Tuần -13 - Ngày 05/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Điểm tin
Từ đại học quanh ta, nghĩ về KH&CN Việt Nam
04/05/2009







Qua vài chuyện về mấy đại học ở vài nước quanh ta (Thailand, Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc), góp phần làm rõ thêm họ khác ta thế nào và tại sao lại khác. Tiếp theo là vài suy nghĩ về con đường khoa học và công nghệ của đất nước trong thập kỷ tới.

 
Đại học Chulalongkorn (Thái Lan)

1. Về mấy đại học quanh ta
Đại học Chulalongkorn (Thái Lan)
Mấy năm qua báo chí thường so sánh kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí ISI của Đại học Chulalongkorn của Thái Lan với hai Đại học Quốc gia của ta [1],[2]. Đại thể, các khảo sát này chỉ ra số ấn phẩm trên các tạp chí được ISI xếp hạng trong SCI hay SCIE của Đại học Chulalongkorn nhiều lần hơn số ấn phẩm có ở đây của hai Đại học Quốc gia của ta trong cùng quãng thời gian. Vì vậy khi được đề nghị tham gia đoàn của cơ quan đến làm việc với Đại học Chulalongkorn, tôi đồng ý ngay. Ba ngày không đủ để biết sâu về một đại học, nhưng chút kinh nghiệm với những đại học khác cũng cho tôi thấy một vài điều tại Đại học Chulalongkorn.
Đứng đầu trong các đại học của Thái Lan về hầu hết các ngành, Đại học Chulalongkorn có một khuôn viên rất lớn nằm ngay trong trung tâm Bangkok (có lẽ lớn hơn cả khuôn viên của Đại học Bách khoa Hà Nội mấy chục năm trước khi trường này chưa bị chia nhỏ ra nhiều phần). Dễ nhận thấy ngay ở vẻ bên ngoài của Đại học Chulalongkorn sự bề thế, sự quy hoạch, sự cân đối giữa các tòa nhà và rất nhiều cây xanh,… vốn là đặc trưng bên ngoài của những đại học có thứ hạng.
Hai nhận xét nhỏ nữa cho thấy họ khác ta. Thứ nhất là các phòng học ở đây đều có sẵn hệ thống nghe-nhìn (máy chiếu, tivi, video, microphone, …). Tôi đi quanh quan sát ngẫu nhiên dăm lớp học, thì đều thấy họ hoàn toàn không có kiểu dạy đọc chép. Các thầy cô đều dùng máy chiếu, giảng giải nhiều và sinh viên chăm chú nghe. Ở hành lang và các khu vực học công cộng, sinh viên ngồi trao đổi theo nhóm, tìm tin với máy laptop và dùng sách giáo khoa. Sách giáo khoa các môn học- theo tôi có vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục đại học và lâu nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức ở đại học của ta- đều có thể tìm mua dễ dàng ở hiệu sách của đại học này. Thứ nhì là giáo viên có phòng làm việc và có nhiều căng-tin để ăn trưa trong trường- thiếu những thứ này thật bất tiện và ít làm được việc khi thầy cô cần làm việc ở trường cả ngày.
Tôi vẫn thường nói với mấy đồng nghiệp rằng Đại học Chulalongkorn hơn mình ít nhất vì ba điều sau. Một là giáo viên ở đây phần lớn là người Thái gốc Hoa, nên nói chung khả năng khoa học của họ không thua kém gì giáo viên ở bất cứ đại học nào tại châu Á. Hai là họ thường được đào tạo khá lâu từ nhiều nước phát triển (hai năm trước tôi làm việc vài ngày với một nhóm 5-6 giảng viên trẻ của Đại học Thammasat ở ngoại ô Bangkok, trong đó một người được học bổng của Chính phủ Thái đi học hơn mười năm ở Mỹ từ cuối phổ thông cho đến hết bậc tiến sĩ, mấy người kia đều có 6-8 năm ở Mỹ, Pháp hay Nhật để học thạc sĩ, tiến sĩ hoặc hậu tiến sĩ). Ba là điều kiện làm việc và lương của họ tốt hơn ta, đủ để họ dành toàn bộ tâm sức vào dạy học và nghiên cứu. Với ba điều kiện này, nếu họ không thua ta về số lượng ấn phẩm khoa học chất lượng cao mới là điều đáng ngạc nhiên!

Đại học Công nghệ Nanyang (Singapore)

Đại học Quốc gia Singapore (NUS,
http://www.nus.edu.sg/) và Đại học Công nghệ Nanyang (NTU, http://www.ntu.edu.sg/Pages /default.aspx) là hai đại học hàng đầu ở Singapore. Theo hệ thống của Anh nên các đại học ở Singapore chỉ có một số rất ít giáo sư (thường tỷ lệ giáo sư trên phó giáo sư là quãng 1/10), và do vậy rất ít phó giáo sư có thể trở thành giáo sư. Ở NYU, chỉ giáo sư được làm việc đến tuổi 65, còn các phó giáo sư chỉ được làm việc ở đây đến tuổi 58. Nhận ra những hạn chế của chính sách này, cách đây hai năm NTU quyết định thay đổi. Những phó giáo sư được đánh giá xuất sắc về nghiên cứu và đào tạo sẽ được quyền làm việc đến 65 tuổi dù không là giáo sư. Các khoa của NTU lập ra các hội đồng đánh giá, và nhờ một số người nước ngoài thẩm định độc lập các ứng viên của mình. Khi đó tôi có được hỏi nhờ nhận xét cho hai người làm cùng ngành (tạm gọi là X và Y). Ở đây xin kể tóm tắt để thấy các phó giáo sư của họ có kết quả làm việc thế nào.
Tiến sĩ X có bằng này năm 1987 tại Anh, thành phó giáo sư của NTU năm 1990. Trong vòng 20 năm qua, X là tác giả và đồng tác giả của 99 bài báo trên các tạp chí quốc tế trong đó chừng 15 bài in trong các tạp chí của IEEE, hơn 80 bài ở tuyển tập các hội nghị quốc tế, viết 4 cuốn giáo trình in tại nhà xuất bản Printice Hall, và có h-index bằng 9. Tiến sĩ Y trẻ hơn và có bằng này ở Mỹ năm 1996, thành phó giáo sư ở NTU năm 2003. Đến 2007, Y là tác giả của 32 bài báo tạp chí quốc tế (gần 20 bài trong SIE/SCIE), 115 bài hội nghị quốc tế, có h-index bằng 12. Đáng kể là 10 bài báo tiêu biểu của Y những năm qua đều trong các tạp chí rất uy tín trong ngành. Điều quan trọng thấy ở đây là sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ, họ tiếp tục làm nghiên cứu và có kết quả tốt. Đáng nói là X và Y không phải các trường hợp ngoại lệ ở NTU và NUS. Nếu vào thăm website của hai đại học này ta có thể thấy phần đông giáo viên của họ đều có kết quả nghiên cứu khoa học chừng chừng như vậy.

KAIST (Hàn Quốc)
Làm việc ở Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST,
http://www.vast.ac.vn) và Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Nhật Bản (JAIST, Japan Advanced Institute of Science and Technology, http://www.jaist.ac.jp), tôi có ít nhiều chia sẻ với các đồng nghiệp tại Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc (KAIST, Korea Advanced Institute of Science and Technology, http://www.kaist.edu /edu.html). KAIST đứng trong nhóm vài đại học hàng đầu tại Hàn Quốc, và nhận được sự tài trợ rất lớn của Chính phủ Hàn để vươn lên đạt những thành tựu quốc tế về khoa học và công nghệ hiện đại. Phần lớn giáo viên ở đây đều trở về từ Mỹ, châu Âu hay Nhật Bản. Đến làm việc một số lần ở KAIST và qua nhiều tiếp xúc với đồng nghiệp ở đây, tôi thấy phần lớn họ có trình độ cao, có nhiều nghiên cứu sinh, một số có nghiên cứu xuất sắc.
Một chính sách ở KAIST là một người khi được tuyển vào vị trí giáo sư (full professor) phải qua thời gian làm việc 7 năm mới được xét kết quả hoạt động để có thể trở thành chính thức (tenure). Cách đây hai năm, KAIST thay đổi chính sách này, cho phép các giáo sư có thể đề nghị đánh giá kết quả của mình trước 7 năm, kể từ khi được tuyển vào vị trí giáo sư. Tình cờ tôi được mời làm người nhận xét nước ngoài cho một người yêu cầu được xét để trở thành giáo sư chính thức sau 6 năm được tuyển vào vị trí này. Giáo sư Z này tốt nghiệp tiến sĩ ở Mỹ năm 1991, trở về KAIST năm 1995 và được chuyển từ phó giáo sư thành giáo sư năm 2001. Tóm tắt, trong vòng 20 năm, anh Z này đã là tác giả/đồng tác giả của 37 bài báo trên SCI, đã trình bày 7 báo cáo mời ở các hội nghị quốc tế, có 7 bằng phát minh đăng ký ở Hàn Quốc, 6 giải thưởng bài báo hay nhất (best paper awards), 30 lần được nhận tài trợ nghiên cứu từ Chính phủ và công nghiệp. Nhìn vào Website của hai người khác tôi quen ở KAIST thì thấy kết quả của họ còn ấn tượng hơn. Một trong hai người này là giáo sư xuất sắc (distinguished professor) của KAIST, trong số rất ít giáo sư được nhận danh hiệu này ở đây.

Đại học Nam Kinh (Trung Quốc)
Tuy chưa có dịp đến thăm một đại học nào trong những lần đến Trung Quốc, tôi thường làm việc với một số đồng nghiệp, nghiên cứu sinh nước này nên cũng ít nhiều biết về các đại học của họ. Phần này nói về một chính sách đặc biệt của Trung Quốc với những nhân tài của mình, cụ thể qua câu chuyện một đồng nghiệp tại Đại học Nam Kinh. Ở một nước rộng và đông dân, có truyền thống văn hóa lâu đời như vậy, hẳn nhân tài không phải “như lá mùa thu”. Điều quan trọng đáng quan sát là cách đất nước này đang sử dụng những người tài của mình.
Tôi quen Zhi-Hua Zhou, người làm cùng chuyên môn, giáo sư của Đại học Nam Kinh (
http://cs.nju. edu.cn/zhouzh/). Đại học Nam Kinh nằm trong nhóm 11 trường được xếp hàng đầu trong số 2236 trường đại học và cao đẳng của Trung Quốc (gồm Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Giao thông Thượng Hải, …). Zhi-Hua tốt nghiệp đại học (1996), thạc sĩ (1998), tiến sĩ (2000) hoàn toàn tại Đại học Nam Kinh. Với thành tích nghiên cứu xuất sắc từ khi là nghiên cứu sinh, với vốn tiếng Anh rất tốt, Zhi-Hua đang trở thành một trong những chuyên gia được thừa nhận trên thế giới, một người làm nghiên cứu có rất nhiều kết quả công bố quốc tế ở những nơi uy tín nhất trong ngành trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence), học máy (machine learning) và khai phá dữ liệu (data mining). Tại Đại học Nam Kinh, sau khi hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ, Zhi-Hua được nhận làm giáo sư trợ giảng vào đầu năm 2001, trở thành phó giáo sư một năm sau (2.2002), và trở thành giáo sư sau một năm rưỡi nữa (10.2003) khi mới 29 tuổi. Đáng kể hơn, vào tháng 3.2007, ở tuổi 34, Zhi-Hua được xét phong danh hiệu giáo sư Trường Giang (Cheung Kong Professor), còn gọi là học giả Trường Giang.
Chương trình học giả Trường Giang (Cheung Kong Scholars Program) là một chương trình đặc biệt từ 1998 của Bộ Giáo dục Trung Quốc, kết hợp với tập đoàn Cheung Kong tại Hongkong, nhằm hỗ trợ những nhà khoa học xuất sắc tuổi còn trẻ hoặc trung niên (không quá 45 tuổi cho người làm khoa học tự nhiên và không quá 50 cho người làm khoa học xã hội) tại các đại học ở Trung Quốc, nhằm kích thích sự tranh đua vươn lên trong khoa học, tạo điều kiện cho những người này và đại học của họ vươn lên “đẳng cấp quốc tế”. Mỗi năm Trung Quốc tuyển chọn khoảng 100 học giả Trường Giang cho tất cả các ngành khoa học, và mỗi ngành thường chỉ có khoảng 1-2 người được nhận danh hiệu này. Lương và tài trợ cho một học giả Trường Giang gấp khoảng 10 lần lương một giáo sư bình thường ở Trung Quốc. Từ 1998 đến 2008, có 905 giáo sư và 403 giảng viên từ 115 viện nghiên cứu và đại học được nhận danh hiệu học giả Trường Giang, với tuổi trung bình tương ứng 42 và 46 [3]. Trong số 905 giáo sư Trường Giang, có 259 người trước kia ở nước ngoài hoặc mới trở về từ nước ngoài trong vòng ba năm gần đây (gần 29%), và tất cả 403 giảng viên được nhận danh hiệu này đều từ Hongkong hoặc nước ngoài trở về Trung Hoa lục địa. Có hai loại giáo sư Trường Giang. Nhóm một là những người làm việc tối thiểu 9 tháng mỗi năm tại Trung Quốc, và nhóm hai là những người làm việc tối thiểu 2 tháng mỗi năm tại Trung Quốc. Việc có nhóm hai này nhằm thu hút những học giả gốc Hoa xuất sắc ở nước ngoài dành một phần thời gian về tham gia xây dựng nền khoa học trong nước, và cả người nước ngoài không phải gốc Hoa (có một số người nước ngoài đoạt giải Nobel là học giả Trường Giang).
Hoàn toàn được đào tạo trong nước nhưng với tài năng và những chính sách đặc biệt của Nhà nước, Zhi-Hua đã vượt lên, và theo đánh giá của tôi, mới 35 tuổi nhưng đã nằm trong nhóm một vài người Hoa xuất sắc nhất trên thế giới về lĩnh vực chuyên môn, với một uy tín được thừa nhận rộng rãi ở trong và ngoài nước.
2. Nghĩ về khoa học và công nghệ Việt Nam thập kỷ tới
Liệu có thể không thay đổi?
Những câu chuyện kể trên về mấy đại học hàng đầu ở vài nước quanh ta nhằm nêu lại một sự thật: Cán bộ khoa học ở họ làm nghiên cứu có kết quả hơn ta dù khi xuất phát có thể ta cũng không thua kém họ. Vì mấy người kể trong phần trên đều trong ngành công nghệ thông tin (CNTT) - ngành nước ta được chỉ đạo để trở thành “nước mạnh về công nghệ thông tin”[4] - nên một câu hỏi tự nhiên có thể đặt ra là trong ngành CNTT này, ở ta có một ai có được kết quả nghiên cứu như mấy người vừa kể trên không, trong khi ở họ có rất nhiều người như vậy? Thêm nữa, nếu cách làm vẫn như mấy thập kỷ vừa qua, liệu ta có thành “nước mạnh” được không?
Nguyên nhân nào tạo ra sự khác biệt về hiệu quả giữa người làm nghiên cứu của ta và của họ? Câu trả lời không khó và chắc nhiều người đồng ý, đó là môi trường làm việc, cụ thể là một môi trường gồm ba yếu tố liên quan nhau: một là điều kiện nghiên cứu, hai là lương và tài trợ đủ để tập trung cho nghiên cứu, và ba là những chính sách tạo ra động lực của người nghiên cứu.
Chúng ta sắp kết thúc một thập kỷ và dường như “không đạt được mục tiêu đưa khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực”[5]. Điều cần nói ngay là nếu lúc này ta không có những thay đổi mạnh mẽ, vào năm 2020 khi kiểm điểm lại chúng ta sẽ lặp lại việc không đạt mục tiêu như hôm nay, như những thập kỷ đã qua (viết đến đây tôi chợt băn khoăn không rõ “mục tiêu” của ta về KH&CN có đủ rõ và cụ thể để có thể đánh giá việc đạt được đến mức nào chưa?). Điều này cũng được khẳng định trong các văn bản của Bộ KH&CN, “Nếu không có những quyết sách đột phá về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý KH&CN, những biện pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực KH&CN quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và KH&CN ngày càng xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồn công nghệ nhập là khó tránh khỏi”[6].

Tạo môi trường tốt cho nhóm nghiên cứu mạnh
Những năm qua chúng ta đã ít nhiều đầu tư kinh phí cải thiện được điều kiện làm nghiên cứu KH&CN tại một số cơ sở, như lập 17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, mua một số máy móc đắt tiền đặt ở một vài nơi (máy tính song song hiệu năng cao, máy cộng hưởng từ hạt nhân,…) mua nhiều tạp chí điện tử online ở Viện Thông tin KH&CN Quốc gia, ... nhưng nhìn chung điều kiện nghiên cứu khoa học của ta ở hầu hết mọi nơi còn thiếu, nhất là cho những ngành, những loại nghiên cứu đòi hỏi kinh phí cao. Tuy nhiên, ngay cả những nơi được tập trung đầu tư như vậy ta cũng chưa có những kết quả nghiên cứu như mong muốn, vẫn có tình trạng “đắp chiếu” thiết bị. Đơn giản vì ta chưa có môi trường đồng bộ, ta có đầu tư về máy móc nhưng chưa có đầu tư cho “con người” một cách thích hợp.
Đặc điểm cơ bản của người làm công ăn lương ở ta là hầu hết đều phải tìm việc làm thêm để có thu nhập ngoài lương. Chúng ta đã và đang rất lãng phí vì những người xuất sắc nhất về KH&CN phải kiếm sống bằng những việc không liên quan đến sở trường và nghề nghiệp chính của họ. Như vậy, một cách là làm sao phụ cấp cho những người này ở một mức đủ cao để họ tập trung được vào nghiên cứu KH&CN, quy tụ và lập được nhóm nghiên cứu của mình và chịu trách nhiệm về những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể với Nhà nước, dưới dạng các chương trình và đề tài.
Khi kinh phí KH&CN của ta còn ít, chưa đủ tài trợ cho mọi người làm nghiên cứu, thì trước hết đành tài trợ kinh phí cho những người giỏi nhất có chuyên môn phù hợp với những việc đất nước đang rất cần. Để làm tốt việc được giao, những người này cần xây dựng được nhóm nghiên cứu của mình. Tài trợ bao nhiêu người và bao nhiêu tiền là tùy cơ quan quản lý Nhà nước. Nếu như ở tất cả các ngành, giả sử ta tìm được 100 người như vậy trên cả nước, đầu tư cho họ xây dựng được 100 nhóm nghiên cứu mạnh (giả sử họ được làm việc với điều kiện đủ tốt, các thành viên và người đứng đầu có phụ cấp vài lần hơn mức lương hiện nay) … thì khả năng những nhóm này hoàn thành những nhiệm vụ được giao và cam kết là rất lớn. Một đất nước với hơn tám mươi triệu dân thì dù chưa giàu cũng có thể đầu tư tốt cho những nhóm nghiên cứu mạnh như vậy với yêu cầu họ có đóng góp xứng đáng. Quỹ nghiên cứu cơ bản NAFOSTED là một dạng gần với đề nghị này.
Để những nhóm nghiên cứu mạnh làm việc tốt, ngoài điều kiện làm việc tốt và có kinh phí trợ cấp cho người làm nghiên cứu, còn cần những chính sách thích hợp để hỗ trợ và tạo động lực cho người làm nghiên cứu KH&CN. Cụ thể là các chính sách về khoa học và giáo dục của Nhà nước cần đề cao giá trị của các nghiên cứu khoa học chất lượng cao. Phần trên đã nêu thí dụ các nước quanh ta tạo một số chính sách để thúc đẩy động lực con người như thế nào. Một thí dụ tiêu biểu ở ta là chính sách về tuyển chọn các vị trí giáo sư-phó giáo sư ở các đại học và các viện nghiên cứu. Đây là chuyện dài đã được bàn lâu nay và không nằm trong khuôn khổ bài viết này, nhưng chắc chắn các chính sách này của ta cần phải thay đổi nhiều để gần với chuẩn mực và cách làm phổ biến trên thế giới. Nếu không có sự phân biệt rạch ròi về giá trị của các sản phẩm khoa học, nếu không đề cao những kết quả nghiên cứu KH&CN chất lượng cao trong việc tuyển chọn các vị trí giáo sư-phó giáo sư, các chính sách này sẽ hạn chế đóng góp của những lực lượng tinh hoa trong khoa học, và khuyến khích các nghiên cứu dễ dàng. Những dự kiến về tiêu chuẩn mới công bố gần đây phần nào đã thể hiện sự quan tâm đến giá trị, nhưng cũng còn xa với sự khác biệt thật của các loại hình sản phẩm.

Tổ chức đề tài từ trên xuống hay từ dưới lên?
Phân định được các kiểu loại hoạt động KH&CN sẽ cho phép ta hình dung tốt hơn bức tranh KH&CN của đất nước. Theo tôi, các hoạt động này có thể được phân định theo loại hình nghiên cứu (đặc trưng bởi bản chất của việc nghiên cứu, thường được xem gồm có nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu phát triển[7]), và phân định theo cấp độ nghiên cứu (đặc trưng bởi mục tiêu và quy mô nghiên cứu), thường gồm có: Các chương trình hay đề án trọng điểm quốc gia; Các chương trình KH&CN trong các lĩnh vực ưu tiên; Và các đề tài nghiên cứu KH&CN.
Chương trình hay đề án trọng điểm quốc gia ở từng giai đoạn nhằm nghiên cứu và thực hiện những trọng trách trong sự phát triển đất nước (national mission-oriented projects). Chẳng hạn sau kháng chiến chống Pháp, Nhà nước ta đã có chương trình 10 năm tiêu diệt bệnh sốt rét (1955-1964) trên toàn miền Bắc, giao cho Giáo sư Đặng Văn Ngữ phụ trách. Hay như trong các năm 1993-1998 chúng ta đã có chương trình quốc gia về CNTT do các Giáo sư Đặng Hữu, Phan Đình Diệu chủ trì. Chắc chắn những chương trình/đề tài trọng điểm quốc gia trong mỗi giai đoạn luôn rất quan trọng, cần được xác định, tìm và giao công việc cũng như điều kiện cho những người và tập thể có khả năng nhất thực hiện. Ở nhiều nước khác, đây là một trọng trách của Hội đồng KH&CN Quốc gia.
Trong mỗi lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực được ưu tiên phát triển (strategic sectors), các cơ quan quản lý KH&CN cần tìm cách nêu ra được những hướng nghiên cứu (research areas), liên quan đến nhiệm vụ xây dựng đất nước và phát triển KH&CN để tổ chức lực lượng thực hiện. Đây chính là dạng các chương trình KH&CN chúng ta vẫn thường làm. Khác chăng là quan niệm và cách làm cần phải được thay đổi. Trước hết cần chọn và giao trọng trách cho những nhà khoa học đứng đầu các hướng này (research supervisor). Người đứng đầu cùng các trợ lý và cơ quan quản lý cần xây dựng được các mục tiêu cụ thể, và kêu gọi các nhóm nghiên cứu tìm ra các nội dung nghiên cứu dưới dạng các đề tài để đạt được các mục tiêu này. Các đề tài nhiều triển vọng nhất sẽ được lựa chọn cùng với người đứng đầu (chủ nhiệm đề tài). Chủ nhiệm đề tài và nhóm nghiên cứu phải ký hợp đồng với Nhà nước và chịu trách nhiệm về công việc của mình. Một chương trình KH&CN cần một số đề tài liên quan với nhau trong một tổng thể, ứng với một lực lượng khoa học và những kết quả nghiên cứu được cam kết thực hiện. Cách xác định mục tiêu và giao trách nhiệm cụ thể cho người đứng đầu các hướng nghiên cứu có rất nhiều khả năng tốt hơn cách ‘ra đầu bài’ ở ta lâu nay, thường do cơ quan quản lý khoa học làm.
Nếu hai cấp độ nghiên cứu kể trên gắn với các mục tiêu do Nhà nước đặt ra và tìm các cá nhân và tập thể để giao trách nhiệm thực hiện, thì cấp độ thứ ba là các đề tài nghiên cứu KH&CN do các nhà khoa học tự do xây dựng ra theo chuyên môn của mình và xin tài trợ của Nhà nước để thực hiện. Đây thường là những đề tài nhỏ của nhóm dăm nhà khoa học. Những đề tài này thường cần có ở rất nhiều lĩnh vực để đảm bảo tính đa dạng của lực lượng và nội dung nghiên cứu KH&CN của đất nước. Người làm các loại đề tài này thường ở các đại học hay các viện nghiên cứu. Quỹ phát triển KH&CN NAFOSTED có thể được hiểu là một quỹ tài trợ cơ bản cho các đề tài KH&CN ở cấp độ này.
Sản phẩm chính của các loại đề tài KH&CN này là các bài báo được công bố, nhất là các công bố quốc tế ISI để nâng cao tiềm lực và uy tín khoa học nước nhà, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, làm cơ sở và chuẩn bị lực lượng cho các đề tài trọng điểm Nhà nước và các chương trình KH&CN trong các giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, cần chú ý rằng sản phẩm chính của các đề tài ở hai cấp độ nghiên cứu kia là các mục tiêu đạt được, và ấn phẩm khoa học là những yêu cầu phụ có thể theo sau[2].
Hình bên chỉ ra một cách định tính quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu và cấp độ của các đề tài nghiên cứu. Đây chỉ là các tỷ lệ ước định và tương đối ở ba mức: lớn, trung bình và nhỏ. Có thể xem ngoài việc tổ chức và quản lý việc xây dựng các chương trình và đề tài ở các cấp độ khác nhau, vai trò quản lý của Nhà nước còn ở việc xác định một cách định lượng các tỷ lệ trong hình phù hợp với tiềm lực khoa học của ta.
Việc tạo môi trường nghiên cứu tốt cho một số cán bộ chọn lọc khi ta chưa lo được cho tất cả cần gắn với các loại đề tài ở các cấp độ khác nhau. Hiện nay, cách xác định đề tài của ta dường như vẫn chủ yếu từ dưới lên, và nếu vậy cần thay đổi để có sự kết hợp của cả hai cách tiếp cận, dưới lên và trên xuống.

3. Thay cho lời kết
Nghĩ về những điều lớn hơn chuyện ngày thường - như nghĩ về khoa học và công nghệ của đất nước trong một thập kỷ tới - đòi hỏi mỗi người phải đặt ra những câu hỏi với trách nhiệm cao hơn, những câu hỏi về tìm đường. Bốn mươi năm trước, trong số những thanh niên ưu tú, nhiều người đã rời trường đại học để tham gia công cuộc cứu nước và nhiều người lên đường du học để sau tham gia công cuộc dựng nước. Người ra đi hiểu về vận mệnh đất nước, về “Đường chúng ta đi” và do vậy thanh thản với những “Ngày mai chúng tôi sẽ ra trận”. Mãi về sau tôi mới biết những câu chúng tôi đã thuộc lòng ấy trong tùy bút “Đường chúng ta đi” là của nhà văn Nguyên Ngọc, dưới bút danh Nguyễn Trung Thành, người đã có những tháng năm tuổi trẻ trong chiến tranh, và giờ đây gần 80 tuổi vẫn bền bỉ tìm cách góp sức trên con đường giáo dục, văn hóa, khoa học và công nghệ của đất nước.
Chúng ta đang đứng trước một thập kỷ mà nếu không tìm ra “Đường chúng ta đi” cho khoa học và công nghệ, có thể đất nước sẽ không bao giờ thoát khỏi cảnh một nước nghèo và mãi đi sau thiên hạ.
-------------
Tài liệu tham khảo
[1] Phạm Duy Hiển, “Bóng đá và Đại học - Thái Lan và Việt Nam”, Vietnamnet, 1.2007,
http://vietnamnet.vn/nhandinh/2007/01/649976/
[2] Nguyễn Văn Tuấn, “Phân tích chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam”, Tia Sáng, 4.2009 http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=76&CategoryID=3&News=2799
[3] “Professor Chan Hsiao-chang Bestowed Cheung Kong Achievement Award”, 12.2008,
http://www.cuhk.edu.hk/cpr/pressrelease/081205e.htm
[4] “Ra mắt Hội đồng chính sách Khoa học và Công nghệ quốc gia nhiệm kỳ 2009-2013”, 8.4.2009 http://www.nhandan.org.vn/tinbai/?top=37&sub=130&article=144861
[5] Nguyễn Ngọc Châu, “Đổi mới cách xây dựng Chiến lược Khoa học và Công nghệ”, Tia Sáng http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=76&CategoryID=3&News=2763.
[6] Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010
http://www.most.gov.vn/hdquanlyKHCN/mlfolder.2006-06-30.5486494076/mldocument.2006-07-05.7960110741#thuctrang
[7] Hồ Tú Bảo, “Tổ chức và quản lý đề tài nghiên cứu khoa học ở Nhật”, Tia Sáng, 8.2008 http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=62&CategoryID=36&News=879

 
Hồ Tú Bảo (theo Tia Sang)
Cập nhật ( 21/11/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
"Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa"
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com