|
Richard C.Levin. |
Sự phát triển kinh tế chóng mặt của châu Á kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai- bắt đầu với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và sau đó là Hong Kông (Trung Quốc) và Singapore và cuối cùng đang tạo được vị thế đầy sức mạnh ở Ấn Độ và Trung Quốc - đã vĩnh viễn làm biến đổi thế cân bằng quyền lực trên thế giới.
Những quốc gia này đã nhận thức được tầm quan trọng của lực lượng lao động có giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế, và họ hiểu rằng, đầu tư trong nghiên cứu sẽ làm cho các nền kinh tế của họ có tính đổi mới và cạnh tranh hơn.
Bắt đầu vào những năm của thập kỷ sáu mươi, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan đã tìm cách tạo cho người dân của mình quyền tiếp cận mạnh mẽ hơn với giáo dục bậc sau trung học phổ thông và họ đã đạt được những kết quả rất ấn tượng.
Ngày nay, Trung Quốc và Ấn Độ, thậm chí còn có chương trình tham vọng hơn.
Cả hai nước đều tìm kiếm mở rộng các hệ thống đại học của mình, và kể từ cuối thập kỷ chín mươi, Trung Quốc đã thực hiện điều này một cách ấn tượng.
Cả hai nước cũng khát khao tạo nên một số lượng hạn chế các trường đại học đẳng cấp quốc tế. Ở Trung Quốc, chín trường đại học đã nhận được tài trợ bổ sung của chính phủ được biết đến với tên gọi: C9- một dạng liên minh các trường đại học danh tiếng ở Trung Quốc (tương tự như liên minh các trường đại học nổi tiếng vùng đông bắc Hoa Kỳ như: Brown, Columbia, Corrnell, Dartmouth, Harvard, Princeton, University of Pennsylvania và Yale)
Tại Ấn Độ, Bộ Phát triển Nguồn nhân lực mới đây đã thông báo dự định xây dựng 14 đại học hỗn hợp tầm cỡ đẳng cấp quốc tế. Các cường quốc châu Á khác cũng không muốn bị bỏ lại đằng sau: Singapore dự định sẽ xây trường Đại học Công nghệ và Tạo mẫu cộng đồng mới bổ sung cho một trường Mỹ thuật tự do mang phong cách Mỹ là một nhánh của trường Đại học Quốc gia Singapore.
Những sáng kiến này cho thấy rằng các chính phủ ở Châu Á hiểu rằng, việc thẩm tra các hệ thống đại học của mình là cần thiết để duy trì sự tăng trưởng trong một nền kinh tế tri thức toàn cầu thời kỳ hậu công nghiệp.
Các nước này cũng đang đạt được những tiến bộ bằng cách đầu tư vào nghiên cứu, cải tổ hướng tiếp cận truyền thống trong các chương trình giảng dạy cũng như trong giáo dục học và đang bắt đầu thu hút đội ngũ giảng viên nổi tiếng từ nước ngoài.
Dù vẫn còn nhiều thách thức, song rất có khả năng đến giữa thế kỷ 21, các trường đại học hàng đầu châu Á sẽ lọt vào số những trường đại học tốt nhất trên thế giới.
Những quốc gia tiên phong
Trong những giai đoạn đầu của sự phát triển thời kỳ hậu chiến, các chính phủ châu Á đã hiểu rằng một sự tiếp cận mạnh mẽ hơn với giáo dục đại học sẽ là điều kiện tiên quyết để duy trì tăng trưởng kinh tế. Một lực lượng lao động được đào tạo tốt, có học đã giúp biến đổi đất nước Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ trong nửa thế kỷ, đầu tiên từ những nền kinh tế nông nghiệp đã trở thành nền kinh tế sản xuất hàng hóa, rồi sau đó từ những nền kinh tế tập trung chủ yếu vào việc sản xuất chỉ đòi hỏi tay nghề thấp chuyển sang nền sản xuất đòi hỏi kỹ năng lành nghề.
Với sự đầu tư đáng kể của chính phủ, các hệ thống đại học ở cả hai nước này đã được mở rộng một cách nhanh chóng. Tại Nhật Bản, tỷ lệ đăng ký tuyển sinh tổng cộng - chỉ một phần nhỏ của số dân trong tuổi học đại học trên thực tế đăng ký vào các trường thuộc hệ giáo dục sau THPT - đã tăng từ 9% vào năm 1960 lên 42 % vào giữa những năm 90s. Ở Hàn Quốc, con số này, thậm chí còn cao hơn, từ 5% vào năm 1960 tới trên 50% vào giữa những năm 90s.
Trong giai đoạn này, Trung Quốc và Ấn Độ đã bị bỏ xa đằng sau. Thậm chí, trong giữa thập niên 90s, chỉ có 5% công dân Trung Quốc trong độ tuổi học đại học còn ở lại trường, đưa Trung Quốc xếp cùng hàng với Bangladesh, Botswana, và Swaziland.
Ở Ấn Độ, bắt chấp cố gắng thời hậu chiến muốn tạo ra một nhóm các trường đại học đa ngành tầm quốc gia và sau đó là Học viện Công nghệ dành cho giới tinh hoa Ấn Độ, tỷ lệ đăng ký tuyển sinh tổng trong độ tuổi học đại học vẫn chỉ chiếm 7% trong thập niên 90s.
Vào cuối những năm 90s, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã hiểu rằng đất nước của họ phải bắt kịp xu thế này. Phát biểu tại lễ kỷ niệm lần thứ một trăm ngày thành lập trường Đại học Bắc Kinh năm 1998, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã đề ra kế hoạch mở rộng mạnh mẽ hệ thống giáo dục đại học của Trung Quốc. Và Chính quyền Trung Quốc đã làm cho điều đó xảy ra- nhanh hơn bất cứ một cố gắng tương tự nào trước đó trong lịch sử.
Vào năm 2006, Trung Quốc đã chi 1,5% GDP của nước này cho giáo dục đại học, gần gấp ba lần con số đã được chi tiêu trong thập kỷ trước.
Những kết quả đầu tư của Bắc Kinh đang gây ra sự choáng váng. Hơn một thập kỷ sau lời tuyên bố của Chủ tịch Giang, con số các trường đại học của hệ giáo dục đại học ở Trung Quốc đã tăng hơn gấp đôi, từ 1.022 trường lên tới 2.263 trường. Trong khi đó số người Trung Quốc đăng ký vào một trường đại học mỗi năm đã tăng gấp năm lần- từ một triệu sinh viên vào năm 1997 tới hơn 5,5 triệu vào năm 2007. Sự mở rộng này là điều bất ngờ không hề được dự báo và số đăng ký nhập học đại học ở Trung Quốc giờ đây đã đứng đầu thế giới.
Tuy vậy, Trung Quốc vẫn còn một chặng đường dài phải đi tiếp để đạt được những khát vọng liên quan tới cơ hội tiếp cận nền giáo dục đại học. Bắt chấp trào lưu này, tỷ lệ đăng ký tuyển sinh vào hệ giáo dục đại học của Trung Quốc mới chỉ đạt 23%, so với tỷ lệ 58 % ở Nhật Bản, 59 % ở Anh, 82% ở Hoa Kỳ và sự bành trướng này đã chậm lại kể từ năm 2006 do nỗi e ngại rằng số lượng đăng ký vượt quá năng lực của đội ngũ giảng viên để có thể duy trì chất lượng đào tạo tại một số trường.
Tỷ lệ sinh viên-giáo viên đã tăng gấp đôi trong một thập kỷ qua. Song việc đăng ký sẽ vẫn tiếp tục gia tăng bởi có nhiều giáo viên được đào tạo do các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của nguồn nhân lực được đào tạo đối với sự phát triển kinh tế.
Sự thành công của Ấn Độ, đến bây giờ gần như không còn gây ấn tượng nữa, song khát vọng của họ vẫn không kém phần sôi sục.
Vốn là một nền dân chủ lớn trên thế giới, Ấn Độ đang trên đường trở thành một quốc gia đông dân nhất trong hai thập kỷ và dự kiến vào năm 2050, nếu mức tăng trưởng của nước này vẫn được duy trì thì Ấn Độ có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc.
Để đáp ứng nguồn nhân lực cho tăng trưởng kinh tế, Bộ trưởng Bộ phát triển nguồn nhân lực Kapil Sibai đã đặt mục tiêu gia tăng tỷ lệ đăng ký tuyển sinh đại học tổng của nước này trong khu vực giáo dục sau THPT từ 12% lên tới 30 % vào năm 2020.
Mục tiêu này thể hiện bằng sự gia tăng tới 40 triệu sinh viên trong các trường đại học Ấn Độ trong vòng một thập kỷ tới - chắc chắn sẽ là một mục tiêu đầy tham vọng, song thậm chí chỉ một nửa con số đó thôi cũng đủ được coi là một thành tích xuất sắc.
Cạnh tranh với những nước có nền giáo dục hàng đầu
Trong khi đã đạt được những tiến bộ to lớn trong việc mở rộng cơ hội tiếp cận nền giáo dục đại học cho nhân dân, các quốc gia châu Á đi đầu đang tập trung vào mục tiêu thậm chí là đầy thách thức hơn: đó là xây dựng các trường đại học có khả năng cạnh tranh với những trường tốt nhất trên thế giới.
Chính phủ Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, và Hàn Quốc rõ ràng đang tìm cách nâng tầm một số trường đại học của mình theo chuẩn mực này bởi vì họ hiểu rõ vai trò quan trọng của nghiên cứu khoa học trong các trường đại học đến việc dẫn dắt tăng trưởng kinh tế ở Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản.
Và họ hiểu rằng các trường đại học đẳng cấp quốc tế là nơi lý tưởng để đào các sinh viên có nghề các ngành khoa học, công nghiệp, chính trị học và xã hội công dân - tạo ra những người có quan điểm tri thức và kỹ năng phê phán để giải quyết các vấn đề, để đổi mới và lãnh đạo.
Để đạt được sự thừa nhận này, không phải một sớm một chiều.
Ngày nay, Trung Quốc và Ấn Độ vẫn còn trong giai đoạn phát triển cho phép cạnh tranh với các quốc gia khác nhờ lợi thế chi phí lao động rẻ. Những chi phí nhân công này sẽ vẫn còn thấp, chừng nào còn lực lượng lao động dôi dư trong khu vực nông nghiệp.
Song dần dần, như đã xảy ra ở Nhật Bản và Hàn Quốc - khu vực sản xuất công nghiệp sẽ lớn mạnh để thu hút nguồn nhân lực thừa này, và do thiếu nguồn cung thường xuyên lao động giá rẻ, tiền lương sẽ bắt đầu tăng.
Trong giai đoạn đó, sẽ không thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế mà không đi kèm đổi mới, tạo ra những sản phẩm mới và dịch vụ mới, trong đó nhiều sản phẩm và dịch vụ là kết quả của việc nghiên cứu dựa trên thành tựu khoa học cơ bản.
Trong cuộc đua đô thị hóa hiện nay, Trung Quốc sẽ bắt đầu đánh mất ưu thế nguồn nhân công rẻ vào khoảng hai thập kỷ tới. Ấn Độ sẽ đạt tới ranh giới tương tự vào khoảng một thập kỷ sau. Điều này tạo cho cả hai quốc gia thời gian cần thiết để tạo dựng khả năng đổi mới của mình.
Để đơn giản hóa điều này, hãy xem xét vẫn đề nan giải sau: Nhật Bản tăng trưởng nhanh hơn Mỹ trong giai đoạn từ 1950 tới 1990 do nguồn lao động dôi dư của họ đã bị hút vào công nghiệp, và lại phát triển rất chậm so với chính Hoa Kỳ giai đoạn sau đó.
Giờ đây, hãy xem, liệu Nhật Bản có phát triển chậm đến mức như vậy không nếu Micrrosoft, Netscape, Apple và Gooogle là các tập đoàn của Nhật Bản. Có lẽ là không. Đó là sự đổi mới dựa trên khoa học cho phép nước Mỹ bỏ xa Nhật Bản trong hai thập kỷ trước thời điểm khủng hoảng vào năm 2008. Đó cũng là sự thất bại của Nhật Bản trong đổi mớph - nguyên nhân chính gây ra sự tụt hậu của nước này.
ĐH Tokyo Nhật Bản.
Phát triển các trường đại học hàng đầu là một mục tiệu cao vời vợi. Các trường đẳng cấp quốc tế có được vị trí này bằng cách tuyển mộ những học giả là lãnh đạo tầm cỡ toàn cầu trong các lĩnh vực. Để đạt được điều này đòi hỏi phải mất nhiều thời gian.
Phải mất hàng thể kỷ để Đại học Harvard và Đại học Yale đạt được sự bình đẳng so với Đại học Oxford và Đại học Cambridge và phải mất hơn nửa thế kỷ đối với Đại học Stanford và University of Chicago ( cả hai trường đều thành lập năm 1892) để đạt được uy tín tầm cỡ thế giới.
Trường đại học Châu Á duy nhất lọt vào tốp 25 trường đại học uy tín toàn cầu chính là ĐH Tokyo được thành lập vào năm 1877.
Ở hầu hết các nước này, xây dựng các trường đại học có đủ năng lực nghiên cứu tầm quốc tế đồng nghĩa với việc thu hút các học giả trình độ cao nhất. Trong khoa học, điều này đòi hỏi trang thiết bị nghiên cứu hàng đầu, tài trợ nghiên cứu tương ứng, lương và đãi ngộ cạnh tranh. Trung Quốc đang đầu tư cơ bản cho tất cả những ưu tiên nóng bỏng này. Các đại học hàng đầu của TP Thượng Hải (Shanghai) như Đaị học Phúc Đán (Fudan), Đại học Giao thông Thượng Hải...- mỗi trường đều phát triển toàn bộ các khuôn viên đại học mới trong vài năm gần đây.
Họ có những cơ sở nghiên cứu nổi tiếng và đều được đặt gần kề với các đối tác công nghiệp. Tài trợ cho nghiên cứu ở Trung Quốc đã gia tăng song song với việc mở rộng đăng ký học đại học và các trường đại học Trung Quốc giờ đây có thể cạnh tranh mạnh hơn, hiệu quả hơn với chất lượng trí tuệ của đội ngũ cán bộ giảng dạy tầm cỡ toàn cầu.
Vào những năm 90, chỉ có 10 % số nhà khoa học Trung Quốc đạt học vị Ph.D trong khoa học và chế tạo máy ở Hoa Kỳ trở về đại lục phục vụ.
Con số đó giờ đây đang tăng lên, và rất nhanh chóng, Trung Quốc đã có thể thu hút hồi hương các học giả Hoa kiều đang ở tầm tuổi bừng nở sự nghiệp của mình dám dứt bở những vị trí trọn đời ở Mỹ và Anh do bị hấp dẫn bởi điều kiện làm việc ở đại lục đã được cải thiện đáng kể và còn bởi có cơ hội tham gia vào sự trỗi dậy của Trung Quốc.
Ấn Độ cũng vậy, đang có được thành công trong việc lôi kéo các Ấn kiều thành đạt ở nước ngoài về nước, tuy nhiên Ấn Độ vẫn tiến hành cách thức đầu tư mà Trung Quốc đã thực hiện trong việc nâng cao cơ sở đào tạo và trang thiết bị, đẩy mạnh tài trợ cho nghiên cứu và tăng lượng cho các giáo sư hàng đầu.
Ưu tiên nghiên cứu
Ngoài các điều kiện vật chất đòi hỏi cần phải có để thu hút đội ngũ giáo viên giỏi, một hệ thống phân phối tài trợ nghiên cứu hiệu quả cũng rất cần thiết.
Các nguyên tắc cơ bản cho việc tạo nên một hệ thống như vậy đã được vạch ra từ năm 1945 trong báo cáo của Vannever Bush, người mà sau này trở thành Cố vấn Khoa học cho Tổng thống Mỹ Harry Truman.
Báo cáo này nói rõ, các phát kiến trong khoa học cơ bản chính là nền tảng cho sự phát triển các công nghệ phục vụ các ngành công nghiệp. Báo cáo cũng lưu ý rằng, những lợi ích kinh tế từ những lợi thế này trong khoa học cơ bản thường không được tích lũy trong nhiều thập kỷ. Và tại thời điểm có những đột phá khoa học, những lợi thế đó thường mang lại những kết quả hầu như nằm ngoài dự kiến.
Thí dụ, khi tia laser lần đầu tiên được phát minh ra vào cuối thập niên 50, không ai có thể tưởng tượng rằng nó sẽ trở nên hữu dụng trong phẫu thuật mắt hàng thập kỷ sau đó. Bởi hiếm khi nhà phát minh đầu tiên có thể thu được đầy đủ lợi ích kinh tế từ những cải tiến trong khoa học cơ bản, nên các công ty tư nhân thường không có động lực để thực hiện những đầu tư sản xuất mang tính xã hội. Do đó, Chính phủ cần phải đi đầu trong công việc này.
Báo cáo năm 1945 của Bush đã hình thành nên khung cơ sở cho việc Chính phủ Mỹ hỗ trợ nghiên cứu khoa học. Điều này được hình thành trên ba nguyên tắc vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Trước hết, Chính quyền Liên bang chịu trách nhiệm đầu tiên trong việc tài trợ các khoa học cơ bản.
Thứ hai, các trường đại học - hơn là các phòng thí nghiệm cho Chính phủ điều hành, các viện nghiên cứu không có nhiệm vụ giảng dạy, hoặc các công ty tư nhân - chính là các thể chế cơ bản chịu trách nhiệm thực hiện những nghiên cứu do chính phủ tài trợ
Thứ ba, mặc dù chính phủ xác định tổng vốn tài trợ phù hợp cho các lĩnh vực khoa học khác nhau, song những dự án và chương trình đặc thù được quyết định không phải dựa trên những nền tảng thương mại hay chính trị mà là thông qua một quá trình đánh giá lựa chọn chuyên sâu, trong đó các chuyên gia độc lập đánh giá đánh giá các đề xuất chỉ dựa trên tinh thần cống hiến khoa học của các đề tài.
Hệ thống này đã tạo nên một kết quả đáng kinh ngạc. Nó có lợi từ việc làm phát lộ ra những nhà khoa học tốt nghiệp đại học ngay trong quá trình đào tạo, thậm chí cả những người chưa kết thúc việc đuổi sự nghiệp khoa học suốt một quá trình dài - với việc nghiên cứu những kỹ thuật và những lĩnh vực mũi nhọn.
Nó cho phép các nghiên cứu sinh tận mắt chứng kiến một ngành khoa học có ý nghĩa, hơn là chỉ đọc về các dấu mốc khoa học ở thập kỷ gần nhất trong sách giáo khoa. Và điều đó có nghĩa rằng, chỉ có những nghiên cứu tốt nhất mới được tài trợ - chứ không phải là những nghiên cứu được những thành viên cao cấp nhất của một khoa, bộ môn hay được những người có quan hệ chính trị tốt giới thiệu bảo lãnh.
Ở châu Á, điều này không phải là cơ chế tiêu biểu trong tài trợ nghiên cứu.
Từ góc độ lịch sử, hầu hết các nghiên cứu khoa học ở châu Á đều là một bộ phận nằm trong các trường đại học, các viện nghiên cứu và các phòng thí nghiệm do Chính phủ quản lý.
Tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, vốn tài trợ về cơ bản được phân bổ trực tiếp cho những nghiên cứu và phát triển ứng dụng (R&D) và chỉ một phần rất nhỏ dành cho khoa học cơ bản. Thí dụ tại Trung Quốc, chỉ khoảng 5% vốn tài trợ cho nghiên cứu và phát triển là dành cho nghiên cứu cơ bản so với tỷ lệ 10-30 % ở hầu hết các nước phát triển
Về khoản vốn tài trợ cho khoa học trích từ GDP, Mỹ chi nhiều hơn gấp bẩy lần so với chi tiêu của Trung Quốc cho nghiên cứu cơ bản
Ngoài ra, ở hầu hết các nước châu Á, đánh giá của các chuyên gia dựa trên cơ sở cống hiến khoa học của các nghiên cứu rất ít được sử dụng cho các tài trợ lớn . Nhật Bản trước đây đã đặt hàng một số lượng lớn đề tài nghiên cứu cho các nhà khoa học cao cấp nhất. Mặc dù trong vài năm gần đây Tokyo đang dần nhận thức rằng cần phải dành một phần quỹ nghiên cứu lớn hơn cho các đánh giá lựa chọn, song chỉ 14% mức chi của Chính phủ Nhật Bản dành cho những nghiên cứu không liên quan tới quốc phòng trong năm 2008 được dành cho việc đánh giá lựa chọn các nghiên cứu. Con số này ở Mỹ là 73 %.
Như thế, không nghi ngờ gì nữa, các chính phủ châu Á hiện coi nghiên cứu và phát triển (R&D) là một ưu tiên. Chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển ở Trung Quốc đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, từ 0,6 GDP trong năm 1995 tới 1,3% trong năm 2005.
Con số này vẫn rất thấp dưới mức chi tiêu của các nước phát triển cho nghiên cứu khoa học, song chắc chắn mức chi tiêu này sẽ còn tăng thêm nữa.. Chính phủ Trung Quốc đặt mục tiêu tăng chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển tới 2,5 % GDP vào năm 2020.
Thêm đó cũng có vài bằng chứng cho việc trả lượng thông qua tài trợ nghiên cứu gia tăng: từ 1995 đến 2005, các học giả Trung Quốc đã tăng gấp bốn lần số lượng các công trình nghiên cứu được xuất bản trên các tạp chí công nghệ và khoa học hàng đầu.
Chỉ có Mỹ, Anh, Đức và Nhật Bản chiếm số lượng lớn hơn.
Không chỉ là chuyện ghi nhớ
Song với một quốc gia, để phát triển một cách thuận lợi phải đầu tư nhiều hơn chứ không phải chỉ năng lực nghiên cứu không thôi. Nó sẽ phải cần đến những công dân có trình độ học vấn, có năng lực suy nghĩ độc lập và độc đáo trong kinh doanh . Cụ thể các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã rất dứt khoát thừa nhận các trường đại học Trung Quốc đang mất dần hai yếu tố là: bề rộng liên ngành và chiều sâu óc phê phán.
Các trường đại học châu Á, cũng giống như các trường ở châu Âu, song không giống các trường ở Mỹ, đều có truyền thống chuyên biệt hóa sâu.
Sinh viên chọn một môn học hoặc một chuyên ngành ở tuổi 18 và nghiên cứu đôi chút sâu hơn trong giai đoạn sau đó. Và khác với những trường đại học ưu tú ở Châu Âu và Mỹ, giáo dục ở Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc chủ yếu dựa vào việc học vẹt theo trí nhớ; sinh viên là người nghe thụ động, và họ hiếm khi chất vấn người khác hoặc chất vấn chính các giáo sư của mình trên lớp học. Việc học tập trung vào một khối lượng lớn kiến thức chứ không tập trung và việc phát triển năng lực suy nghĩ phê phán và độc lập.
Cách tiếp cận của châu Á truyền thống đối với chương trình giảng dạy và phương pháp giáo dục có thể là tốt cho việc đào tạo các kỹ sư và các quan chức chính phủ trung cấp, song nó không phù hợp đối với sự phát triển khả năng lãnh đạo và sức sáng tạo;
Trong khi các nhà chính trị Mỹ và Anh quan ngại rằng châu Á mà cụ thể là Trung Quốc đang đào tạo ra nhiều nhà khoa học và kỹ sư hơn phương Tây thì người Trung Quốc và những nước khác ở châu Á lại lo lắng rằng sinh viên của họ thiếu sự độc lập và sự sáng tạo cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế lâu dài của nước mình.
Họ sợ rằng việc chuyên biệt hóa giảng dạy làm cho số lượng sinh viên ra trường bị thu hẹp lại và rằng, một nền sư phạm truyền thống châu Á làm cho những sinh viên này không có tính sáng tạo.
Các quan chức ở Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc ngày càng bị hấp dẫn trước mô hình giáo dục Hoa Kỳ đối với hệ đào tạo sau đại học.
Đặc trưng của các trường đại học ở Hoa Kỳ là trong hai năm đầu, sinh viên được tự khám phá hàng loạt các môn học trước khi lựa chọn ra một môn học duy nhất để tập trung học vào hai năm cuối cùng.
Lôgích đằng sau hướng tiếp cận này là đặt sinh viên vào vị trí tiếp cận đa dạng các môn học và lĩnh vực nghiên cứu; trang bị cho họ những cách nhìn khác nhau về thế giới để chuẩn bị đối mặt với những vấn đề mới mẻ, phức tạp khó lường.
Trong nền kinh tế tri thức ngày nay, chí ít cũng bắt đầu từ hồi thế kỷ 19, khi triết lý về giáo dục tự do được Cardinal John Henry Newman truyền bá, đó không phải là sự hiểu biết chuyện sâu vào một lĩnh vực, mà chính khả năng chuyển hóa thông tin và giải quyết các vấn đề mới là tính cách và phẩm chất của một con người có học vấn tốt.
Báo cáo của Đại học Yale năm 1882 - một tài liệu có ảnh hưởng lớn được Jeremiah Day (thời đó là Hiệu trưởng Đại học Yale) viết, đã phân biệt hai khái niệm "phương pháp" và "trí tuệ".
Làm chủ một lĩnh vực đặc thù của tri thức - đòi hỏi "trí tuệ" - là một khái niệm về giá trị thường trực trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng.
Sinh viên, những người khát khao trở thành nhà lãnh đạo trong kinh doanh, ngành y, luật, trong chính phủ hay là học giả cần "phương pháp" tư duy - khả năng thích ứng với nhứng điều kiện đang thay đổi chóng mặt, đối mặt với những thực tế mới và tìm ra cách giải quyết vấn đề.
Đào xới những thói quen này đòi hỏi sinh viên phải chủ động hơn chứ không chỉ đóng vai trò là người tiếp nhận thông tin một cách thụ động.
Họ phải học cách suy nghĩ độc lập, biết tạo ra tranh luận, bảo vệ hoặc điều chỉnh ý kiến trước những thông tin mới hoặc khi gặp chỉ trích gay gắt.
Hệ thống phụ đạo của trường Oxford - Cambridge có lẽ là thí dụ mẫu mực cho nền giáo dục này.
Ở Mỹ, thay thế hệ thống phụ đạo này là những buổi thảo luận tương tác trong đó sinh viên được khuyến khích nắm giữ và bảo vệ những quan điểm trong những nhóm nhỏ; được khuyến khích thách thức mọi quan điểm hơn là chấp nhận một cách mù quáng chỉ nhất nhất theo quan điểm của người hướng dẫn.
Các bài thi kiểm tra ở các đại học hàng đầu của Mỹ hiếm khi ra đề học thuộc lòng về các sự kiện hiện tượng. Họ yêu cầu học sinh giải quyết các vấn đề sinh viên chưa bao giờ gặp phải hoặc phân tích đánh giá hai mặt của một vấn đề còn tranh cãi và nói lên quan điểm riêng của mình.
Đã có sự thay đổi theo phong cách giáo dục Mỹ đáng chú ý tại châu Á.
Đại học Bắc Kinh (Peking) giới thiệu chương trình Yuanpei Honors năm 2001, một chương trình thí điểm “ném” một nhóm chọn lọc những sinh viên Trung Quốc có năng khiếu nhất vào một môi trường nghệ thuật tự do. Những sinh viên này sống cùng với nhau và thử nghiệm hàng loạt các môn học đa dạng không hạn chế trong hai năm trước khi lựa chọn một lĩnh vực nghiên cứu chính yếu chủ chốt.
Tại Đại học Phúc Đán (Fudan), tất cả các sinh viên hiện đều theo học một chương trình học đa nghành chung trong năm học thứ nhất trước khi đi đến lựa chọn nghiên cứu một ngành học hoặc một chuyên ngành riêng. Tại Đại học Nam Kinh (Nanjing) sinh viên cũng không bị buộc phải nhanh chóng lựa chọn một bộ môn ngay khi nộp đơn vào học; Thay vào đó, sinh viên có thể chọn trong số hơn 60 khóa học kiến thức chung trong năm đầu tiên trước khi quyết định một lĩnh vực chuyên biệt.
Đại học Yonsei ở Hàn Quốc, đã mở ra một trường văn hóa nghệ thuật tự do ngay trong khuôn viên nhà trường và Đại học Quốc gia Singapore đã thành lập một Chương trình học giả của trường Tổng hợp Quốc gia, theo đó sinh viên thực hiện các công trình bổ sung nằm ngoài các môn học hoặc ngành nghề chuyên biệt đã chọn.
Thay đổi phong cách giảng dạy khó khăn hơn là thay đổi chương trình học. Điều này sẽ làm tăng chi phí hơn khi áp dụng cho các lớp học có số đăng ký nhỏ hơn và điều đó đòi hỏi các thầy cô giáo phải chấp nhận những phương pháp mới.
Đây là thách thức chủ yếu ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, những quốc gia mà tại đó, phương pháp giáo dục truyền thống vẫn được duy trì. (Đối với Ấn Độ và Singapore, nơi mà di sản từ ảnh hưởng của người Anh đã tạo nên một tập thể các giáo sư còn thoải mái hơn trong việc khuyến khích sinh viên sáng tạo, thì điều này không đáng lo ngại mấy).
Người Trung Quốc khát khao vượt qua thách thức này và họ thừa nhận rằng, những giáo sư đã tu nghiệp ở nước ngoài và được tiếp cận những phương pháp giảng dạy khác, chính là sự lựa chọn phù hợp nhất để sửa đổi lại công tác giảng dạy ở Trung Quốc.
Các cơ hội gia tăng cho các sinh viên châu Á di du học ở phương Tây và những sinh viên phương Tây sang học tại các trường đại học châu Á cũng sẽ giúp cho quá trình chuyển giao này thêm thuận lợi.
Tuy nhiên, tại Trung Quốc, việc có được sự ủng hộ rộng rãi cho những thay đổi này là rất khó khăn do một phương thức quản lý khác, theo đó trách nhiệm điều hành một trường đại học được phân chia giữa Hiệu trưởng và Bí thư đảng ủy Nhà trường.
Thông thường, hai nhà lãnh đạo này làm việc với nhau rất ăn ý hiệu quả.
Song cũng có những lo lắng rằng, cơ cấu ra quyết định như trên đã hạn chế khả năng của Hiệu trưởng Trường đại học trong việc đạt được mục tiêu học thuật của mình, bởi vì việc phê chuẩn những nhân sự điều hành cao cấp - Phó Hiệu trưởng và các Trưởng khoa lại nằm trong tay Hội đồng nhà trường mà Hội đồng đó thường do Bí thư Đảng ủy nhà trường làm Chủ tịch hơn là do chính Hiệu trưởng làm Chủ tịch.
Chính phủ Trung Quốc đã lên tiếng thừa nhận cơ cấu điều hành các trường đại học trên đây có vấn đề; và thực tế này đang được Bộ Giáo dục xem xét lại. (Đây là những quan điểm chủ quan của tác giả bài báo- ND)
Tập trung vào những trường tốt nhất
Không phải trường đại học nào cũng đều có thể và cần phải trở thành trường đẳng cấp quốc tế.
Kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Anh, Đức là bài học tốt. Ở Mỹ và Anh, giáo dục đại học là một hệ thống khác biệt với nhiều kiểu nhà trường trong đó trường đại học tổng hợp có chức năng nghiên cứu hỗn hợp là một dạng.
Và trong nhóm các trường đại học hỗn hợp, sự trợ giúp của Chính phủ cho công tác nghiên cứu chủ yếu dựa trên những cống hiến xứng đáng, phẩm chất đó cho phép những trường này phát triển trong khi các trường khác thì bị tụt lại đằng sau.
Tại Mỹ, hoạt động quuyên tiền cho tổ chức phi lợi nhuận càng củng cố thêm sự khác biệt này. Thành công gây mầm cho thành công và trong phần lớn trường hợp, những trường mạnh nhất lại thu hút được nhiều quyên góp từ thiện nhất.
Tại Đức, trái lại, chính sách của Chính phủ Đức kể từ sau Thế chiến II đã giữ cho các trường đại học không mắc phải sự tương phản này.
Sau chiến tranh, Chính phủ Đức mở cửa cho việc đăng ký học đại học, cho phép tỷ lệ sinh viên trên giảng viên tăng cao ở mọi nơi, tách biệt các nghiên cứu viên ưu tú và đưa họ vào những viện nghiên cứu riêng rẽ, mặt khác lại phân bổ các nguồn lực trên nền tảng công bằng hơn là dựa trên tiêu chí phẩm chất.
Bằng cách này, Chính phủ Đức đã triệt tiêu sự khác biệt ở tầm quốc tế mà một thời các trường đại học của Đức đã đạt được.
Chỉ mới gần đây, chính phủ Đức mới quyết định tập trung các nguồn lực của mình vào ba trường đại học cụ thể nhằm làm cho ba trường này có tính cạnh tranh toàn cầu.
Nhật Bản và Hàn Quốc đã học hỏi nhiều từ bài học này.
Song cả hai nước để có những trường đại học quốc gia uy tín tầm cỡ được tài trợ tốt: Đại học Tokyo và Đại học Quốc gia Seoul chẳng hạn. Ở Nhật Bản, ít nhất có hai đại học công khác là Đại học Kyoto và Đại học Osaka cũng không quá thua kém Đại học Tokyo và đều nằm trên số các trường còn lại.
Trung Quốc cũng hiểu rõ chiến lược này.
Năm 1998, nước này đã xác định rõ có bẩy trường đại học được hưởng đầu tư không tương xứng: gồm Phúc Đán (Fudan), Nam Kinh (Nanjing), Bắc Kinh, (Peking), Thượng Hải (Shanghai), Giao thông (Jiao Tong), Thanh Hoa (Tsinghua), Giao thông Tây An (Xi'an Jiaotong) và Chiết Giang (Zhejiang).
Và thậm chí trong số bẩy trường này, chính phủ đã vạch ra sự khác biệt trong đầu tư của mỗi trường, tập trung các nguồn lực vào Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa trong một cố gắng đẩy những trường này lên tầm cỡ lọt vào trong số 20 nhà trường tốt nhất trên thế giới.
Các trường đại học tại Thượng Hải - Đại học Phúc Đán và Giao thông Thượng Hải - đang được đầu tư đáng kể do nguồn tài trợ bổ sung lớn của chính quyền thành phố Thượng Hải.
Ấn Độ lại là một trường hợp bất thường không theo quy tắc nào.
Vào những năm 50 và 60, nước này tập trung các nguồn nhân lực của mình vào việc hình thành năm Học viện công nghệ Ấn Độ. Những học viện này và 10 đại học khác được bổ sung trong vòng hai thập kỷ qua là những trường đại học nổi tiếng chuyên đào tạo các kỹ sư, song tất cả số này đều không có tính cạnh tranh toàn cầu trong lĩnh vực nghiên cứu.
Và Ấn Độ đã không có một cố gắng mang tính hệ thống nào để nâng cao địa vị của bất cứ trường nào trong số 14 trường đại học quốc gia hỗn hợp đang thiếu đầu tư trầm trọng.
Bộ trưởng bộ phát triển nguồn nhân lực Ấn Độ hiện nay đã kiên quyết xây dựng nên các trường đại học hỗn hợp tầm quốc tế của nước này.
Song những lực lượng theo chủ nghĩa bình quân vốn thống trị nền dân chủ của nước này - lực lượng cho phép xem xét lại công bằng xã hội đối với chế độ: chính quyền dựa trên sự thống trị của nhân tài bằng cách lựa chọn các sinh viên và giáo viên - đã buộc những ứng viên phải rất xuất sắc.
Mạnh mẽ hơn bất cứ nơi nào khác ở châu Á, việc nhập học của sinh viên và thuê đội ngũ giáo viên ở Ấn Độ được điều chỉnh bởi chỉ tiêu đang bảo đảm cho sự đại diện của các tầng lớp bị thiệt thòi về quyền lợi theo quan niệm truyền thống.
Ngoài ra, những cân nhắc mang tính chính trị dường như cũng chống lại sự tập trung nguồn lực cho một số nhỏ trường đại học có uy tín.
Hai năm trước, Chính phủ Ấn Độ thông báo sẽ tạo nên 30 trường đại học mới có đẳng cấp quốc tế, cứ mỗi bang một trường mới – và điều này rõ ràng là tham vọng không thực tế.
Con số đó dần dần giảm xuống còn 14 trường, cứ mỗi bang một trường, nhưng không có một trường đại học hỗn hợp nào. Song thậm chí mục tiêu này dường như cũng khó đạt được
Căn cứ vào những thành tựu đáng kinh ngạc của các học giả Ấn Độ tại cộng đồng Ấn kiều, nguồn nhân lực cho việc xây dựng các trường đại học tầm cỡ thế giới Ấn Độ là nằm trong tầm tay.
Song vẫn còn phải chờ xem, liệu chính phủ Ấn Độ có thể đủ cảm thông để chấp nhận những mức lương cao ngất cần phải có để thu hút những học giả hàng đầu thế giới về phục vụ đất nước không.
Do đó, chính phủ Ấn Độ đang theo đuổi một chiến lược hứa hẹn hơn, cho phép thành lập các chi nhánh đại học nước ngoài và giảm bớt gánh nặng luật lệ đè lên các trường đại học tư nhân.
Tuy nhiên theo một khía cạnh nào đó, Ấn Độ có lợi thế mạnh mẽ so với Trung Quốc, ít nhất là trong giai đoạn hiện tại.
Nó đáp ứng được đòi hỏi của đội ngũ giáo viên được tự do theo đuổi những mối quan tâm trí tuệ của họ theo bất cứ hướng nào họ muốn và cho phép sinh viên cũng như giáo viên quyền bày tỏ quan điểm, và điều đó kiểm nghiệm các học thuyết chưa từng được phát kiến cũng như các học thuyết lạ lùng chưa từng biết đến (trong triết học, chính trị, khoa học...)- những tự do là đặc trưng không thể thiếu cho bất cứ một trường đại học lớn nào....
Có thể đạt được địa vị đẳng cấp quốc tế trong các khoa học trong khi vẫn còn hạn chế trong khoa học chính trị, khoa học xã hội và nhân văn. Một số học giả Xô viết đặc biệt đã đạt được vị thế này trong toán học và vật lý trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Song không có một trường đại học nào từng đạt được vị thế đó. (Đây là quan điểm chủ quan của tác giả bài báo. Trên thực tế, chỉ cần lấy thí dụ Đại học Tổng hợp Quốc gia Moscow (MGU, thành lập năm 1755,) là đại học danh tiếng hàng đầu nước Nga, từng lọt vào danh sách 10 đại học đẳng cấp hàng đầu thế giới, là trường đại học uy tín của nước Nga cả trước, trong và sau kỷ nguyên Xô viết với những nhà khoa học tầm cỡ thế giới từng đoạt nhiều giải thưởng Nobel- ND)
Sự tiến bộ dựa trên sự tùy thuộc
Khi mà các rào cản đối với sự chuyển dịch con người, hàng hóa và thông tin bị dỡ bỏ và khi quá trình phát triển kinh tế phát triển, các nước châu Á đang gia tăng cơ hội tiếp cận với các nguồn lực thông tin, vật chất và nguồn lực con người cần thiết để tạo nên các trường đại học hàng đầu.
Nếu họ tập trung các nguồn lực ngày càng lớn mạnh của mình vào đúng những trường đại học tương xứng, khai thác được vốn trí tuệ toàn cầu và có được sự tự do bày tỏ chính kiến và tự do tìm hiểu thì họ sẽ thành công trong việc xây dựng các trường đại học có đẳng cấp quốc tế.
Điều này sẽ không thể xảy ra một sớm một chiều mà phải mất hàng thập kỷ. Song, nó có thể diễn ra nhanh hơn với mức độ chưa từng thấy.
Với phương Tây, sự trỗi dậy của các trường đại học châu Á nên được xem như là cơ hội chứ không phải mối đe dọa. Hãy xem Đại học Yale đã có lợi như thế nào từ việc này.
Một trong những nhà di truyền học nổi tiếng nhất hiện này là Tian Xu và các thành viên trong nhóm của ông, giờ đây đã chia sẻ thời gian làm việc của họ trong những phòng thí nghiệm ở New Haven và các phòng thí nghiệm ở Đại học Phúc Đán, Thượng Hải.
Một giáo sự đáng kính khác của Đại học Yale, nhà sinh vật học Xing Wang Deng đã có một thỏa thuận tương tự với Đại học Bắc Kinh.
Trong cả hai trường hợp, người Trung Quốc đã đáp ứng yêu cầu về một không gian nghiên cứu thông thoáng và đội ngũ nhân viên nghiên cứu có trình độ để hỗ trợ các cố gắng của các nhà khoa học của đại học Yale trong khi đó, sự hợp của phía Trung Quốc với các nhà khoa học ở Đại học Yale đã nâng cao kỹ năng cho các giáo sư trẻ Trung Quốc và sinh viên tốt nghiệp của Đại lục.
Cả hai, trong cuộc chơi này đều có lợi.
Một tranh cãi tương tự có thể diễn ra về dòng chảy sinh viên và sự trao đổi các ý tưởng.
Toàn cầu hóa nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh nghiệm giao thoa văn hóa và tần xuất trao đổi sinh viên đã tăng lên gấp bội.
Một khi các đại học châu Á được nâng cấp thì kinh nghiệm của sinh viên tham gia vào các trương trình trao đổi cũng phong phú thêm. Mọi người đều có lợi từ việc trao đổi ý tưởng cũng như mọi người đều có lợi từ tự do trao đổi hàng hóa và dịch vụ.
Cuối cùng, việc gia tăng chất lượng giáo dục toàn cầu sẽ được thể hiện qua việc xuất hiện những công dân năng động và am hiểu hơn ở mọi nơi.
Số phận của hành tinh chúng ta tuỳ thuộc vào khả năng phối hợp xuyên biên giới của con người nhằm giải quyết các vấn đề nóng bỏng nhất của xã hội như: sự tồn tại đói nghèo, lan tràn bệnh tật, phát triển vũ khí hạt nhân, cạn kiệt nguồn nước sạch, nguy cơ thế giới ấm lên.
Và chỉ có những công dân và các nhà lãnh đạo có học vấn mới có khả năng giải quyết tốt các vấn đề này.
Richard C.Levin
Song Hà (dịch) (từ Tạp chí Các vấn đề Đối ngoại,
Hoa Kỳ, số tháng 5-6/2010) - nhandan.com.vn