Tuần -10 - Ngày 20/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Vai trò động lực phát triển của thể chế, chính sách trong mô hình “Thành phố văn minh” của Pôn Rô-mơ
31/03/2010
  I - Mô hình Charter City: Phương thức cải cách thể chế rút ra từ lịch sử

Để hiểu khái niệm Charter City (nghĩa đen là Thành phố văn minh, nhưng nội hàm của nó chính là sống theo luật) của Pôn Rô-mơ, có thể thấy qua ví dụ do ông đưa ra: Một nhóm học sinh ở châu Phi phải ngồi dọc lề đường đến sân bay, lấy ánh đèn đường để học bài. Một trong số họ có điện thoại di động, sản phẩm công nghệ mới. Nhưng chính em lại không được hưởng công nghệ đã có từ 100 năm nay, là ánh điện tại nhà. Vấn đề là, điện bán theo giá trợ cấp, nên càng tăng cung, thì càng lỗ. Chính phủ đáp lại bằng cách nâng giá điện để kích thích sản xuất ra nhiều điện năng hơn, tuy nhiên, số đông người nghèo không có khả năng trả cho điện giá cao. Hơn nữa, nếu công ty điện là độc quyền, thì họ có thể tăng giá, mà không tăng hiệu quả nhờ áp dụng công nghệ, hạ giá thành. Như vậy, chính phủ khó có thể tăng giá để kích thích sản xuất.

Trong ví dụ trên, sự thay đổi thể chế gặp phải trở ngại. Vì khi nó đem lại lợi ích cho một bên (ngân sách chính phủ, doanh nghiệp), thì lại lấy đi lợi ích của bên khác (người được trợ cấp cho tiêu dùng). Điều đó tạo nên mâu thuẫn và cản trở sự thay đổi.

Vậy làm sao để tạo dựng nên một thể chế có thể phối hợp kỳ vọng và kích thích lợi ích các bên hướng tới lợi ích chung?

Theo P. Rô-mơ, có hai nguyên tắc chính cho việc tái cấu trúc thể chế mà đạt được sự đồng thuận xã hội. Đó là: (1) Gìn giữ quyền lợi của người dân; (2) Tạo dựng dần thể chế, thông qua việc nhân rộng các thông lệ, chuẩn mực tích cực (charter), thúc đẩy sự tăng trưởng dựa trên tiến bộ công nghệ, trình độ tổ chức và tính hiệu quả về quy mô.

Gìn giữ lợi ích của người dân sẽ làm dễ dàng cho tiến trình tái cấu trúc thể chế - hệ thống luật, thông lệ, ý thức hệ và niềm tin - theo hướng kích thích sáng tạo, thúc đẩy sự lan truyền công nghệ, kéo theo sự phát triển bền vững. Nếu vậy, thì cần phải có những mẫu hình tốt về thể chế (charter) nhằm thay đổi những quan niệm, cách làm lạc hậu gây cản trở cho tiến bộ công nghệ, thậm chí có thể làm cô lập một quốc gia khỏi sự phát triển của tri thức nhân loại.

Hai nguyên tắc này trên thực tế là như thế nào? Hãy nhìn lại sự tiến triển về thể chế, cho phép thúc đẩy sự tăng trưởng ngoạn mục và bền vững tại Trung Quốc đương đại.

Vào cuối thập niên 70, Trung Quốc lục địa vẫn đang bị chìm sâu trong thiết chế “xin - cho” hay “ngân sách mềm”, gây cản trở cho sự sáng tạo và phổ cập tri thức công nghệ(1). Trong khi đó, Hồng Công vẫn tiếp tục đà phát triển trong gần suốt thế kỷ XX, dưới phương thức quản trị thị trường văn minh, được du nhập từ Anh. Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên cũng ở vào hoàn cảnh tương tự, cả hai miền đã từng có cùng một thể chế, luật lệ, tập tục và niềm tin. Nhưng rồi hai bên đi theo hai chế độ, với hai phương thức quản trị nền kinh tế rất khác nhau.

Cần nói thêm rằng, “chiến tranh lạnh” phần nào đã thúc đẩy Anh và Mỹ hợp tác với Hồng Công và Hàn Quốc, tích cực xây dựng một quan hệ đối tác chiến lược lâu dài (partnerships between nations). Nhờ đó, các thể chế tổ chức và điều tiết nền kinh tế tư bản văn minh đang tạo ra sự giàu có cho số đông tầng lớp trung lưu, được khuyến khích du nhập và ăn sâu vào vùng đất sở tại ở Đài Loan, Hồng Công và Hàn Quốc. Quá trình này tạo ra hình mẫu của chủ nghĩa tư bản văn minh, với năng suất cao dựa trên tiến bộ công nghệ và trình độ tổ chức cao, và sự bảo đảm an sinh, công bằng xã hội, mà nó vượt trội hình mẫu “cào bằng thu nhập”, và “cha chung không ai khóc” trong việc sử dụng tài nguyên ở Trung Quốc hay CHDCND Triều Tiên.

Khi Hồng Công được trả về Trung Quốc, các nhà cầm quyền Trung Quốc lúc đó đã xem Hồng Công như là một mẫu hình thành công về sự chuyển đổi sang xã hội văn minh và quyết định nhân rộng hình mẫu này bằng cách tạo ra bốn đặc khu đầu tiên, kề sát Hồng Công, như những phòng thí nghiệm nhằm canh tân đại lục (civic laboratories). Trung Quốc coi đây như là cánh cửa, mà luật pháp, thể chế tổ chức và các thông lệ văn minh về hành vi đã phát triển lên tại Hồng Công, tạo nên sự thịnh vượng của nó, có thể được cấy dần vào đại lục. Và sự lai ghép giữa văn hóa đại lục với thể chế văn minh từ thế giới bên ngoài bắt đầu được ươm tạo, và tiến triển thận trọng.

Tầm nhìn có chiều sâu lịch sử đã giúp người Trung Quốc trong bước thử nghiệm đầu tiên về chuyển đổi thể chế đó(2). Họ muốn tạo ra các đặc khu với thể chế văn minh, hay charter cities, theo cách gọi của P. Rô-mơ. Nơi mà luật pháp bảo đảm an sinh cho người lao động, gìn giữ môi trường và tạo dựng xã hội trong sạch, có tổ chức (không bị tham nhũng hóa). Nhờ vậy, nó mở ra cơ hội cho hàng triệu người lao động đi tìm việc làm vì một cuộc sống tốt hơn; và cho hàng ngàn trí thức, doanh nhân táo bạo đi tìm cơ hội sáng tạo và kinh doanh.

Với ý tưởng đó, Trung Quốc đã đặt nền móng cho quan hệ đối tác có tính chiến lược dài hạn với Anh, Mỹ, Nhật Bản (partnerships between nations). Theo nghĩa, “chúng ta”- Trung Quốc, đã có charter city - Hồng Công. Và “chúng ta” có thể tái tạo lại nó với quy mô lớn hơn, nhiều hình mẫu như Hồng Công hơn. “Chúng ta” có thể làm lại và làm lại điều đó nhiều lần nữa, nếu cùng chung tay tạo ra sự tiến bộ.

Trung Quốc đã nhận thức được việc sử dụng nhân tố kích thích như là động lực cho sự thay đổi thể chế: Cụ thể là, sự bổ trợ giữa tính ổn định về thể chế, luật pháp của một xã hội văn minh nhất (charter), kết hợp với lao động rẻ của một xã hội đang phát triển, sẽ thu hút các công ty xuyên quốc gia tới các đặc khu. Và từ những điểm nút đó, vốn, tri thức quản lý, luật, chuẩn mực và thông lệ sẽ lan dần vào Trung Quốc lục địa. Đến một lúc nhất định, tiến trình đó sẽ làm thay đổi cách quản trị truyền thống ở đại lục (Boston Globe). Nhờ vậy, tiến trình chuyển đổi thể chế được diễn ra một cách có trật tự, theo sự nhân rộng dần về quy mô; cộng với việc gìn giữ quyền lợi của người dân; nhưng đưa thêm cho họ những lựa chọn mới. Họ không bị tước đi những gì mà thể chế “xin - cho” truyền thống đã đem lại. Nhưng họ có cơ hội để lựa chọn cho mình một cuộc sống mới tốt hơn.

II - Charter City: Sự kết hợp giữa nhà nước và thị trường

Trung Quốc nhận thức rõ, cần phải kết hợp giữa điều tiết của nhà nước với tính hiệu quả của thị trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc chỉ ra hai đòi hỏi cơ bản về vai trò của chính phủ: Thứ nhất, chính phủ phải đoạn tuyệt với tư duy kế hoạch và chuyển sang làm quy hoạch cho sự thiết lập thị trường văn minh. Thứ hai, chính phủ phải có chính sách đầu tư vào vốn con người cho sự phát triển dựa trên vốn con người. Hãy xét từng điểm một:

Chuyển từ vai trò làm cân đối “xin - cho” sang quy hoạch phát triển

Cuối thập niên 70, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có cơ hội và được khuyến khích tạo ra nhiều mẫu hình tư bản văn minh như Hồng Công để gìn giữ lợi ích của chính họ tại Hồng Công. Quan hệ chiến lược dài hạn, tin cậy nhau được thiết lập. Từ Hồng Công, Đài Loan, và nhiều nơi khác, các dòng vốn nước ngoài bắt đầu đổ vào các đặc khu, tạo nên những khu công nghiệp lắp ráp và sản xuất hàng loạt đầu tiên ở Trung Quốc. Việc hình thành các đặc khu được thực hiện dựa trên sự phổ cập những nguyên tắc cơ bản (charter) tại Hồng Công, mà nó xác định rõ các luật, thông lệ, văn hóa giao tiếp và quản lý, nhằm thu hút những nhà đầu tư đến xây dựng kết cấu hạ tầng, doanh nhân đến xây nhà máy, và dân cư từ đại lục đến sống và làm việc, gây dựng gia đình, tìm cơ hội giáo dục tốt hơn cho con cái.

Trong mô hình charter city này, không có chỗ cho sự “xin - cho” giữa tổ chức công quyền và các tác nhân khác, vì điều đó nhân rộng tệ quan liêu - duy ý chí, và sản sinh ra nạn tham nhũng. Ngược lại, nó đòi hỏi việc cấy tạo, lai ghép, và lan truyền các chuẩn mực và thông lệ tốt, để làm thay đổi thói quen “xin - cho” (bằng sử dụng những quy tắc để thay đổi quy tắc - rules for changing rules). Cần nói thêm rằng, thể chế, luật, thông lệ hay đức tin, là một dạng vốn xã hội. Và cũng như mọi dạng vốn khác, sự thay đổi của nó chỉ có thể diễn ra chậm, mọi thay đổi về thể chế theo hướng tích cực cần phải được tổ chức. Vì vậy, Chính phủ Trung Quốc phải chuyển sang làm vai trò định hướng cho sự thay đổi thể chế. Để tránh gặp quá nhiều sai sót và trì trệ, sự thay đổi như vậy chỉ có thể làm được khi tạo được sự trùng hợp về lợi ích chiến lược dài hạn giữa Trung Quốc, Anh, Mỹ, Nhật Bản như đã gợi ý. Tất cả đều nhằm chung một đích: Tạo ra một “Hồng Công” lớn hơn nhiều lần so với Hồng Công thuộc Anh. Và từ bốn đặc khu đầu tiên, nay Trung Quốc đã có mười bốn đặc khu, phát triển lên theo cùng một cách thức.

Đầu tư vào vốn con người để phát triển dựa trên vốn con người

Một câu hỏi được đặt ra là, trong mô hình canh tân của Trung Quốc, bắt đầu bởi sự kết hợp giữa lao động rẻ với thể chế văn minh để thu hút tư bản vào đại lục, có chỗ để tạo ra sự tăng trưởng lâu bền, dựa trên đầu tư vào vốn con người hay không? Thực tiễn là có, như Trung Quốc đang thể hiện. Nhưng theo cách nào?

Khi luật, thông lệ, cách tổ chức của chủ nghĩa tư bản văn minh được du nhập một cách có chọn lọc vào bốn đặc khu đầu tiên, hàng triệu người đã đến đó để tìm cơ hội cho cuộc sống mới. Công nghiệp gia công lắp ráp, sản xuất hàng loạt bắt đầu phát triển lên. Khi đó, một thị trường lớn các nhu cầu về vật tư - thiết bị cho lắp ráp hàng tiêu dùng và các dịch vụ trung gian, như tài chính, kế toán, bảo hiểm... được mở ra. Vì vậy, các đặc khu kinh tế cũng trở thành một nơi hết sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài đặt cơ sở cung ứng các sản phẩm trung gian đó. Quá trình này được gọi là “liên kết về phía các đầu vào” (backward linkages).

Nhưng khi càng xuất hiện nhiều những trung tâm tài chính, bảo hiểm, các cơ sở cung ứng thiết bị, thì chi phí trung bình cho việc sản xuất, lắp ráp càng giảm đi, hay có sự tăng hiệu quả theo quy mô (economy of scale). Chính vì lẽ đó, những đặc khu này thu hút nhiều hơn các công ty đa quốc gia đến thiết lập các nhà máy lắp ráp mới tại đó. Điều này được gọi là “liên kết về phía các đầu ra” (forward linkages).

Khi các đặc khu ngày càng phát triển lên dưới tác động đồng thời của liên kết đầu vào - đầu ra, thì nhu cầu về lao động ngày càng tăng. Vì vậy, tiền lương thực tế có xu hướng tăng lên tại các đặc khu dọc duyên hải, nhanh hơn nhiều so với phần còn lại trong đại lục. Điều này tạo nên dòng lao động khổng lồ từ đại lục đổ về khu vực duyên hải.

Tới thời điểm đó, yêu cầu về gìn giữ lợi ích của người dân trong cải cách thể chế đã thay đổi về chất. Rất nhiều lao động trẻ không còn muốn làm tại các khu công nghiệp hương trấn, nơi được coi là sự nối dài của cơ chế khoán từ nông nghiệp vào công nghiệp, mà nó đã giúp gìn giữ lợi ích của người dân, khi khởi đầu cải cách. Nhưng chúng không có lợi thế về quy mô để nhân rộng trong tương lai. Điều này dẫn đến việc Chính phủ Trung Quốc quyết định dẹp bỏ tất cả các công nghiệp hương trấn vào cuối năm 2000. Và Trung Quốc đứng trước đòi hỏi phải nâng cao kỹ năng của lực lượng lao động mới rất đông đảo này, bảo đảm cho họ tìm và đáp ứng được cơ hội mới về việc làm. Nếu không, nền kinh tế sẽ bị rơi vào bẫy của tăng trưởng không bền, dựa trên khai thác lao động rẻ, mà không dựa trên tiến bộ công nghệ và tổ chức - cái cốt lõi trong triết lý charter city của P. Rô-mơ. Vậy Chính phủ Trung Quốc có lựa chọn chính sách gì trước đòi hỏi về đầu tư vào vốn con người?

Vấn đề là các đặc khu dọc duyên hải Trung Quốc là những thành phố đã giàu lên nhanh chóng nhờ tăng hiệu quả theo quy mô, kể từ khi nhân rộng mẫu hình Hồng Công. Chính phủ có thể sử dụng một phần thuế thu được từ sự giàu có đó để tăng cường mạng lưới an ninh xã hội, như công an, tòa án. Nhưng cũng có thể chi nhiều hơn cho mạng lưới chăm sóc sức khỏe cộng đồng, như bệnh viện; và cải thiện hệ thống giáo dục theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn lao động mới, có tri thức và kỹ năng, làm việc được trong môi trường công nghệ mới. Chính phủ cũng có thể tài trợ cho những nghiên cứu tại đại học mà các phát minh có thể được chuyển giao sang các khu công nghiệp.

Với các chính sách đó, xã hội Trung Quốc chuyển mình từ “giấc ngủ” ngàn năm phong kiến sang một xã hội hướng dần vào sự phát triển dựa trên phát triển tri thức công nghệ và tổ chức, hay sự phát triển dựa trên vốn con người.

III - Hội nhập về thể chế để phát triển

Các nhà nghiên cứu có thể đúc kết kinh nghiệm lịch sử thành luận thuyết phát triển. Họ chỉ rõ đó là quá trình tạo lập dần các thể chế tiến bộ, cho phép kích thích sáng tạo và lan truyền tri thức công nghệ cho phát triển, không đơn giản chỉ là sự “xé bỏ” thể chế hiện hành đang cản trở sức sáng tạo. Họ cũng chỉ ra rằng, sự thay đổi thể chế không những cần tầm nhìn xa của nhà lãnh đạo, mà bước đi của cải cách cũng phải bảo đảm hai điều kiện cơ bản: Gìn giữ ích lợi của người dân và chuyển đổi theo quy mô phù hợp, rồi nhân rộng dần các thử nghiệm thành công. Chỉ với hai điều kiện đó, nhà lãnh đạo mới hội được sự đồng thuận của toàn xã hội, kích thích từng cá nhân đóng sức mình vào sự chuyển đổi thể chế theo hướng tích cực.

Sự sâu sắc trong tư duy của P. Rô-mơ cũng cho ông nhận thức rõ tầm quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược dài hạn giữa các quốc gia có cùng chung lợi ích, được tạo ra từ nỗ lực chuyển đổi thể chế của một quốc gia, để bắt kịp sự tiến bộ của các quốc gia khác. Điều mà ông gọi là “partnership between nations”. Kinh nghiệm của Trung Quốc, Xin-ga-po, và xa hơn là Nhật Bản, cho thấy: Chính các nhà cách tân biết nắm bắt cơ hội lịch sử đang mở ra, để đưa quốc gia đi lên, dựa trên sự đi lên của các đối tác lớn hơn và mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Họ khởi xướng các quan hệ đối tác chiến lược, dài hạn, từ những cơ hội dường như rất nhỏ bé và mờ nhạt. Và họ biết chuẩn bị cho sự hậu thuẫn từ bên trong, tức là hai nguyên tắc cơ bản vừa nêu của Romer; và sự hợp tác từ bên ngoài, tức là liên minh chiến lược, dài hạn, và tin cậy nhau, do sự đồng thuận về lợi ích với các nước lớn trong những thay đổi như vậy.

Nói rõ hơn, cần có sự hội nhập về thể chế cho phát triển. Và cơ hội cho sự hội nhập đó xuất hiện khi mà một quốc gia kém phát triển có cùng lợi ích chiến lược dài hạn với một hay một vài quốc gia lớn trong các vấn đề mang tính chiến lược trong khu vực hay toàn cầu. Nhưng cần nhấn mạnh lại là, khởi xướng cho sự hội nhập đó phải đến từ nhà cách tân của quốc gia kém phát triển hơn, để đưa đất nước đi lên. Vì một lý do đơn giản rằng, đó là sự nghiệp của chính dân tộc mình. Không ai ngoài chính mình có thể làm nên sự thay đổi đó.

Nói vậy, đã bao hàm rằng: Nhà nước phải đóng vai trò quan trọng trong việc sàng lọc, du nhập các chuẩn mực văn minh; kiểm soát, ngăn chặn xu thế tự do hóa mọi giá trị và chuẩn mực xã hội qua sự mua bán quyền, hay tệ tham nhũng. Nhờ đó, chuyển đổi thể chế mới đi theo hướng tích cực.

Đây không phải là kinh nghiệm của riêng Trung Quốc, mà của cả Đài Loan, Xin-ga-po và Hàn Quốc, trước thách thức phải đổi mới để phát triển, hay trì trệ, tụt hậu và bị thôn tính.

Cần nhấn mạnh lại rằng, có ba yếu tố cấu thành trong học thuyết của P. Rô-mơ, nhằm xây dựng thể chế cho tiến bộ công nghệ và phát triển. Đó là: Mẫu hình tốt về thể chế (charter); gìn giữ sự lựa chọn của người dân (choices for people); và tiến hành chuyển đổi theo quy mô thích hợp (charter city).

Khi nhân rộng các thể chế tích cực, tính hiệu quả về quy mô sẽ tạo ra nguồn lực tài chính. Tính ưu việt của các thể chế tốt sẽ được cấy tạo, lai ghép và lan truyền dần. Đến quy mô nhất định, nó sẽ làm thay đổi thể chế truyền thống theo hướng nhân bản và hiệu quả. Điều đó cho phép chính phủ đóng vai trò tích cực hơn trong việc tạo lập dần mạng lưới an sinh và giáo dục, bao gồm an ninh - trật tự công cộng, bệnh viện, trường học, kéo theo nhiều lĩnh vực công nghiệp - dịch vụ mới được mở ra. Và nền kinh tế sẽ phát triển dựa trên sự phát triển về vốn con người, tức là sự phát triển dựa trên tiến bộ về khoa học - công nghệ và tổ chức, hay tri thức của nền văn minh nhân loại.

Lý thuyết của P. Rô-mơ chỉ ra sự cần thiết phải có tầm nhìn xa, địa - chính trị thế giới, trong chiến lược phát triển khoa học - công nghệ và tổ chức, để tạo ra sự phát triển bền vững. Điều đó bao hàm rằng, không thể có một sự bùng nổ thực sự về tiến bộ công nghệ và phát triển, nếu không có một chiến lược với tầm nhìn dài hạn, mang tính tổng thể, với các bước đi cụ thể, thích hợp ở từng giai đoạn. Mục tiêu là đổi mới thể chế, nhằm hòa nhập quốc gia với nền văn minh nhân loại, trong một trật tự quốc tế cho sự phát triển bền vững của khu vực và thế giới./.
 
Lê Hồng Nhật (theo tapchicongsan.org.vn)
 
______________________________________________________________________________________________

(1) Ngân sách mềm được hiểu là, các cơ sở sản xuất không chịu sức ép về hiệu quả để tồn tại, có thể đòi nhà nước trợ cấp khi thua lỗ. Nói khác đi, họ không phải đối mặt với áp lực cạnh tranh về sáng tạo công nghệ để sàng lọc ra người thắng (winers), và loại bỏ kẻ kém hiệu quả (losers). Điều mà Schumpeter (1934), gọi là “sự tàn phá có tính sáng tạo” (creative destruction)

(2) Năm 1842, Hoàng đế Trung Hoa đã phải ký hiệp ước trao Hồng Công cho toàn quyền Anh cai trị, sau thất bại của cuộc chiến tranh thuốc phiện, cuộc chiến mà nguyên nhân từ nạn buôn thuốc phiện tự do vào Trung Quốc bởi các nhà buôn Anh và các nước tư bản khác. Tới giữa thế kỷ XIX, nạn đói đã nổ ra vì hàng chục triệu người nghiện, không có khả năng lao động; làm nhiều thế hệ sau đó bị sống trong nghèo đói; xã hội bị tội ác và nạn tham nhũng hoành hành

Cập nhật ( 26/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
"Dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là phần lớn nhờ công học tập của các cháu"
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 2" (2023-2024) chuyên ngành Kiến trúc Công nghệ K65
+ Kế hoạch "Thực tập cán bộ kĩ thuật đợt 3" (2023-2024) ngành Kiến trúc K65
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 2" (2023-2024) ngành Kiến trúc K65
+ Danh sách lớp nguyện vọng - Học kì 2 (2023-2024)
+ Nhiệm vụ thiết kế "Đồ án Kiến trúc 5 - K66" (2023-2024)
+ Phân công giảng dạy Bộ môn KTCN, Học kỳ 2, Năm học 2023 – 2024
+ Phân công giảng dạy HK3 (2023 - 2024)
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 3" (2023-2024) chuyên ngành Kiến trúc Công nghệ K64
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 3" (2023-2024) ngành Kiến trúc K64

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com