Tuần -12 - Ngày 06/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Điểm tin
Hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập
21/04/2009

Văn hóa Việt Nam trong quá trình xây dựng để trở thành một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần phải bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, làm sống động những gì đặc sắc, ưu tú nhất của văn hóa dân tộc, tạo ra xung lực mạnh mẽ để phát triển chính dân tộc mình, đóng góp xứng đáng vào đời sống văn hóa nhân loại, tham gia quá trình hội nhập quốc tế với sự tự biểu hiện, tự khẳng định giá trị, bản sắc Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại.

1 - Văn hóa là hoạt động sáng tạo và là hệ thống các giá trị do chính con người tạo ra trong mỗi thời đại lịch sử

Việt Nam, xét trên phương diện đất nước học, là cả một địa - văn hóa hết sức độc đáo bên cạnh một địa - kinh tế và địa - chính trị rất đặc thù.

Lịch sử hằng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã tạo cho Việt Nam có một truyền thống lâu đời, bền vững đó là truyền thống lịch sử, truyền thống dân tộc. Cái hồn của truyền thống ấy là văn hóa và bản lĩnh sáng tạo, sức sống của con người Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có một truyền thống từ lâu đời về văn hóa và văn hiến, kết tinh thành hệ giá trị chân - thiện - mỹ như một hệ giá trị phổ quát của văn hóa, của mọi dân tộc trong quốc gia - dân tộc mình và trong cộng đồng nhân loại. Song mỗi dân tộc, do những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử riêng của mình, từ những trải nghiệm trực tiếp trong thực tiễn lao động và đấu tranh, trong môi trường tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển, lại có những quan niệm và cách thức biểu hiện riêng của mình về chân - thiện - mỹ. Nó biểu hiện thành tâm lý và ý thức, phong tục tập quán và lối sống, tạo thành tính cách của con người và cộng đồng dân tộc. Các giá trị văn hóa truyền thống đó kết tinh lại trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách thức ứng xử, phản ánh diện mạo tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một dân tộc, có trong các sản phẩm vật thể và phi vật thể của văn hóa. Trong văn hóa tinh thần (phi vật thể) và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam truyền thống, qua các thời đại lịch sử cần đặc biệt chú trọng tới một lĩnh vực rất phong phú và tinh tế nằm chung trong cấu trúc của văn hóa, ấy là văn học, nghệ thuật, bao gồm cả dòng văn học dân gian và dòng văn học bác học. Đây là di sản tinh thần rất quan trọng mà các thế hệ người Việt Nam từ xa xưa - tổ tiên, ông cha chúng ta đã sáng tạo ra, đã để lại cho đời sau. Nó phải được bảo tồn và phát huy, được kế thừa và phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Nó cần phải có mặt trong hành trang của những con người Việt Nam hiện nay, nhất là thế hệ trẻ nhập cuộc với đổi mới để phát triển, đổi mới trong nội tại của đất nước, con người và dân tộc mình đồng thời hội nhập với bên ngoài để phát triển và hiện đại hóa.

2 - Con người sản xuất và sáng tạo ra văn hóa đồng thời văn hóa đã phát triển và hoàn thiện con người, định hình bản chất người và nhân tính của nó

Văn hóa trong ý nghĩ sâu xa của nó là trình độ người trong phát triển, là tất cả những gì chứng tỏ nhân tính vượt lên trên thú tính (bản năng của loài vật).

Văn hóa được hình dung như một lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, theo cách này, có văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, có hoạt động văn hóa, sản phẩm văn hóa, có quản lý nhà nước về văn hóa. Trong nền kinh tế thị trường, đã và đang hình thành thị trường văn hóa, xuất phát từ đặc tính thương mại của văn hóa (có sản xuất, kinh doanh, dịch vụ văn hóa, tuân theo quy luật thị trường, quy luật giá trị, cạnh tranh, quy luật cung - cầu). Cũng cần phải tính đến xu hướng thương mại, thương mại hóa văn hóa, tuy nhiên hiện tượng này có thể xem trên hai mặt hợp lý, cần thiết và những biến thái của hiện tượng này có thể dẫn đến những lệch lạc về định hướng giá trị, nhu cầu, thị hiếu mà quản lý văn hóa và giáo dục văn hóa phải điều tiết.

Một nguyên tắc cần được nhận thức đúng và ứng dụng trong thực tiễn văn hóa trước tác động của kinh tế thị trường là, mọi hoạt động văn hóa và phát triển thị trường văn hóa cũng như ngành công nghiệp văn hóa không được để xảy ra những biến dạng văn hóa, thành phản văn hóa, giá trị thành phản giá trị. Muốn vậy, phải bảo đảm cho hoạt động văn hóa và các sản phẩm văn hóa được tạo ra, được lưu thông trên thị trường bảo toàn được 3 chuẩn mực của văn hóa: Khoa học, đạo đức và thẩm mỹ (tương ứng với cấu trúc về loại hình văn hóa, cấu trúc của giá trị văn hóa là chân - thiện - mỹ, phù hợp với nhân bản, nhân đạo và nhân văn của văn hóa).

Tiếp cận văn hóa từ hoạt động cho thấy, văn hóa gắn liền với chủ thể hoạt động là con người, văn hóa là phương thức độc đáo của con người, chỉ riêng có ở con người để biểu hiện và tự biểu hiện mình, để khẳng định và tự khẳng định mình trong phát triển và tự phát triển. Với con người và loài người, hoạt động căn bản quan trọng, quyết định nhất là hoạt động lao động sản xuất ở trong thực tiễn đời sống, gắn liền xã hội với tự nhiên, như một chỉnh thể. Con người không chỉ sản xuất ra văn hóa mà còn cảm thụ, tiêu dùng văn hóa, cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Có một tự nhiên được nhân tính hóa và do chính con người làm chủ nó, làm chủ để tồn tại và sống thân thiện với nó chứ không phải can thiệp vô lối, tùy tiện, làm tổn hại “cái thân thể vô cơ của con người” (Các Mác). Con người đối xử với tự nhiên một cách có văn hóa, chứ không phải tàn phá nó như những kẻ thực dân xâm lược theo lời cảnh báo của Ph. Ăng-ghen. Tàn phá, hủy hoại tự nhiên là xa lạ với hiểu biết. Khám phá, sáng tạo để làm chủ tự nhiên. Phá hủy tự nhiên, làm hỏng môi trường sống của con người cũng có nghĩa là đẩy con người và loài người tới chỗ tự sát.

Nếu hoạt động lao động sản xuất là hoạt động tồn tại mãi mãi, vĩnh viễn, cùng với bản chất con người như một tổng hòa các quan hệ xã hội thì lao động như một phạm trù vĩnh viễn, là hằng số của phát triển văn hóa. Rõ ràng, văn hóa không sinh ra từ một hoạt động bất kỳ, tự phát nào. Văn hóa là những giá trị được chọn lọc và thẩm thấu rất sâu rộng trong đời sống thực tiễn, trước hết là thực tiễn tồn tại và phát triển của con người. Theo đó, lao động là phạm trù vĩnh viễn cùng tồn tại với con người, và trong các loại hình văn hóa cần phải dành cho văn hóa lao động một sự tôn vinh đặc biệt. Từ lao động đến văn hóa lao động là cả một quá trình lịch sử lâu dài. Để có văn hóa lao động thì lao động phải là lao động tự do, tự nguyện, sáng tạo, nó không còn bị giam hãm bởi phương tiện sinh tồn vì miếng cơm, manh áo mà nó phải trở thành nhu cầu sống của con người, lao động phải nhằm bộc lộ và phát triển những năng lực sáng tạo, những phẩm giá, đức hạnh của con người. Muốn vậy phải giải phóng lao động và người lao động khỏi tình trạng bị bóc lột, áp lực, bị đầy đọa trong cực nhọc, tăm tối, tức là lao động bị tha hóa kéo theo tha hóa bản chất con người. C. Mác gọi tình trạng đó là làm nhục con người. Phải sao cho trong lao động và trong đời sống, con người được tôn trọng như một con người. Chỉ khi đó, con người mới có thể coi lao động như một nhu cầu sống đầu tiên và con người được tự do khi ở bên ngoài lĩnh vực lao động tất yếu. Văn hóa lao động đòi hỏi phải nhân đạo hóa không ngừng môi trường sống, hoàn cảnh sống, cũng như điều kiện lao động. Quan hệ lao động có thấm nhuần chuẩn mực bình đẳng và công bằng thì thái độ lao động của con người mới là thái độ lao động có văn hóa, tức là tự nguyện, tự giác và sáng tạo. Tình yêu đối với lao động và đức tính cần cù lao động trở thành một giá trị văn hóa. Đó cũng là một giá trị văn hóa nổi bật, hàng đầu trong giá trị văn hóa truyền thống của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam mà ngày nay chúng ta phải bảo tồn và phát huy. Bởi hoạt động tạo ra giá trị nên tiếp cận văn hóa từ hoạt động gắn liền với tiếp cận văn hóa từ giá trị. Chỉ những hoạt động sáng tạo, tích cực, hướng tới sự phát triển và tiến bộ mới được coi là hoạt động văn hóa. Do đó, về phương diện giá trị, cái gọi là văn hóa phải đi liền với những giá trị đích thực, những chân giá trị (chân - thiện - mỹ). Cần phải khẳng định rằng, văn hóa chỉ dùng để nói về những gì tốt đẹp, đúng đắn, hướng tới phát triển và hoàn thiện nhân tính. Những gì đối lập với nó không thể gọi là văn hóa và giá trị văn hóa.

3 - Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong điều kiện hiện đại hóa xã hội đòi hỏi phải thấm nhuần quan điểm và phương pháp biện chứng về phát triển. Đây chính là xử lý mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới, giữa kế thừa và phát triển các di sản, các giá trị truyền thống

Văn hóa không chỉ hoạt động và kết tinh thành giá trị. Văn hóa còn mang bản chất sáng tạo mà muốn sáng tạo thì phải thường xuyên đổi mới.

Văn hóa là đổi mới và sự nghiệp đổi mới của Đảng, của nhân dân ta là một sự nghiệp văn hóa, là quá trình sáng tạo văn hóa. Đó là một chỉ dẫn rất sâu sắc của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - một học trò ưu tú của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà văn hóa lớn, nhà nhân văn chủ nghĩa của Việt Nam thời hiện đại.

Có thể tìm thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh những chỉ dẫn quan trọng, mới mẻ và hiện đại về phương pháp luận nghiên cứu văn hóa trong phát triển, về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống hướng đích vào phát triển mà sâu xa nhất là phát triển con người.

Chăm lo phát triển con người phải không bỏ sót một người nào, không phí phạm một tài năng nào. Phải làm cho mọi sáng kiến, sáng tạo của các cá nhân được khích lệ, phát huy.

Hồ Chí Minh xem việc phát triển con người không chỉ là phát triển cá nhân mà còn là phát triển cả cộng đồng xã hội, đó là nhân dân, đồng bào, là dân tộc, là từng tổ chức, đoàn thể đến toàn Đảng và toàn xã hội. Người nêu rõ: phát triển sức dân, đi liền với bồi dưỡng sức dân và tiết kiệm sức dân.

Mỗi người phải vừa là một công dân, vừa là một chiến sĩ, vì nước, vì dân mà tranh đấu, coi phục vụ dân, làm đầy tớ, công bộc của dân là lẽ sống cao thượng nhất.

Cả dân tộc phải trở thành một dân tộc thông thái.

Cả xã hội là một xã hội văn hóa cao.

Muốn vậy phải dày công phát triển kinh tế, văn hóa, phải làm cho văn hóa đủ sức soi đường cho quốc dân đi, văn hóa không ở bên ngoài mà ở bên trong kinh tế và chính trị. Lại phải làm cho chính trị, thấm sâu vào đời sống dân gian, phải đem sức mạnh văn hóa để chữa thói phù hoa xa xỉ, quan liêu lãng phí, tham ô (ngày nay là tham nhũng). Chiến lược phát triển xã hội trong trù tính của Hồ Chí Minh là cả một phức hợp các chiến lược làm cho kinh tế phồn vinh, chính trị dân chủ pháp quyền, xã hội công bằng, bình đẳng, nước có độc lập, dân có tự do và hạnh phúc, con người, xã hội hài hòa với môi trường tự nhiên, luôn được chăm sóc, giữ gìn và bảo vệ. Một xã hội như vậy là một xã hội văn hóa cao, con người sống trong xã hội ấy trở thành người chủ, biết làm chủ, có quyền và địa vị làm chủ thì phải có nghĩa vụ của người chủ.

Giải phóng dân tộc để phát triển dân tộc, con đường giải phóng và phát triển ấy là độc lập dân tộc và gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Muốn vậy, phát triển kinh tế phải đi liền với chấn hưng giáo dục để chấn hưng dân tộc, bởi kiến thiết chế độ mới phải có nhân tài, có rất nhiều nhân tài, làm cho đời sống vật chất ngày một tăng, đời sống tinh thần ngày một tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ.

Văn hóa có mặt và tham dự vào tất cả các quá trình ấy. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa.

Đảng phải tỏ ra xứng đáng là một Đảng chân chính cách mạng, thực hiện một nền chính trị đoàn kết và thanh khiết, làm gương cho toàn dân, bởi gương mẫu là cách lãnh đạo tốt nhất, một tấm gương tốt còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn.

Như vậy, trên phương diện giá trị, ngoài giá trị lao động và đức tính yêu lao động, cần cù sáng tạo trong lao động, Văn hóa Việt Nam còn nổi bật ở giá trị đạo đức, ở tình thương yêu nhân ái, vị tha, là đoàn kết gắn bó cộng đồng, là đạo lý, đạo nghĩa ở đời và làm người, “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”...

Biểu hiện cụ thể trong đời sống hằng ngày, con người Việt Nam và dân tộc Việt Nam, tỏ rõ một thái độ văn hóa trong lựa chọn giá trị, đề cao phẩm giá con người, trọng chân lý và đạo lý, biết vinh và biết nhục, biết giữ trọn khí tiết, sự tham cao của tâm hồn mà “hoa sen Việt Nam”, “cây tre Việt Nam” là một biểu tượng. Vật chất quyết định tinh thần, song văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam thể hiện rõ rệt sự ưu trội khi lựa chọn giá trị, biết đề cao giá trị làm người và tìm thấy động lực sống, động lực phát triển không chỉ là lợi ích vật chất mà còn là các giá trị tinh thần, đạo đức, lương tâm, danh dự.

Trong tục ngữ, ca dao Việt Nam từ xa xưa đã có một sự chiêm nghiệm, một tổng kết rằng:

“Người ta là hoa của đất”

Và tâm linh Việt Nam đã chú trọng đạo hiếu - nghĩa rất thiêng liêng:

“Người ta sống vì mồ vì mả

Không ai sống bằng cả bát cơm”

Ngay khi hướng tới một cái nhìn thực tế và thực dụng, trí tuệ dân gian Việt Nam đã tỏ ra sự tỉnh táo, thiết thực, có lý và hợp lý. ấy là thái độ ứng xử của “thằng Bờm”, biết rõ đâu là giá trị cần có và tương xứng với cái sản phẩm của mình. Nó khước từ mọi hư ảo, phỉnh nịnh, lừa dối, nó tiếp nhận cái thật và sự thiết thực cần phải có... Triết lý ấy là một phần tư tưởng, tinh thần và tâm hồn dân tộc lắng đọng trong văn hóa truyền thống, trước hết trong văn học dân gian với kho tàng ca dao tục ngữ vừa thấm đượm chất trữ tình vừa không kém phần sâu sắc của trí tuệ dân gian.

4 - Yêu nước và tình cảm yêu nước, thương người phát triển thành chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo, đó không chỉ là một nét đẹp đạo đức, một nét văn hóa mà còn kết tinh thành giá trị bền vững của văn hóa truyền thống Việt Nam. Chính giá trị này làm nên sức sống của con người và dân tộc Việt Nam. Đây cũng là cội nguồn sức mạnh của bản lĩnh văn hóa Việt Nam cần phải phát huy trong hội nhập quốc tế ngày nay

Yêu nước, thương người là sự cao quý của tư tưởng và tâm hồn Việt Nam, là giá trị nhân cách của con người Việt Nam, đó là truyền thống dân tộc trải qua bao biến thiên của lịch sử vẫn tồn tại một cách bền bỉ và tỏa sáng rạng rỡ trên gương mặt tinh thần của cả dân tộc. Đó cũng là một truyền thống văn hóa, văn hóa chính trị gắn liền với văn hóa đạo đức của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân văn truyền thống của Việt Nam được sản sinh và nuôi dưỡng trong lịch sử dựng nước và giữ nước hằng nghìn năm cho tới ngày nay vừa anh hùng vừa bi tráng. Cốt cách Việt Nam định hình trong thử thách khắc nghiệt chống thiên tai và chống ngoại xâm, đoàn kết và cố kết cộng đồng, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển, bởi sức mạnh của hợp tác và đồng thuận. Sức mạnh ấy chẳng những được quy định thành văn mà còn được tổng kết thành triết lý sống và thành phương châm ứng xử, chỉ dẫn hành động, sự khẳng định các giá trị. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống có trong mối liên kết giữa Nhà với Làng với Nước, là liên kết cộng đồng, lấy sức mạnh ở tổng thể, trong đó từng cái riêng, đơn lẻ và cá thể được tập hợp và hòa đồng trong cái chung của cộng đồng rộng lớn, lấy tương đồng, cố kết cộng đồng để khắc phục những khác biệt và những xung đột.

Nhà là biểu hiện đầu tiên, là điểm xuất phát và cũng là chỗ trở về trong mục đích hòa đồng để phát triển của Nước.

Làng là sự mở rộng của Nhà và Nước là sự mở rộng và tập hợp của các làng mà thành. Trong tâm thức con người Việt Nam, làng là quê hương, là cái nôi thiêng liêng. Tổ quốc cũng vậy. Nước là đất nước, là nhà nước.

Giá trị và sức mạnh cộng đồng là một nét nổi bật, là một đặc tính truyền thống Việt Nam, trước hết là trong chống thiên tai và sau đó là chống giặc ngoại xâm.

Trong thời hiện đại, trong bối cảnh mở cửa, hội nhập, giá trị và sức mạnh ấy cũng phải phát huy và đồng thời cũng cần khắc phục những hạn chế của chính giá trị này, sao cho cố kết cộng đồng không bao giờ buông lỏng mà tự do cá nhân cũng không thể xem thường. Hài hòa giữa những “cái tôi” với “cái chung” trong phát triển đòi hỏi những tác động sâu xa của dân chủ và sự công phu trong giáo dục văn hóa lối sống, để vừa phát triển hợp lý, chính đáng những cá thể, vừa phát triển lành mạnh cộng đồng xã hội - những tập thể chân chính chứ không phải những cộng đồng trừu tượng, hư ảo, những biến tướng “giả tập thể” của những phường hội, cục bộ, chủ nghĩa địa phương, cát cứ và bè phái.

Đó chính là sự khắc phục những hạn chế có trong “tính lưỡng diện văn hóa” của tâm lý, lối sống truyền thống mà cơ sở kinh tế - xã hội đã sản sinh ra nó chính là nền kinh tế nông nghiệp của xã hội nông thôn với cộng đồng nhưng tiểu nông tư hữu, sản xuất nhỏ. Di tồn này vẫn còn trong xã hội Việt Nam ngày nay vốn chưa được cải tạo hết, từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại chưa hoàn thành. Chính vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống bao hàm cả xây dựng và cải tạo, cả kế thừa và loại bỏ, đổi mới để phát triển.

Cuộc đấu tranh giữa cái mới tiên tiến với cái lạc hậu, bảo thủ là một cuộc đấu tranh phức tạp và lâu dài. Theo V.I. Lê-nin, thói quen là điều đáng sợ nhất. Yêu nước, thương người, chủ nghĩa nhân đạo và chủ nghĩa nhân văn truyền thống là những giá trị văn hóa, những triết lý văn hóa bền vững và đặc sắc nhưng cũng biến đổi khi hoàn cảnh, điều kiện lịch sử đã thay đổi. Nội dung yêu nước ở thời hiện đại, trong bối cảnh quốc tế hiện nay đã có thêm những biểu hiện mới, yêu cầu mới. Tình cảm thương người, vị tha, nhân ái cũng vậy, nó không chỉ thể hiện trong quan hệ giữa người và người trong cộng đồng, trong sự gắn bó, chia sẻ với số phận chung của dân tộc khi gặp hoạn nạn với những thử thách mất - còn, tự do và nô lệ. Ngày nay, trong kinh tế thị trường, trong phát triển để vượt qua cái nghèo vươn tới giàu có, khi cá nhân và lợi ích cá nhân được đề cao, thậm chí phát triển thái quá thành chủ nghĩa cá nhân cực đoan... thì những giá trị trong văn hóa truyền thống nêu trên không tránh khỏi những thách thức. Quan niệm mới và cách thức giải quyết mới, nếu không rõ ràng, không được hướng dẫn và giáo dục thì những lệch lạc về định hướng giá trị và chuẩn mực giá trị sẽ có thể xảy ra. Nó biểu hiện thành hành vi ứng xử ở những đối tượng nào đó, những nhóm xã hội nào đó, cả thế hệ và lứa tuổi, có thể như một sự suy đồi văn hóa, suy đồi đạo đức.

Vì vậy, việc xây dựng quan niệm mới về giá trị, đổi mới nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống, chú trọng giáo dục văn hóa, đặc biệt là giáo dục giá trị để hướng dẫn dư luận và thực hành trong lối sống, trong đời sống văn hóa là một đòi hỏi bức xúc, cần thiết. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống hướng tới phát triển có ý nghĩa như là hiện đại hóa truyền thống.

5 - Truyền thống và những giá trị văn hóa truyền thống định hình ở dân tộc này nhưng có thể có ở dân tộc khác, ở nhiều dân tộc khác

Có lẽ, để tồn tại và phát triển, không dân tộc nào trong cộng đồng thế giới nhân loại lại không hình thành nên tình cảm yêu nước, thương nòi, cần cù lao động, sáng tạo trong việc cải biến tự nhiên và chống ngoại xâm. Cũng như vậy, trong văn hóa của dân tộc mình, không dân tộc nào lại không xây dựng cho mình những chuẩn mực đạo đức và quy tắc ứng xử, những thành tựu riêng thuộc về tư tưởng hay ý thức hệ, về văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa và đưa nó vào trong sinh hoạt tinh thần, thành tâm lý, phong tục, tập quán.

Phân biệt đâu là cái đích thực, cái riêng có của dân tộc mình, kết tinh trong giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình là không đơn giản.

Văn hóa là sự thống nhất trong đa dạng, thống nhất từ những khác biệt. Sự phong phú, sâu sắc của mỗi nền văn hóa là ở những tính riêng đặc thù trong khi biểu hiện thành những tính chung, những cái phổ biến, phổ quát.

Đồng nhất văn hóa là cái chết của văn hóa và điều đó không thể xảy ra trong lý luận cũng như trong thực tiễn văn hóa.

Sự tương đồng, giống nhau về những giá trị văn hóa có lý do từ những tất yếu của tồn tại và phát triển đời sống con người và loài người, của nhân tính. Nó cũng còn bắt nguồn từ sự tiếp xúc và tiếp biến giữa các chủ thể văn hóa trong thời gian và không gian văn hóa, sự tương đồng trong tích lũy kinh nghiệm sống và những trải nghiệm lịch sử về sự sống giữa các dân tộc.

Và khác biệt, có lẽ là ở phương thức biểu hiện, ở hình thái sản xuất và sáng tạo văn hóa, ở quan niệm tư tưởng và triết lý văn hóa của mỗi dân tộc, trong sự đề cao hay ưu tiên giá trị này chứ không phải giá trị khác. Nếu truyền thống hình thành từ lịch sử là khác nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác, nếu truyền thống là lịch sử đã trải qua và đã chứng nghiệm của đời sống dân tộc, nó kết động cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, cả cái hay lẫn cái dở thì giá trị trong truyền thống lại trải qua sự sàng lọc, đi qua cái “bộ lọc của tinh thần dân tộc” để cái gì trở thành giá trị, được thừa nhận và tôn vinh (trở thành ý thức tự hào dân tộc) phải là cái tốt đẹp, tích cực, với hai phương diện nổi bật: trí tuệ và đạo đức. Dĩ nhiên, điều này cũng là tương đối và có tính lịch sử, bởi rất có thể, cái được quan niệm là giá trị ở dân tộc này lại không được coi là giá trị trong quan niệm của dân tộc khác. Rõ nhất là trong phong tục tập quán. Như đã nói ở trên, truyền thống cũng thay đổi trong những điều kiện lịch sử nhất định mà giá trị truyền thống cũng luôn đổi mới sự biểu hiện và trong thước đo đánh giá của hiện đại.

Không một quá khứ nào có thể giữ nguyên vẹn khi gia nhập vào đời sống của hiện tại và đi tới tương lai. Đó là lẽ tự nhiên của phát triển. Bởi vậy, khi xem xét văn hóa dân tộc với truyền thống và giá trị của nó như là “tấm căn cước” của dân tộc để hội nhập vào thế giới, giúp cho sự nhận thức và đánh giá dân tộc đó là gì và như thế nào trong sự hiểu biết và cảm thông của cộng đồng nhân loại thì nhận diện những khác biệt là rất cần thiết và quan trọng. Những khác biệt đó không chỉ là cái tốt, cái đẹp mà có cả những khiếm khuyết, hạn chế. Cái mạnh của dân tộc này (về văn hóa) có thể là cái yếu của dân tộc khác.

Để nỗ lực vươn tới phát triển và có đóng góp xứng đáng vào phát triển chung, tính tự ý thức của dân tộc là điều không thể thiếu.

Song trong tiếp xúc giao lưu, đối thoại giữa các nền văn hóa trong hội nhập, thái độ chấp nhận và tôn trọng những khác biệt của nhau, không lấy mình làm chuẩn để đánh giá cái ngoài mình cũng vô cùng cần thiết. Đây là thực chất của tinh thần khoan dung và văn hóa khoan dung mà ai ai cũng cần phải nhận biết, trau dồi và thực hành trong ứng xử. Đây cũng là điều cần thiết để gây dựng quan hệ văn hóa giữa các dân tộc trên thế giới đáp ứng yêu cầu dân chủ, bình đẳng giữa các dân tộc, cùng hướng tới hòa bình, phát triển, đoàn kết, hợp tác và đồng thuận.

Bản chất của khoan dung làm cho văn hóa đóng vai trò thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau, là nhịp cầu của tình hữu nghị và sự thân thiện, đồng cảm và thông cảm lẫn nhau trong việc cùng tham gia, cùng chia xẻ những trách nhiệm chung vì phát triển chung của cả thế giới nhân loại. Bản sắc và bản lĩnh văn hóa của dân tộc trong việc thể hiện những giá trị văn hóa chung, phổ quát của nhân loại và khẳng định phần sáng tạo riêng của dân tộc mình trong việc làm phong phú, sâu sắc những giá trị đó hoặc sáng tạo ra những giá trị thực sự của mình - Đó mới thực là điều cần nhấn mạnh khi bàn về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong hội nhập quốc tế./.

Hoàng Chí Bảo (theo Tạp chí Cộng sản điện tử)

Cập nhật ( 21/11/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“Đặt ra kế hoạch thật tốt, thật sát là rất cần, nhưng đó chỉ là bước đầu, kế hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo sát sao phải là 30 phần- có như thế mới hoàn thành kế hoạch”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com