Hưng Yên là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, có vị trí địa lý kinh tế khá thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội, giao lưu với các tỉnh và các nước trong khu vực, diện tích đất tự nhiên 923,45 km2 và dân số khoảng 1,2 triệu người, trong đó dân số trong độ tuổi lao động khoảng 650.000 người. Hưng Yên là cửa ngõ phía Đông của Thủ đô Hà Nội; có 3 tuyến vành đai 3, 4, 5 của Hà Nội chạy qua; nằm trọn trong 2 tuyến hành lang kinh tế Việt Nam - Trung Quốc là Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, nằm trên trục đường bộ, đường sắt, đường thuỷ Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Tỉnh Hưng Yên được sử dụng hệ thống giao thông quan trọng sẵn có của quốc gia, đã được nâng cấp và mở rộng như: tuyến quốc lộ 5A nối Hà Nội với cảng biển và thành phố Hải Phòng qua địa phận Hưng Yên 23 km, đường ôtô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, tuyến quốc lộ 39A nối quốc lộ 5A chạy từ Bắc xuống Nam của tỉnh đến các tỉnh duyên hải; tuyến quốc lộ 38 và hệ thống đường tỉnh lộ, phân bố đều khắp trên địa bàn, đảm bảo cho Hưng Yên thuận lợi trong giao thông, vận tải đến với các tỉnh trong khu vực và cả nước…
Nhằm phát huy các lợi thế về vị trí địa lý, hạ tầng kỹ thuật, trên cơ sở Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội định hướng đến 2020 của tỉnh, quy hoạch phát triển các KCN cả nước, tỉnh Hưng Yên đã quy hoạch phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 với 19 KCN tập trung, quy mô sử dụng đất 6.650 ha. Đến nay, đã có 13 KCN được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận đưa vào quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam, ưu tiên thành lập mới đến năm 2015 và đều có các nhà đầu tư đăng ký làm chủ đầu tư KCN, với tổng quy mô diện tích là 3.535 ha, gồm: KCN Phố Nối A quy mô 594 ha; KCN Phố Nối B quy mô 355 ha; KCN Minh Đức quy mô 200 ha; KCN Minh Quang quy mô 325 ha; KCN Vĩnh Khúc quy mô 380 ha; KCN Ngọc Long quy mô 150 ha; KCN Yên Mỹ II quy mô 230 ha; KCN Bãi Sậy quy mô 150 ha; KCN Kim Động quy mô 100 ha; KCN Dân Tiến quy mô 150 ha; KCN Lý Thường Kiệt quy mô 300 ha; KCN Thổ Hoàng quy mô 400 ha; KCN Tân Dân quy mô 200 ha. Sau khi được chấp thuận làm chủ đầu tư KCN, các nhà đầu tư đều tích cực triển khai thực hiện dự án, lập trình phê duyệt quy hoạch chi tiết KCN, lập trình phê duyệt dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN theo quy định.
Tình hình triển khai xây dựng hạ tầng và thu hút đầu tư vào các KCN
Đến nay, đã có 11 KCN được phê duyệt quy hoạch chi tiết KCN, với tổng diện tích 2.485 ha và đang tích cực triển khai công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng (GPMB), xây dựng hạ tầng kỹ thuật để tiếp nhận dự án đầu tư, gồm: KCN Phố Nối A, KCN Dệt may Phố Nối (thuộc KCN Phố Nối B), KCN Thăng Long II (thuộc KCN Phố Nối B), KCN Minh Đức, KCN Agrimeco Tân Tạo (thuộc KCN Vĩnh Khúc), KCN Linking Park (thuộc KCN Vĩnh Khúc), KCN Minh Quang, KCN Bãi Sậy, KCN Ngọc Long, KCN Megastar (thuộc KCN Yên Mỹ II), KCN Kim Động. Trong đó, có 03 KCN được thành lập và đi vào hoạt động, gồm có KCN Phố Nối A với quy mô diện tích giai đoạn đầu 390 ha, KCN Dệt may Phố Nối với quy mô diện tích giai đoạn I là 25 ha và KCN Thăng Long II với quy mô diện tích 220 ha. Các KCN này đều được đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, gồm: xây dựng hoàn thành đường giao thông nội bộ KCN, hệ thống cấp nước, thoát nước, cấp điện, hệ thống phòng cháy chữa cháy…, đều có nhà máy cấp nước, nhà máy xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động, bước đầu đã đáp ứng được mặt bằng để thu hút dự án đầu tư.
Tính đến hết ngày 20/5/2011, các KCN đi vào hoạt động đã tiếp nhận và còn hiệu lực 164 dự án (77 dự án nước ngoài và 87 dự án trong nước), với tổng vốn đầu tư đăng ký là 980 triệu USD và 8.976 tỷ đồng; tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê là 328 ha, trong đó:
- 114 dự án đầu tư (64 dự án đầu tư trong nước và 50 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu tư đăng ký 7.547 tỷ đồng và 415 triệu USD) được tiếp nhận vào KCN Phố Nối A, với diện tích đất công nghiệp đã cho thuê là 223,8/278,4 ha, bằng 80,3% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của KCN Phố Nối A giai đoạn đầu.
- 11 dự án đầu tư (05 dự án đầu tư trong nước và 06 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu tư đăng ký 390 tỷ đồng và 45 triệu USD) được tiếp nhận vào KCN Dệt may Phố Nối, với diện tích đất công nghiệp đã cho thuê là 20 ha, bằng 100% diện tích đất công nghiệp đã hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng và có thể cho thuê của giai đoạn I. Giai đoạn II của KCN Dệt may Phố Nối với quy mô diện tích 95,6 ha đã hoàn thành công tác bồi thường GPMB và đang được chủ đầu tư triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật.
- 18 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu tư đăng ký 506 triệu USD được tiếp nhận vào KCN Thăng Long II, diện tích đất công nghiệp đã cho thuê 53,1/153 ha, bằng 35% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của KCN Thăng Long II.
- 21 dự án đầu tư (18 dự án đầu tư trong nước và 03 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đầu tư đăng ký 1.039 tỷ đồng và 14 triệu USD) hiện đã được tiếp nhận vào KCN Minh Đức trước khi UBND tỉnh Hưng Yên quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết KCN, diện tích đất công nghiệp đã cho thuê 31,1/138,6 ha, bằng 22,4% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của KCN Minh Đức.
Một số dự án được tiếp nhận vào các KCN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có quy mô lớn, hàm lượng công nghệ tiên tiến, sản phẩm có sức cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, như: Dự án sản xuất, lắp ráp máy quét tài liệu và các bộ phận, linh kiện; thiết bị máy in, bộ quét la de, sản xuất, lắp ráp các bộ phận, linh kiện và thiết bị máy ảnh, bộ phận lấy nét, bộ phận quang học quy, mô tơ bước siêu nhỏ của Công ty TNHH Điện tử Canon Việt Nam, tổng vốn đầu tư đăng ký 2.134 tỷ đồng (tương đương 129 triệu đô la Mỹ); Dự án Sản xuất, lắp ráp và gia công máy vi tính, các thiết bị và sản phẩm internet, viễn thông, thông tin, phụ tùng, linh kiện các sản phẩm như: Đĩa từ, ổ đĩa cứng máy tính và nền thuỷ tinh dùng cho đĩa nhớ từ (phục vụ sản xuất ổ đĩa cứng) của Công ty TNHH Hoya Glass Disk Việt Nam II, tổng vốn đầu tư đăng ký 3.300 tỷ đồng (tương đương 200 triệu đô la Mỹ); Dự án sản xuất các sản phẩm vật liệu tổng hợp Compozit dùng cho máy bay thương mại của Công ty TNHH Nikkiso Việt Nam…
Trong số các dự án đầu tư vào các KCN còn hiệu lực, đến nay đã có 126 dự án đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh (53 dự án nước ngoài và 73 dự án trong nước), 32 dự án đang triển khai, xây dựng và 06 dự án đang tạm ngừng hoặc không triển khai. Tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án đến nay ước đạt 424 triệu USD và 6.454 tỷ đồng. Các dự án đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh đã tạo việc làm ổn định cho khoảng 19.500 lao động với mức thu nhập bình quân khoảng 2 triệu đồng/người/tháng, doanh thu năm 2010 đạt khoảng 292 triệu USD và 14.056 tỷ đồng, đóng góp vào ngân sách nhà nước khoảng 8,5 triệu USD và 455 tỷ đồng.
Nhìn chung, công tác quy hoạch phát triển KCN được tỉnh Hưng Yên quan tâm, chỉ đạo thực hiện, đảm bảo phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch ngành công nghiệp, Quy hoạch xây dựng trên địa bàn tỉnh. Các KCN được quy hoạch đều có vị trí thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng hạ tầng, kết nối hạ tầng giao thông đối ngoại. Các KCN đã được thành lập và quản lý theo quy chế KCN tập trung đều được đầu tư hạ tầng đồng bộ, đúng quy hoạch, cùng với cơ chế phân cấp, uỷ quyền cho Ban Quản lý các KCN giải quyết các thủ tục hành chính đã tạo được môi trường thuận lợi, hấp dẫn trong thu hút đầu tư. Vì vậy, thời gian qua việc thu hút các dự án đầu tư vào KCN tương đối nhanh. Công tác quản lý về quy hoạch xây dựng, bảo vệ môi trường được tăng cường, có hiệu quả hơn, đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững. Nhìn chung, các dự án đầu tư vào các KCN có tiến độ triển khai nhanh, phần lớn đã đi vào hoạt động sản xuất ổn định. Số dự án không triển khai thực hiện chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu là các dự án nhỏ và bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008-2009. Việc triển khai đầu tư thực hiện dự án của các doanh nghiệp trong KCN đã đóng góp tích cực vào quá trình phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hưng Yên.
Một số tồn tại, hạn chế
Quá trình xây dựng và phát triển KCN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên còn một số tồn tại, hạn chế như:
- Công tác GPMB gặp nhiều khó khăn do thủ tục thu hồi, bồi thường GPMB còn phức tạp, kéo dài; cơ chế, chính sách về bồi thường GPMB thay đổi nhiều lần, lại có nhiều điểm chưa thống nhất, rõ ràng dẫn đến nhiều vướng mắc khi tổ chức thực hiện; việc triển khai đầu tư xây dựng hạ tầng của một số KCN còn chậm.
- Công tác bảo vệ môi trường tại các KCN còn nhiều hạn chế, nhất là trong xử lý khí thải, phân loại thu gom xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại; việc thực hiện quan trắc định kỳ ở một số doanh nghiệp chưa thực hiện đúng quy định; một số doanh nghiệp còn vi phạm trong hoạt động xây dựng, bảo vệ môi trường, sử dụng đất đai; Ban Quản lý các KCN chưa có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nên còn khó khăn trong hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm. Hoạt động phối hợp giữa Ban Quản lý các KCN với các sở, ngành còn chưa chặt chẽ nên nhiều trường hợp xử lý chậm, không dứt điểm.
- Công tác thu hút, tiếp nhận các dự án có vốn đầu tư lớn, hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao vào các KCN còn chưa nhiều.
- Chất lượng nguồn nhân lực phục vụ các KCN chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh của hoạt động đầu tư, nhất là nguồn lao động có tay nghề cao. Việc tuyển dụng lao động qua đào tạo, lao động phổ thông của các doanh nghiệp trong thời gian qua còn có nhiều khó khăn.
- Đời sống của người lao động tại các KCN còn gặp nhiều khó khăn; vấn đề nhà ở, khu vui chơi, giải trí cho người lao động tại các KCN chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế phát triển. Nguyên nhân chủ yếu do việc phát triển hạ tầng xã hội chưa theo kịp tốc độ phát triển các KCN, quy hoạch xây dựng nhà ở xã hội nói chung, nhà ở cho người lao động trong các KCN nói riêng còn chậm, triển khai xây dựng hạ tầng các khu đô thị, các khu phát triển nhà ở tiến hành chậm, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai các dự án thứ cấp.
Bài học kinh nghiệm
Từ quá trình phát triển các KCN trên địa bàn, tỉnh Hưng Yên đã rút ra một số bài học kinh nghiệm để đẩy mạnh phát triển các KCN một cách bền vững và phát huy hiệu quả:
- Một là, sự thống nhất nhận thức và nhất quán hành động của toàn thể Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh trong quá trình quy hoạch, xây dựng KCN là vô cùng quan trọng. Cần có sự tuyên truyền vận động tốt để chính quyền địa phương, người dân trong vùng ảnh hưởng của KCN hỗ trợ tích cực trong công tác GPMB, bàn giao đất cho chủ đầu tư xây dựng hạ tầng KCN và tham gia giám sát, quản lý hoạt động của các KCN. Chính sách thỏa đáng, hợp lý sẽ góp phần đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải tỏa để nhanh chóng triển khai đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN và kêu gọi đầu tư.
- Hai là, quá trình quy hoạch phát triển KCN, đặc biệt là việc lựa chọn vị trí xây dựng, quy mô xây dựng, chọn ngành công nghiệp ưu tiên thu hút đầu tư vào KCN phải phù hợp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung, tiềm năng và lợi thế của địa phương, điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của khu vực, và đảm bảo an ninh quốc phòng. Việc quy hoạch phát triển KCN phải đảm bảo đồng bộ giữa phát triển công nghiệp với cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN và quá trình đô thị hóa.
- Ba là, lựa chọn chủ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phải có năng lực tài chính, kinh nghiệm hoạt động sản xuất, kinh doanh, kinh nghiệm quản lý và năng lực thu hút đầu tư. Việc đầu tư xây dựng hạ tầng phải đảm bảo đồng bộ, đúng quy hoạch, đảm bảo các điều kiện về môi trường, giao thông, điện, nước, thu gom xử lý nước thải,… phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp.
- Bốn là, thực hiện quản lý đối với KCN theo cơ chế “một cửa, tại chỗ” tại Ban Quản lý các KCN tỉnh đang là cơ chế quản lý phát huy tác dụng tốt, vừa đảm bảo nâng cao vai trò và năng lực thực hiện chức năng quản lý trực tiếp đối với KCN và các doanh nghiệp KCN của Ban Quản lý, vừa đảm bảo yêu cầu giải quyết nhanh gọn, chính xác các yêu cầu của KCN và doanh nghiệp KCN đặt ra. Để thực hiện tốt cơ chế quản lý trên, cần tiếp tục quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ của Ban Quản lý các KCN tỉnh thống nhất thực hiện trên toàn quốc. Đồng thời, cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ - công chức của Ban Quản lý, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp trong các KCN. Các lĩnh vực được giải quyết thủ tục hành chính tại Ban quản lý phải được công khai, minh bạch, có hướng dẫn chi tiết, cụ thể. Thực hiện tốt quy chế phối hợp với các sở, ngành trong việc giải quyết các yêu cầu của doanh nghiệp KCN, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước để quản lý chặt chẽ hoạt động đầu tư xây dựng hạ tầng cũng như hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật
- Năm là, ổn định chính sách vĩ mô, nhất là chính sách khuyến khích đầu tư cho lĩnh vực đầu tư xây dựng hạ tầng và hoạt động đầu tư vào các KCN nhằm tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư. Đồng thời cần ổn định chính sách bồi thường GPMB, tạo thuận lợi cho công tác GPMB cho các KCN và cho người dân có đất bị thu hồi ổn định cuộc sống.
- Sáu là, thu hút đầu tư phát triển sản xuất phải gắn với bảo đảm môi trường, phát triển bền vững và gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Do đó, trong quá trình vận động thu hút đầu tư, bố trí dự án đầu tư phải tuân thủ các quy định về ngành nghề thu hút đầu tư và quy hoạch xây dựng của KCN. Ưu tiên thu hút các dự án đầu tư có quy mô lớn, công nghệ tiên tiến, có khả năng đóng góp nhiều cho ngân sách, đồng thời phải đặc biệt quan tâm đến công tác quản lý bảo vệ môi trường. Cần cân đối, giải quyết hài hòa lợi ích của chủ đầu tư hạ tầng KCN và lợi ích của địa phương trong quá trình lựa chọn thu hút đầu tư, từ đó có sự phối hợp nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, giải quyết nhanh chóng và tốt nhất các yêu cầu của các doanh nghiệp KCN để hoạt động đầu tư vào các KCN vừa nhanh chóng, vừa có hiệu quả cao và đúng với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Định hướng, giải pháp xây dựng và phát triển các KCN tỉnh Hưng Yên giai đoạn 2011-2020
- Quản lý thực hiện tốt quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2020, tập trung hỗ trợ để các KCN đã có trong quy hoạch triển khai thực hiện nhanh, đồng thời căn cứ thực tế triển khai thực hiện để điều chỉnh bổ sung các KCN vào quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam.
- Tăng cường hỗ trợ các Công ty phát triển hạ tầng giải quyết những tồn tại, vướng mắc trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng KCN, đẩy mạnh đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhằm tạo mặt bằng sẵn có để tiếp nhận dự án đầu tư.
- Tăng cường công tác vận động thu hút đầu tư vào các KCN tập trung đã được quy hoạch. Định hướng thu hút đầu tư vào các KCN cần chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động theo hướng vừa nhanh chóng lấp đầy diện tích đất công nghiệp, vừa phải ưu tiên các dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến, có khả năng đóng góp nhiều cho ngân sách và có khả năng hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất của các doanh nghiệp khác trong nước, tạo sự liên hoàn thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp quốc gia. Tập trung phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị gia tăng và tạo khả năng cạnh tranh, hạn chế hoạt động gia công đơn thuần.
- Phát triển KCN gắn với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường để đảm bảo tính bền vững. Tăng cường công tác quản lý về quy hoạch xây dựng, bảo vệ môi trường KCN, trong đó cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động của các KCN. Ban Quản lý các KCN không cấp Giấy phép đầu tư cho các dự án đầu tư vào KCN không phù hợp với quy hoạch ngành nghề, có tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao hoặc/và khi KCN chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung đi vào hoạt động, đảm bảo vệ sinh môi trường.
- Tham mưu, kiến nghị với các cơ quan chức năng đẩy nhanh việc đầu tư, phát triển các khu đô thị, phát triển hạ tầng xã hội đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển các KCN; huy động các nguồn lực để đầu tư, phát triển các khu nhà ở cho người lao động trong các KCN, đảm bảo đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, phục vụ đầy đủ nhu cầu sinh hoạt văn hoá, tinh thần của người lao động.
ThS. Bùi Thế Cử - Phó Trưởng Ban Quản lý các KCN tỉnh Hưng Yên (Theo Tạp chí KCN Việt Nam) |