm này các ban vẫn chưa triển khai đầy đủ.
Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng ủy quyền cho ban quản lý cấp, cấp lại, sửa đổi, bổ sung, gia hạn Giấy phép thành lập văn phòng đại diện thương mại của tổ chức và thương nhân nước ngoài đặt trụ sở tại KCN, KKT, đã có hướng dẫn tại văn bản số 7190/BCT-KH ngày 15/8/2008. Trên thực tế, số lượng thương nhân nước ngoài đặt văn phòng đại diện tại các KKT, KCN không đáng kể, chủ yếu là văn phòng đại diện của các thương nhân nước ngoài đồng thời có dự án đầu tư sản xuất tại các KKT, KCN nên việc thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với đối tượng này tương đối thông suốt, hiệu quả.
3. Về việc hướng dẫn ban quản lý cấp Giấy phép kinh doanh đối với hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào KCN, KKT, bên cạnh hệ thống các văn bản pháp quy đã được ban hành, bao gồm Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 và Quyết định số 10/QĐ-BTM ngày 21/5/2007 của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) và các Thông tư số 09/TT-BTM ngày 17/7/2007, Thông tư số 05/2008/TT-BCT ngày 14/4/2008, Bộ Công Thương đã có công văn số 4422/BCT-KH ngày 18/5/2009 để hướng dẫn ban quản lý các KKT và KCN về hoạt động nêu trên.
Trong thời gian qua, các Ban Quản lý KKT, KCN đã nghiêm túc thực hiện các quy định và hướng dẫn trong lĩnh vực này. Do đặc thù của các KKT nên phần lớn là thực hiện cấp phép bổ sung quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu và quyền phân phối cho các doanh nghiệp đã có dự án đầu tư sản xuất. Việc cấp phép bổ sung các mục tiêu hoạt động này nhằm góp phần hỗ trợ cho hoạt động sản xuất và đa dạng hóa dãy sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất nên về cơ bản các ban quản lý đều thực hiện cấp phép theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền cũng như chủ trương, định hướng quản lý.
4. Về quản lý nhà nước đối với các hoạt động công nghiệp trong các KCN, KKT, Bộ Công Thương cũng phối hợp với các bộ, ngành định hướng phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế không những đối với KCN mà còn đối với các KKT như phát triển ngành dầu khí trong KKT Dung Quất, phát triển ngành công nghiệp ô tô trong KKT mở Chu Lai… tạo động lực phát triển cho các KKT.
Nhìn chung, sau thời gian xây dựng và phát triển KKT, KCN, từ thực tiễn quá trình thực hiện quản lý Nhà nước của mình, Bộ Công Thương có những đánh giá khái quát về quá trình xây dựng và phát triển các KKT, KCN như sau:
Việc thành lập các KKT, KCN đã tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội các địa phương, đặc biệt là các địa phương khó khăn thông qua việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng các chính sách ưu đãi đầu tư khá cởi mở đối với các KKT, KCN nhằm thu hút nguồn vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Qua đó, kinh tế của các địa phương có bước phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy một số ngành sản xuất phát triển, đồng thời góp phần thu ngân sách, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, ngân sách nhà nước còn hạn hẹp nên nhiều KKT ra đời nhưng không thể nhận đủ lượng vốn ngân sách, dẫn tới tình trạng đầu tư hạ tầng không theo kịp với yêu cầu phát triển. Bên cạnh đó, mặc dù các KKT có xác định tính chất nhưng chưa thực sự làm rõ được việc hình thành khu chức năng nòng cốt, chủ đạo và gắn kết chặt chẽ với phát triển vùng. Công tác phối hợp phát triển các ngành, lĩnh vực trong các KKT theo các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch vẫn chưa thực hiện tốt. Các quy hoạch ngành và quy hoạch các KKT chưa gắn kết chặt chẽ nên việc kêu gọi đầu tư cũng như giám sát đầu tư theo quy hoạch chung vào các KKT chưa hoàn chỉnh, còn chồng chéo. Đặc biệt, sự phối hợp và liên kết, hợp tác kinh tế giữa các địa phương chưa được phát huy.
Trong thời gian qua, các bộ, ngành đã phát huy vai trò quản lý nhà nước của mình để hoàn thiện theo hướng thống nhất thể chế pháp lý cho công tác tổ chức, quản lý hoạt động và cơ chế, chính sách đối với các KKT, KCN đáp ứng yêu cầu quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN, KKT. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động của các KKT, KCN còn phức tạp, thiếu tính nhất quán và ổn định, ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi. Ví dụ, hiện nay Nghị định số 23/2007/NĐ-CP và Nghị định số 29/2008/NĐ-CP còn tồn tại sự khác biệt trong quy định về thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa. Theo Nghị định số 23/2007/NĐ-CP, UBND tỉnh, thành phố là cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép kinh doanh hoạt động mua bán hàng hóa sau khi có sự chấp thuận bằng văn bản của Bộ Công Thương. Tuy nhiên, theo Nghị định 29/2008/NĐ-CP thẩm quyền này được giao trực tiếp cho Ban Quản lý các KKT, KCN.
Mô hình Khu kiên hợp gang thép 15 triệu tấn/năm của Tập đoàn Formosa tại KKT Vũng Áng, Hà Tĩnh
Các KKT thành lập cùng với những ưu đãi về cơ chế, chính sách về nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, nhưng chưa thực sự đạt được hiệu quả theo mong muốn, theo mục tiêu đề ra. Vì vậy, trong thời gian tới, để các KKT, KCN, KCX phát triển theo đúng hướng, phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, các bộ, ngành cần hoàn thiện hơn nữa vai trò quản lý nhà nước của mình, cụ thể là:
- Nghiên cứu chuyên môn hóa các ngành, lĩnh vực và lợi thế của từng địa phương, từng vùng để tạo bước đột phá phát triển ở một số KKT, tránh gây nên sự cạnh tranh giữa các KKT;
- Nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch và điều hành thực hiện theo quy hoạch, đảm bảo tính thống nhất. Việc phát triển các KKT, KCN trong thời gian tới cần gắn với quy hoạch phát triển ngành và quy hoạch phát triển vùng, địa phương;
- Xử lý quan hệ hài hòa, phân định trách nhiệm cụ thể trong phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước đối với các KKT, KCN ở địa phương để vừa thông thoáng cho nhà đầu tư, vừa đảm bảo chặt chẽ;
- Rà soát tình hình thu hút các dự án đầu tư và tình hình đầu tư phát triển của từng khu để điều chỉnh quy hoạch cho phù hợp với thực tế phát triển trong thời kỳ mới, tránh lãng phí nguồn vốn đầu tư và nguồn lực đất đai.
PGS.TS. Lê Danh Vĩnh - Thứ trưởng Bộ Công Thương (theo khucongnghiep.com.vn)
“ Lãnh đạo phải cụ thể, phải kịp thời, phải thiết thực, phải có trọng điểm và nắm điển hình. Phải chống tư tưởng ngại khó khăn, tư tưởng ý lại. Phải tuyên truyền rộng khắp các chính sách khuyến khích sản xuất. Cán bộ phải xem lãnh đạo sản xuất là công tác trung tâm bậc nhất”.