Tuần -10 - Ngày 20/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
ĐH đẳng cấp thế giới - Sự trỗi dậy của các trường ĐH Châu Á
13/05/2010

 

Đại học đẳng cấp thế giới được quan niệm như thế nào? Các quốc gia nên làm gì để đạt được mục tiêu đó ? Trong quan niệm của Phương Tây và các nước châu Á có sự khác biệt gì về vấn đề này? Con đường đi của Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Singapore có điều gì đáng nói, theo nhìn nhận của một học giả hàng đầu của Mỹ ? Dưới đây là bài viết của Richard C.Levin, Chủ tịch Đại học Yale, Hoa Kỳ đăng trên tạp chí Các vấn đề đối ngoại, Hoa Kỳ số tháng 5-6/2010 về vấn đề này như một tư liệu tham khảo.




Richard C.Levin.
Sự phát triển kinh tế chóng mặt của châu Á kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai- bắt đầu với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và sau đó là Hong Kông (Trung Quốc) và Singapore và cuối cùng đang tạo được vị thế đầy sức mạnh ở Ấn Độ và Trung Quốc - đã vĩnh viễn làm biến đổi thế cân bằng quyền lực trên thế giới.
Những quốc gia này đã nhận thức được tầm quan trọng của lực lượng lao động có giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế, và họ hiểu rằng, đầu tư trong nghiên cứu sẽ làm cho các nền kinh tế của họ có tính đổi mới và cạnh tranh hơn.

Bắt đầu vào những năm của thập kỷ sáu mươi, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã tìm cách tạo cho người dân của mình quyền tiếp cận mạnh mẽ hơn với giáo dục bậc sau trung học phổ thông và họ đã đạt được những kết quả rất ấn tượng.

Ngày nay, Trung Quốc và Ấn Độ, thậm chí còn có chương trình tham vọng hơn.

Cả hai nước đều tìm kiếm mở rộng các hệ thống đại học của mình, và kể từ cuối thập kỷ chín mươi, Trung Quốc đã thực hiện điều này một cách ấn tượng.

Cả hai nước cũng khát khao tạo nên một số lượng hạn chế các trường đại học đẳng cấp quốc tế. Ở Trung Quốc, chín trường đại học đã nhận được tài trợ bổ sung của chính phủ được biết đến với tên gọi: C9- một dạng liên minh các trường đại học danh tiếng ở Trung Quốc (tương tự như liên minh các trường đại học nổi tiếng vùng đông bắc Hoa Kỳ như: Brown, Columbia, Corrnell, Dartmouth, Harvard, Princeton, University of Pennsylvania và Yale)

Tại Ấn Độ, Bộ Phát triển Nguồn nhân lực mới đây đã thông báo dự định xây dựng 14 đại học hỗn hợp tầm cỡ đẳng cấp quốc tế. Các cường quốc châu Á khác cũng không muốn bị bỏ lại đằng sau: Singapore dự định sẽ xây trường Đại học Công nghệ và Tạo mẫu cộng đồng mới bổ sung cho một trường Mỹ thuật tự do mang phong cách Mỹ là một nhánh của trường Đại học Quốc gia Singapore.

Những sáng kiến này cho thấy rằng các chính phủ ở Châu Á hiểu rằng, việc thẩm tra các hệ thống đại học của mình là cần thiết để duy trì sự tăng trưởng trong một nền kinh tế tri thức toàn cầu thời kỳ hậu công nghiệp.

Các nước này cũng đang đạt được những tiến bộ bằng cách đầu tư vào nghiên cứu, cải tổ hướng tiếp cận truyền thống trong các chương trình giảng dạy cũng như trong giáo dục học và đang bắt đầu thu hút đội ngũ giảng viên nổi tiếng từ nước ngoài.

Dù vẫn còn nhiều thách thức, song rất có khả năng đến giữa thế kỷ 21, các trường đại học hàng đầu châu Á sẽ lọt vào số những trường đại học tốt nhất trên thế giới.

Những quốc gia tiên phong

Trong những giai đoạn đầu của sự phát triển thời kỳ hậu chiến, các chính phủ châu Á đã hiểu rằng một sự tiếp cận mạnh mẽ hơn với giáo dục đại học sẽ là điều kiện tiên quyết để duy trì tăng trưởng kinh tế. Một lực lượng lao động được đào tạo tốt, có học đã giúp biến đổi đất nước Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ trong nửa thế kỷ, đầu tiên từ những nền kinh tế nông nghiệp đã trở thành nền kinh tế sản xuất hàng hóa, rồi sau đó từ những nền kinh tế tập trung chủ yếu vào việc sản xuất chỉ đòi hỏi tay nghề thấp chuyển sang nền sản xuất đòi hỏi kỹ năng lành nghề.

Với sự đầu tư đáng kể của chính phủ, các hệ thống đại học ở cả hai nước này đã được mở rộng một cách nhanh chóng. Tại Nhật Bản, tỷ lệ đăng ký tuyển sinh tổng cộng - chỉ một phần nhỏ của số dân trong tuổi học đại học trên thực tế đăng ký vào các trường thuộc hệ giáo dục sau THPT - đã tăng từ 9% vào năm 1960 lên 42 % vào giữa những năm 90s. Ở Hàn Quốc, con số này, thậm chí còn cao hơn, từ 5% vào năm 1960 tới trên 50% vào giữa những năm 90s.

Trong giai đoạn này, Trung Quốc và Ấn Độ đã bị bỏ xa đằng sau. Thậm chí, trong giữa thập niên 90s, chỉ có 5% công dân Trung Quốc trong độ tuổi học đại học còn ở lại trường, đưa Trung Quốc xếp cùng hàng với Bangladesh, Botswana, và Swaziland.

Ở Ấn Độ, bắt chấp cố gắng thời hậu chiến muốn tạo ra một nhóm các trường đại học đa ngành tầm quốc gia và sau đó là Học viện Công nghệ dành cho giới tinh hoa Ấn Độ, tỷ lệ đăng ký tuyển sinh tổng trong độ tuổi học đại học vẫn chỉ chiếm 7% trong thập niên 90s.

Vào cuối những năm 90s, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã hiểu rằng đất nước của họ phải bắt kịp xu thế này. Phát biểu tại lễ kỷ niệm lần thứ một trăm ngày thành lập trường Đại học Bắc Kinh năm 1998, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã đề ra kế hoạch mở rộng mạnh mẽ hệ thống giáo dục đại học của Trung Quốc. Và Chính quyền Trung Quốc đã làm cho điều đó xảy ra- nhanh hơn bất cứ một cố gắng tương tự nào trước đó trong lịch sử.

Vào năm 2006, Trung Quốc đã chi 1,5% GDP của nước này cho giáo dục đại học, gần gấp ba lần con số đã được chi tiêu trong thập kỷ trước.

Những kết quả đầu tư của Bắc Kinh đang gây ra sự choáng váng. Hơn một thập kỷ sau lời tuyên bố của Chủ tịch Giang, con số các trường đại học của hệ giáo dục đại học ở Trung Quốc đã tăng hơn gấp đôi, từ 1.022 trường lên tới 2.263 trường. Trong khi đó số người Trung Quốc đăng ký vào một trường đại học mỗi năm đã tăng gấp năm lần- từ một triệu sinh viên vào năm 1997 tới hơn 5,5 triệu vào năm 2007. Sự mở rộng này là điều bất ngờ không hề được dự báo và số đăng ký nhập học đại học ở Trung Quốc giờ đây đã đứng đầu thế giới.

Tuy vậy, Trung Quốc vẫn còn một chặng đường dài phải đi tiếp để đạt được những khát vọng liên quan tới cơ hội tiếp cận nền giáo dục đại học. Bắt chấp trào lưu này, tỷ lệ đăng ký tuyển sinh vào hệ giáo dục đại học của Trung Quốc mới chỉ đạt 23%, so với tỷ lệ 58 % ở Nhật Bản, 59 % ở Anh, 82% ở Hoa Kỳ và sự bành trướng này đã chậm lại kể từ năm 2006 do nỗi e ngại rằng số lượng đăng ký vượt quá năng lực của đội ngũ giảng viên để có thể duy trì chất lượng đào tạo tại một số trường.

Tỷ lệ sinh viên-giáo viên đã tăng gấp đôi trong một thập kỷ qua. Song việc đăng ký sẽ vẫn tiếp tục gia tăng bởi có nhiều giáo viên được đào tạo do các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của nguồn nhân lực được đào tạo đối với sự phát triển kinh tế.

Sự thành công của Ấn Độ, đến bây giờ gần như không còn gây ấn tượng nữa, song khát vọng của họ vẫn không kém phần sôi sục.

Vốn là một nền dân chủ lớn trên thế giới, Ấn Độ đang trên đường trở thành một quốc gia đông dân nhất trong hai thập kỷ và dự kiến vào năm 2050, nếu mức tăng trưởng của nước này vẫn được duy trì thì Ấn Độ có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc.

Để đáp ứng nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, Bộ trưởng Bộ phát triển nguồn nhân lực Kapil Sibai đã đặt mục tiêu gia tăng tỷ lệ đăng ký tuyển sinh đại học tổng của nước này trong khu vực giáo dục sau THPT từ 12% lên tới 30 % vào năm 2020.

Mục tiêu này thể hiện bằng sự gia tăng tới 40 triệu sinh viên trong các trường đại học Ấn Độ trong vòng một thập kỷ tới - chắc chắn sẽ là một mục tiêu đầy tham vọng, song thậm chí chỉ một nửa con số đó thôi cũng đủ được coi là một thành tích xuất sắc.

Cạnh tranh với những nước có nền giáo dục hàng đầu

Trong khi đã đạt được những tiến bộ to lớn trong việc mở rộng cơ hội tiếp cận nền giáo dục đại học cho nhân dân, các quốc gia châu Á đi đầu đang tập trung vào mục tiêu thậm chí là đầy thách thức hơn: đó là xây dựng các trường đại học có khả năng cạnh tranh với những trường tốt nhất trên thế giới.

Chính phủ Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, và Hàn Quốc rõ ràng đang tìm cách nâng tầm một số trường đại học của mình theo chuẩn mực này bởi vì họ hiểu rõ vai trò quan trọng của nghiên cứu khoa học trong các trường đại học đến việc dẫn dắt tăng trưởng kinh tế ở Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản.

Và họ hiểu rằng các trường đại học đẳng cấp quốc tế là nơi lý tưởng để đào các sinh viên có nghề các ngành khoa học, công nghiệp, chính trị học và xã hội công dân - tạo ra những người có quan điểm tri thức và kỹ năng phê phán để giải quyết các vấn đề, để đổi mới và lãnh đạo.

Để đạt được sự thừa nhận này, không phải một sớm một chiều.

Ngày nay, Trung Quốc và Ấn Độ vẫn còn trong giai đoạn phát triển cho phép cạnh tranh với các quốc gia khác nhờ lợi thế chi phí lao động rẻ. Những chi phí nhân công này sẽ vẫn còn thấp, chừng nào còn lực lượng lao động dôi dư trong khu vực nông nghiệp.

Song dần dần, như đã xảy ra ở Nhật Bản và Hàn Quốc - khu vực sản xuất công nghiệp sẽ lớn mạnh để thu hút nguồn nhân lực thừa này, và do thiếu nguồn cung thường xuyên lao động giá rẻ, tiền lương sẽ bắt đầu tăng.

Trong giai đoạn đó, sẽ không thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế mà không đi kèm đổi mới, tạo ra những sản phẩm mới và dịch vụ mới, trong đó nhiều sản phẩm và dịch vụ là kết quả của việc nghiên cứu dựa trên thành tựu khoa học cơ bản.

Trong cuộc đua đô thị hóa hiện nay, Trung Quốc sẽ bắt đầu đánh mất ưu thế nguồn nhân công rẻ vào khoảng hai thập kỷ tới. Ấn Độ sẽ đạt tới ranh giới tương tự vào khoảng một thập kỷ sau. Điều này tạo cho cả hai quốc gia thời gian cần thiết để tạo dựng khả năng đổi mới của mình.

Để đơn giản hóa điều này, hãy xem xét vẫn đề nan giải sau: Nhật Bản tăng trưởng nhanh hơn Mỹ trong giai đoạn từ 1950 tới 1990 do nguồn lao động dôi dư của họ đã bị hút vào công nghiệp, và lại phát triển rất chậm so với chính Hoa Kỳ giai đoạn sau đó.

Giờ đây, hãy xem, liệu Nhật Bản có phát triển chậm đến mức như vậy không nếu Micrrosoft, Netscape, Apple và Gooogle là các tập đoàn của Nhật Bản. Có lẽ là không. Đó là sự đổi mới dựa trên khoa học cho phép nước Mỹ bỏ xa Nhật Bản trong hai thập kỷ trước thời điểm khủng hoảng vào năm 2008. Đó cũng là sự thất bại của Nhật Bản trong đổi mớph - nguyên nhân chính gây ra sự tụt hậu của nước này.


ĐH Tokyo Nhật Bản.

Phát triển các trường đại học hàng đầu là một mục tiệu cao vời vợi. Các trường đẳng cấp quốc tế có được vị trí này bằng cách tuyển mộ những học giả là lãnh đạo tầm cỡ toàn cầu trong các lĩnh vực. Để đạt được điều này đòi hỏi phải mất nhiều thời gian.

Phải mất hàng thể kỷ để Đại học Harvard và Đại học Yale đạt được sự bình đẳng so với Đại học Oxford và Đại học Cambridge và phải mất hơn nửa thế kỷ đối với Đại học Stanford và University of Chicago ( cả hai trường đều thành lập năm 1892) để đạt được uy tín tầm cỡ thế giới.

Trường đại học Châu Á duy nhất lọt vào tốp 25 trường đại học uy tín toàn cầu chính là ĐH Tokyo được thành lập vào năm 1877.

Ở hầu hết các nước này, xây dựng các trường đại học có đủ năng lực nghiên cứu tầm quốc tế đồng nghĩa với việc thu hút các học giả trình độ cao nhất. Trong khoa học, điều này đòi hỏi trang thiết bị nghiên cứu hàng đầu, tài trợ nghiên cứu tương ứng, lương và đãi ngộ cạnh tranh. Trung Quốc đang đầu tư cơ bản cho tất cả những ưu tiên nóng bỏng này. Các đại học hàng đầu của TP Thượng Hải (Shanghai) như Đaị học Phúc Đán (Fudan), Đại học Giao thông Thượng Hải...- mỗi trường đều phát triển toàn bộ các khuôn viên đại học mới trong vài năm gần đây.

Họ có những cơ sở nghiên cứu nổi tiếng và đều được đặt gần kề với các đối tác công nghiệp. Tài trợ cho nghiên cứu ở Trung Quốc đã gia tăng song song với việc mở rộng đăng ký học đại học và các trường đại học Trung Quốc giờ đây có thể cạnh tranh mạnh hơn, hiệu quả hơn với chất lượng trí tuệ của đội ngũ cán bộ giảng dạy tầm cỡ toàn cầu.

Vào những năm 90, chỉ có 10 % số nhà khoa học Trung Quốc đạt học vị Ph.D trong khoa học và chế tạo máy ở Hoa Kỳ trở về đại lục phục vụ.

Con số đó giờ đây đang tăng lên, và rất nhanh chóng, Trung Quốc đã có thể thu hút hồi hương các học giả Hoa kiều đang ở tầm tuổi bừng nở sự nghiệp của mình dám dứt bở những vị trí trọn đời ở Mỹ và Anh do bị hấp dẫn bởi điều kiện làm việc ở đại lục đã được cải thiện đáng kể và còn bởi có cơ hội tham gia vào sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Ấn Độ cũng vậy, đang có được thành công trong việc lôi kéo các Ấn kiều thành đạt ở nước ngoài về nước, tuy nhiên Ấn Độ vẫn tiến hành cách thức đầu tư mà Trung Quốc đã thực hiện trong việc nâng cao cơ sở đào tạo và trang thiết bị, đẩy mạnh tài trợ cho nghiên cứu và tăng lượng cho các giáo sư hàng đầu.

Ưu tiên nghiên cứu

Ngoài các điều kiện vật chất đòi hỏi cần phải có để thu hút đội ngũ giáo viên giỏi, một hệ thống phân phối tài trợ nghiên cứu hiệu quả cũng rất cần thiết.

Các nguyên tắc cơ bản cho việc tạo nên một hệ thống như vậy đã được vạch ra từ năm 1945 trong báo cáo của Vannever Bush, người mà sau này trở thành Cố vấn Khoa học cho Tổng thống Mỹ Harry Truman.

Báo cáo này nói rõ, các phát kiến trong khoa học cơ bản chính là nền tảng cho sự phát triển các công nghệ phục vụ các ngành công nghiệp. Báo cáo cũng lưu ý rằng, những lợi ích kinh tế từ những lợi thế này trong khoa học cơ bản thường không được tích lũy trong nhiều thập kỷ. Và tại thời điểm có những đột phá khoa học, những lợi thế đó thường mang lại những kết quả hầu như nằm ngoài dự kiến.

Thí dụ, khi tia laser lần đầu tiên được phát minh ra vào cuối thập niên 50, không ai có thể tưởng tượng rằng nó sẽ trở nên hữu dụng trong phẫu thuật mắt hàng thập kỷ sau đó. Bởi hiếm khi nhà phát minh đầu tiên có thể thu được đầy đủ lợi ích kinh tế từ những cải tiến trong khoa học cơ bản, nên các công ty tư nhân thường không có động lực để thực hiện những đầu tư sản xuất mang tính xã hội. Do đó, Chính phủ cần phải đi đầu trong công việc này.

Báo cáo năm 1945 của Bush đã hình thành nên khung cơ sở cho việc Chính phủ Mỹ hỗ trợ nghiên cứu khoa học. Điều này được hình thành trên ba nguyên tắc vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Trước hết, Chính quyền Liên bang chịu trách nhiệm đầu tiên trong việc tài trợ các khoa học cơ bản.

Thứ hai, các trường đại học - hơn là các phòng thí nghiệm cho Chính phủ điều hành, các viện nghiên cứu không có nhiệm vụ giảng dạy, hoặc các công ty tư nhân - chính là các thể chế cơ bản chịu trách nhiệm thực hiện những nghiên cứu do chính phủ tài trợ

Thứ ba, mặc dù chính phủ xác định tổng vốn tài trợ phù hợp cho các lĩnh vực khoa học khác nhau, song những dự án và chương trình đặc thù được quyết định không phải dựa trên những nền tảng thương mại hay chính trị mà là thông qua một quá trình đánh giá lựa chọn chuyên sâu, trong đó các chuyên gia độc lập đánh giá đánh giá các đề xuất chỉ dựa trên tinh thần cống hiến khoa học của các đề tài.

Hệ thống này đã tạo nên một kết quả đáng kinh ngạc. Nó có lợi từ việc làm phát lộ ra những nhà khoa học tốt nghiệp đại học ngay trong quá trình đào tạo, thậm chí cả những người chưa kết thúc việc đuổi sự nghiệp khoa học suốt một quá trình dài - với việc nghiên cứu những kỹ thuật và những lĩnh vực mũi nhọn.

Nó cho phép các nghiên cứu sinh tận mắt chứng kiến một ngành khoa học có ý nghĩa, hơn là chỉ đọc về các dấu mốc khoa học ở thập kỷ gần nhất trong sách giáo khoa. Và điều đó có nghĩa rằng, chỉ có những nghiên cứu tốt nhất mới được tài trợ - chứ không phải là những nghiên cứu được những thành viên cao cấp nhất của một khoa, bộ môn hay được những người có quan hệ chính trị tốt giới thiệu bảo lãnh.

Ở châu Á, điều này không phải là cơ chế tiêu biểu trong tài trợ nghiên cứu.

Từ góc độ lịch sử, hầu hết các nghiên cứu khoa học ở châu Á đều là một bộ phận nằm trong các trường đại học, các viện nghiên cứu và các phòng thí nghiệm do Chính phủ quản lý.

Tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, vốn tài trợ về cơ bản được phân bổ trực tiếp cho những nghiên cứu và phát triển ứng dụng (R&D) và chỉ một phần rất nhỏ dành cho khoa học cơ bản. Thí dụ tại Trung Quốc, chỉ khoảng 5% vốn tài trợ cho nghiên cứu và phát triển là dành cho nghiên cứu cơ bản so với tỷ lệ 10-30 % ở hầu hết các nước phát triển

Về khoản vốn tài trợ cho khoa học trích từ GDP, Mỹ chi nhiều hơn gấp bẩy lần so với chi tiêu của Trung Quốc cho nghiên cứu cơ bản

Ngoài ra, ở hầu hết các nước châu Á, đánh giá của các chuyên gia dựa trên cơ sở cống hiến khoa học của các nghiên cứu rất ít được sử dụng cho các tài trợ lớn . Nhật Bản trước đây đã đặt hàng một số lượng lớn đề tài nghiên cứu cho các nhà khoa học cao cấp nhất. Mặc dù trong vài năm gần đây Tokyo đang dần nhận thức rằng cần phải dành một phần quỹ nghiên cứu lớn hơn cho các đánh giá lựa chọn, song chỉ 14% mức chi của Chính phủ Nhật Bản dành cho những nghiên cứu không liên quan tới quốc phòng trong năm 2008 được dành cho việc đánh giá lựa chọn các nghiên cứu. Con số này ở Mỹ là 73 %.

Như thế, không nghi ngờ gì nữa, các chính phủ châu Á hiện coi nghiên cứu và phát triển (R&D) là một ưu tiên. Chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển ở Trung Quốc đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, từ 0,6 GDP trong năm 1995 tới 1,3% trong năm 2005.

Con số này vẫn rất thấp dưới mức chi tiêu của các nước phát triển cho nghiên cứu khoa học, song chắc chắn mức chi tiêu này sẽ còn tăng thêm nữa.. Chính phủ Trung Quốc đặt mục tiêu tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển tới 2,5 % GDP vào năm 2020.

Thêm đó cũng có vài bằng chứng cho việc trả lượng thông qua tài trợ nghiên cứu gia tăng: từ 1995 đến 2005, các học giả Trung Quốc đã tăng gấp bốn lần số lượng các công trình nghiên cứu được xuất bản trên các tạp chí công nghệ và khoa học hàng đầu.

Chỉ có Mỹ, Anh, Đức và Nhật Bản chiếm số lượng lớn hơn.
Không chỉ là chuyện ghi nhớ

Song với một quốc gia, để phát triển một cách thuận lợi phải đầu tư nhiều hơn chứ không phải chỉ năng lực nghiên cứu không thôi. Nó sẽ phải cần đến những công dân có trình độ học vấn, có năng lực suy nghĩ độc lập và độc đáo trong kinh doanh . Cụ thể các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã rất dứt khoát thừa nhận các trường đại học Trung Quốc đang mất dần hai yếu tố là: bề rộng liên ngành và chiều sâu óc phê phán.

Các trường đại học châu Á, cũng giống như các trường ở châu Âu, song không giống các trường ở Mỹ, đều có truyền thống chuyên biệt hóa sâu.

Sinh viên chọn một môn học hoặc một chuyên ngành ở tuổi 18 và nghiên cứu đôi chút sâu hơn trong giai đoạn sau đó. Và khác với những trường đại học ưu tú ở Châu Âu và Mỹ, giáo dục ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc chủ yếu dựa vào việc học vẹt theo trí nhớ; sinh viên là người nghe thụ động, và họ hiếm khi chất vấn người khác hoặc chất vấn chính các giáo sư của mình trên lớp học. Việc học tập trung vào một khối lượng lớn kiến thức chứ không tập trung và việc phát triển năng lực suy nghĩ phê phán và độc lập.

Cách tiếp cận của châu Á truyền thống đối với chương trình giảng dạy và phương pháp giáo dục có thể là tốt cho việc đào tạo các kỹ sư và các quan chức chính phủ trung cấp, song nó không phù hợp đối với sự phát triển khả năng lãnh đạo và sức sáng tạo;

Trong khi các nhà chính trị Mỹ và Anh quan ngại rằng châu Á mà cụ thể là Trung Quốc đang đào tạo ra nhiều nhà khoa học và kỹ sư hơn phương Tây thì người Trung Quốc và những nước khác ở châu Á lại lo lắng rằng sinh viên của họ thiếu sự độc lập và sự sáng tạo cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế lâu dài của nước mình.

Họ sợ rằng việc chuyên biệt hóa giảng dạy làm cho số lượng sinh viên ra trường bị thu hẹp lại và rằng, một nền sư phạm truyền thống châu Á làm cho những sinh viên này không có tính sáng tạo.

Các quan chức ở Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc ngày càng bị hấp dẫn trước mô hình giáo dục Hoa Kỳ đối với hệ đào tạo sau đại học.

Đặc trưng của các trường đại học ở Hoa Kỳ là trong hai năm đầu, sinh viên được tự khám phá hàng loạt các môn học trước khi lựa chọn ra một môn học duy nhất để tập trung học vào hai năm cuối cùng.

Lôgích đằng sau hướng tiếp cận này là đặt sinh viên vào vị trí tiếp cận đa dạng các môn học và lĩnh vực nghiên cứu; trang bị cho họ những cách nhìn khác nhau về thế giới để chuẩn bị đối mặt với những vấn đề mới mẻ, phức tạp khó lường.

Trong nền kinh tế tri thức ngày nay, chí ít cũng bắt đầu từ hồi thế kỷ 19, khi triết lý về giáo dục tự do được Cardinal John Henry Newman truyền bá, đó không phải là sự hiểu biết chuyện sâu vào một lĩnh vực, mà chính khả năng chuyển hóa thông tin và giải quyết các vấn đề mới là tính cách và phẩm chất của một con người có học vấn tốt.

Báo cáo của Đại học Yale năm 1882 - một tài liệu có ảnh hưởng lớn được Jeremiah Day (thời đó là Hiệu trưởng Đại học Yale) viết, đã phân biệt hai khái niệm "phương pháp" và "trí tuệ".

Làm chủ một lĩnh vực đặc thù của tri thức - đòi hỏi "trí tuệ" - là một khái niệm về giá trị thường trực trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng.

Sinh viên, những người khát khao trở thành nhà lãnh đạo trong kinh doanh, ngành y, luật, trong chính phủ hay là học giả cần "phương pháp" tư duy - khả năng thích ứng với nhứng điều kiện đang thay đổi chóng mặt, đối mặt với những thực tế mới và tìm ra cách giải quyết vấn đề.

Đào xới những thói quen này đòi hỏi sinh viên phải chủ động hơn chứ không chỉ đóng vai trò là người tiếp nhận thông tin một cách thụ động.

Họ phải học cách suy nghĩ độc lập, biết tạo ra tranh luận, bảo vệ hoặc điều chỉnh ý kiến trước những thông tin mới hoặc khi gặp chỉ trích gay gắt.

Hệ thống phụ đạo của trường Oxford - Cambridge có lẽ là thí dụ mẫu mực cho nền giáo dục này.

Ở Mỹ, thay thế hệ thống phụ đạo này là những buổi thảo luận tương tác trong đó sinh viên được khuyến khích nắm giữ và bảo vệ những quan điểm trong những nhóm nhỏ; được khuyến khích thách thức mọi quan điểm hơn là chấp nhận một cách mù quáng chỉ nhất nhất theo quan điểm của người hướng dẫn.

Các bài thi kiểm tra ở các đại học hàng đầu của Mỹ hiếm khi ra đề học thuộc lòng về các sự kiện hiện tượng. Họ yêu cầu học sinh giải quyết các vấn đề sinh viên chưa bao giờ gặp phải hoặc phân tích đánh giá hai mặt của một vấn đề còn tranh cãi và nói lên quan điểm riêng của mình.

Đã có sự thay đổi theo phong cách giáo dục Mỹ đáng chú ý tại châu Á.

Đại học Bắc Kinh (Peking) giới thiệu chương trình Yuanpei Honors năm 2001, một chương trình thí điểm “ném” một nhóm chọn lọc những sinh viên Trung Quốc có năng khiếu nhất vào một môi trường nghệ thuật tự do. Những sinh viên này sống cùng với nhau và thử nghiệm hàng loạt các môn học đa dạng không hạn chế trong hai năm trước khi lựa chọn một lĩnh vực nghiên cứu chính yếu chủ chốt.

Tại Đại học Phúc Đán (Fudan), tất cả các sinh viên hiện đều theo học một chương trình học đa nghành chung trong năm học thứ nhất trước khi đi đến lựa chọn nghiên cứu một ngành học hoặc một chuyên ngành riêng. Tại Đại học Nam Kinh (Nanjing) sinh viên cũng không bị buộc phải nhanh chóng lựa chọn một bộ môn ngay khi nộp đơn vào học; Thay vào đó, sinh viên có thể chọn trong số hơn 60 khóa học kiến thức chung trong năm đầu tiên trước khi quyết định một lĩnh vực chuyên biệt.

Đại học Yonsei ở Hàn Quốc, đã mở ra một trường văn hóa nghệ thuật tự do ngay trong khuôn viên nhà trường và Đại học Quốc gia Singapore đã thành lập một Chương trình học giả của trường Tổng hợp Quốc gia, theo đó sinh viên thực hiện các công trình bổ sung nằm ngoài các môn học hoặc ngành nghề chuyên biệt đã chọn.

Thay đổi phong cách giảng dạy khó khăn hơn là thay đổi chương trình học. Điều này sẽ làm tăng chi phí hơn khi áp dụng cho các lớp học có số đăng ký nhỏ hơn và điều đó đòi hỏi các thầy cô giáo phải chấp nhận những phương pháp mới.

Đây là thách thức chủ yếu ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, những quốc gia mà tại đó, phương pháp giáo dục truyền thống vẫn được duy trì. (Đối với Ấn Độ và Singapore, nơi mà di sản từ ảnh hưởng của người Anh đã tạo nên một tập thể các giáo sư còn thoải mái hơn trong việc khuyến khích sinh viên sáng tạo, thì điều này không đáng lo ngại mấy).

Người Trung Quốc khát khao vượt qua thách thức này và họ thừa nhận rằng, những giáo sư đã tu nghiệp ở nước ngoài và được tiếp cận những phương pháp giảng dạy khác, chính là sự lựa chọn phù hợp nhất để sửa đổi lại công tác giảng dạy ở Trung Quốc.

Các cơ hội gia tăng cho các sinh viên châu Á di du học ở phương Tây và những sinh viên phương Tây sang học tại các trường đại học châu Á cũng sẽ giúp cho quá trình chuyển giao này thêm thuận lợi.

Tuy nhiên, tại Trung Quốc, việc có được sự ủng hộ rộng rãi cho những thay đổi này là rất khó khăn do một phương thức quản lý khác, theo đó trách nhiệm điều hành một trường đại học được phân chia giữa Hiệu trưởng và Bí thư đảng ủy Nhà trường.

Thông thường, hai nhà lãnh đạo này làm việc với nhau rất ăn ý hiệu quả.

Song cũng có những lo lắng rằng, cơ cấu ra quyết định như trên đã hạn chế khả năng của Hiệu trưởng Trường đại học trong việc đạt được mục tiêu học thuật của mình, bởi vì việc phê chuẩn những nhân sự điều hành cao cấp - Phó Hiệu trưởng và các Trưởng khoa lại nằm trong tay Hội đồng nhà trường mà Hội đồng đó thường do Bí thư Đảng ủy nhà trường làm Chủ tịch hơn là do chính Hiệu trưởng làm Chủ tịch.

Chính phủ Trung Quốc đã lên tiếng thừa nhận cơ cấu điều hành các trường đại học trên đây có vấn đề; và thực tế này đang được Bộ Giáo dục xem xét lại. (Đây là những quan điểm chủ quan của tác giả bài báo- ND)

Tập trung vào những trường tốt nhất

Không phải trường đại học nào cũng đều có thể và cần phải trở thành trường đẳng cấp quốc tế.

Kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Anh, Đức là bài học tốt. Ở Mỹ và Anh, giáo dục đại học là một hệ thống khác biệt với nhiều kiểu nhà trường trong đó trường đại học tổng hợp có chức năng nghiên cứu hỗn hợp là một dạng.

Và trong nhóm các trường đại học hỗn hợp, sự trợ giúp của Chính phủ cho công tác nghiên cứu chủ yếu dựa trên những cống hiến xứng đáng, phẩm chất đó cho phép những trường này phát triển trong khi các trường khác thì bị tụt lại đằng sau.

Tại Mỹ, hoạt động quuyên tiền cho tổ chức phi lợi nhuận càng củng cố thêm sự khác biệt này. Thành công gây mầm cho thành công và trong phần lớn trường hợp, những trường mạnh nhất lại thu hút được nhiều quyên góp từ thiện nhất.

Tại Đức, trái lại, chính sách của Chính phủ Đức kể từ sau Thế chiến II đã giữ cho các trường đại học không mắc phải sự tương phản này.

Sau chiến tranh, Chính phủ Đức mở cửa cho việc đăng ký học đại học, cho phép tỷ lệ sinh viên trên giảng viên tăng cao ở mọi nơi, tách biệt các nghiên cứu viên ưu tú và đưa họ vào những viện nghiên cứu riêng rẽ, mặt khác lại phân bổ các nguồn lực trên nền tảng công bằng hơn là dựa trên tiêu chí phẩm chất.

Bằng cách này, Chính phủ Đức đã triệt tiêu sự khác biệt ở tầm quốc tế mà một thời các trường đại học của Đức đã đạt được.

Chỉ mới gần đây, chính phủ Đức mới quyết định tập trung các nguồn lực của mình vào ba trường đại học cụ thể nhằm làm cho ba trường này có tính cạnh tranh toàn cầu.

Nhật Bản và Hàn Quốc đã học hỏi nhiều từ bài học này.

Song cả hai nước để có những trường đại học quốc gia uy tín tầm cỡ được tài trợ tốt: Đại học Tokyo và Đại học Quốc gia Seoul chẳng hạn. Ở Nhật Bản, ít nhất có hai đại học công khác là Đại học Kyoto và Đại học Osaka cũng không quá thua kém Đại học Tokyo và đều nằm trên số các trường còn lại.

Trung Quốc cũng hiểu rõ chiến lược này.

Năm 1998, nước này đã xác định rõ có bẩy trường đại học được hưởng đầu tư không tương xứng: gồm Phúc Đán (Fudan), Nam Kinh (Nanjing), Bắc Kinh, (Peking), Thượng Hải (Shanghai), Giao thông (Jiao Tong), Thanh Hoa (Tsinghua), Giao thông Tây An (Xi'an Jiaotong) và Chiết Giang (Zhejiang).

Và thậm chí trong số bẩy trường này, chính phủ đã vạch ra sự khác biệt trong đầu tư của mỗi trường, tập trung các nguồn lực vào Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa trong một cố gắng đẩy những trường này lên tầm cỡ lọt vào trong số 20 nhà trường tốt nhất trên thế giới.

Các trường đại học tại Thượng Hải - Đại học Phúc Đán và Giao thông Thượng Hải - đang được đầu tư đáng kể do nguồn tài trợ bổ sung lớn của chính quyền thành phố Thượng Hải.

Ấn Độ lại là một trường hợp bất thường không theo quy tắc nào.

Vào những năm 50 và 60, nước này tập trung các nguồn nhân lực của mình vào việc hình thành năm Học viện công nghệ Ấn Độ. Những học viện này và 10 đại học khác được bổ sung trong vòng hai thập kỷ qua là những trường đại học nổi tiếng chuyên đào tạo các kỹ sư, song tất cả số này đều không có tính cạnh tranh toàn cầu trong lĩnh vực nghiên cứu.

Và Ấn Độ đã không có một cố gắng mang tính hệ thống nào để nâng cao địa vị của bất cứ trường nào trong số 14 trường đại học quốc gia hỗn hợp đang thiếu đầu tư trầm trọng.

Bộ trưởng bộ phát triển nguồn nhân lực Ấn Độ hiện nay đã kiên quyết xây dựng nên các trường đại học hỗn hợp tầm quốc tế của nước này.

Song những lực lượng theo chủ nghĩa bình quân vốn thống trị nền dân chủ của nước này - lực lượng cho phép xem xét lại công bằng xã hội đối với chế độ: chính quyền dựa trên sự thống trị của nhân tài bằng cách lựa chọn các sinh viên và giáo viên - đã buộc những ứng viên phải rất xuất sắc.

Mạnh mẽ hơn bất cứ nơi nào khác ở châu Á, việc nhập học của sinh viên và thuê đội ngũ giáo viên ở Ấn Độ được điều chỉnh bởi chỉ tiêu đang bảo đảm cho sự đại diện của các tầng lớp bị thiệt thòi về quyền lợi theo quan niệm truyền thống.

Ngoài ra, những cân nhắc mang tính chính trị dường như cũng chống lại sự tập trung nguồn lực cho một số nhỏ trường đại học có uy tín.

Hai năm trước, Chính phủ Ấn Độ thông báo sẽ tạo nên 30 trường đại học mới có đẳng cấp quốc tế, cứ mỗi bang một trường mới – và điều này rõ ràng là tham vọng không thực tế.

Con số đó dần dần giảm xuống còn 14 trường, cứ mỗi bang một trường, nhưng không có một trường đại học hỗn hợp nào. Song thậm chí mục tiêu này dường như cũng khó đạt được

Căn cứ vào những thành tựu đáng kinh ngạc của các học giả Ấn Độ tại cộng đồng Ấn kiều, nguồn nhân lực cho việc xây dựng các trường đại học tầm cỡ thế giới Ấn Độ là nằm trong tầm tay.

Song vẫn còn phải chờ xem, liệu chính phủ Ấn Độ có thể đủ cảm thông để chấp nhận những mức lương cao ngất cần phải có để thu hút những học giả hàng đầu thế giới về phục vụ đất nước không.

Do đó, chính phủ Ấn Độ đang theo đuổi một chiến lược hứa hẹn hơn, cho phép thành lập các chi nhánh đại học nước ngoài và giảm bớt gánh nặng luật lệ đè lên các trường đại học tư nhân.

Tuy nhiên theo một khía cạnh nào đó, Ấn Độ có lợi thế mạnh mẽ so với Trung Quốc, ít nhất là trong giai đoạn hiện tại.

Nó đáp ứng được đòi hỏi của đội ngũ giáo viên được tự do theo đuổi những mối quan tâm trí tuệ của họ theo bất cứ hướng nào họ muốn và cho phép sinh viên cũng như giáo viên quyền bày tỏ quan điểm, và điều đó kiểm nghiệm các học thuyết chưa từng được phát kiến cũng như các học thuyết lạ lùng chưa từng biết đến (trong triết học, chính trị, khoa học...)- những tự do là đặc trưng không thể thiếu cho bất cứ một trường đại học lớn nào....

Có thể đạt được địa vị đẳng cấp quốc tế trong các khoa học trong khi vẫn còn hạn chế trong khoa học chính trị, khoa học xã hội và nhân văn. Một số học giả Xô viết đặc biệt đã đạt được vị thế này trong toán học và vật lý trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Song không có một trường đại học nào từng đạt được vị thế đó. (Đây là quan điểm chủ quan của tác giả bài báo. Trên thực tế, chỉ cần lấy thí dụ Đại học Tổng hợp Quốc gia Moscow (MGU, thành lập năm 1755,) là đại học danh tiếng hàng đầu nước Nga, từng lọt vào danh sách 10 đại học đẳng cấp hàng đầu thế giới, là trường đại học uy tín của nước Nga cả trước, trong và sau kỷ nguyên Xô viết với những nhà khoa học tầm cỡ thế giới từng đoạt nhiều giải thưởng Nobel- ND)

Sự tiến bộ dựa trên sự tùy thuộc

Khi mà các rào cản đối với sự chuyển dịch con người, hàng hóa và thông tin bị dỡ bỏ và khi quá trình phát triển kinh tế phát triển, các nước châu Á đang gia tăng cơ hội tiếp cận với các nguồn lực thông tin, vật chất và nguồn lực con người cần thiết để tạo nên các trường đại học hàng đầu.

Nếu họ tập trung các nguồn lực ngày càng lớn mạnh của mình vào đúng những trường đại học tương xứng, khai thác được vốn trí tuệ toàn cầu và có được sự tự do bày tỏ chính kiến và tự do tìm hiểu thì họ sẽ thành công trong việc xây dựng các trường đại học có đẳng cấp quốc tế.

Điều này sẽ không thể xảy ra một sớm một chiều mà phải mất hàng thập kỷ. Song, nó có thể diễn ra nhanh hơn với mức độ chưa từng thấy.

Với phương Tây, sự trỗi dậy của các trường đại học châu Á nên được xem như là cơ hội chứ không phải mối đe dọa. Hãy xem Đại học Yale đã có lợi như thế nào từ việc này.

Một trong những nhà di truyền học nổi tiếng nhất hiện này là Tian Xu và các thành viên trong nhóm của ông, giờ đây đã chia sẻ thời gian làm việc của họ trong những phòng thí nghiệm ở New Haven và các phòng thí nghiệm ở Đại học Phúc Đán, Thượng Hải.

Một giáo sự đáng kính khác của Đại học Yale, nhà sinh vật học Xing Wang Deng đã có một thỏa thuận tương tự với Đại học Bắc Kinh.

Trong cả hai trường hợp, người Trung Quốc đã đáp ứng yêu cầu về một không gian nghiên cứu thông thoáng và đội ngũ nhân viên nghiên cứu có trình độ để hỗ trợ các cố gắng của các nhà khoa học của đại học Yale trong khi đó, sự hợp của phía Trung Quốc với các nhà khoa học ở Đại học Yale đã nâng cao kỹ năng cho các giáo sư trẻ Trung Quốc và sinh viên tốt nghiệp của Đại lục.

Cả hai, trong cuộc chơi này đều có lợi.

Một tranh cãi tương tự có thể diễn ra về dòng chảy sinh viên và sự trao đổi các ý tưởng.

Toàn cầu hóa nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh nghiệm giao thoa văn hóa và tần xuất trao đổi sinh viên đã tăng lên gấp bội.

Một khi các đại học châu Á được nâng cấp thì kinh nghiệm của sinh viên tham gia vào các trương trình trao đổi cũng phong phú thêm. Mọi người đều có lợi từ việc trao đổi ý tưởng cũng như mọi người đều có lợi từ tự do trao đổi hàng hóa và dịch vụ.

Cuối cùng, việc gia tăng chất lượng giáo dục toàn cầu sẽ được thể hiện qua việc xuất hiện những công dân năng động và am hiểu hơn ở mọi nơi.

Số phận của hành tinh chúng ta tuỳ thuộc vào khả năng phối hợp xuyên biên giới của con người nhằm giải quyết các vấn đề nóng bỏng nhất của xã hội như: sự tồn tại đói nghèo, lan tràn bệnh tật, phát triển vũ khí hạt nhân, cạn kiệt nguồn nước sạch, nguy cơ thế giới ấm lên.

Và chỉ có những công dân và các nhà lãnh đạo có học vấn mới có khả năng giải quyết tốt các vấn đề này.
Richard C.Levin
Song Hà (dịch) (từ Tạp chí Các vấn đề Đối ngoại,
Hoa Kỳ, số tháng 5-6/2010) - nhandan.com.vn

 
Cập nhật ( 26/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 2" (2023-2024) chuyên ngành Kiến trúc Công nghệ K65
+ Kế hoạch "Thực tập cán bộ kĩ thuật đợt 3" (2023-2024) ngành Kiến trúc K65
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 2" (2023-2024) ngành Kiến trúc K65
+ Danh sách lớp nguyện vọng - Học kì 2 (2023-2024)
+ Nhiệm vụ thiết kế "Đồ án Kiến trúc 5 - K66" (2023-2024)
+ Phân công giảng dạy Bộ môn KTCN, Học kỳ 2, Năm học 2023 – 2024
+ Phân công giảng dạy HK3 (2023 - 2024)
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 3" (2023-2024) chuyên ngành Kiến trúc Công nghệ K64
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 3" (2023-2024) ngành Kiến trúc K64

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com