Tuần -12 - Ngày 06/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Con đường xây dựng các ĐH đẳng cấp quốc tế của Trung Quốc
18/03/2009


Có thể dễ dàng nhận thấy một điểm chung giữa các nước đang phát triển khi họ bước vào thời kỳ thịnh vượng nhờ nhanh chóng tăng trưởng kinh tế, là những tham vọng lớn lao về giáo dục và văn hóa, trong đó có cuộc tìm kiếm con đường đưa những trường đại học đang có lên vị trí “đẳng cấp quốc tế”, hoặc xây dựng mới những trường đại học đẳng cấp quốc tế (world class university- WCU). Trung Quốc (TQ) là một điển hình hết sức đáng chú ý đối với Việt Nam, do vai trò đặc biệt của TQ trên thế giới, do sự gần gũi về đặc điểm văn hóa và nhất là chính trị. Bài viết này trình bày tóm tắt quá trình xây dựng và triển khai kế hoạch xây dựng những trường đại học đẳng cấp quốc tế (ĐHĐCQT) của TQ, kết quả của những kế hoạch và nỗ lực ấy, đồng thời thử tìm cách lý giải nguyên nhân. Trong một bài khác, chúng tôi đã nêu lên mô hình ngũ giác bao hàm năm yếu tố cơ bản tạo nên đặc điểm của một trường đại học: những giá trị văn hóa tinh thần, cơ cấu tổ chức và quản trị, nguồn lực, các hoạt động và các thành quả. Con đường xây dựng các ĐHĐCQT của TQ tiêu biểu cho sự lựa chọn nhấn mạnh ba yếu tố sau, tương tự như con đường mà Việt Nam đang đi trong thời gian vừa qua. Do vậy tìm hiểu bài học TQ là một việc có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc xây dựng trường ĐH đạt chuẩn mực quốc tế cho Việt Nam



Đại học Liên hợp Bắc Kinh

1. Về quá trình xây dựng ĐHĐCQT của TQ

Vấn đề ĐHĐCQT trong chiến lược phát triển giáo dục đại học của Nhà nước TQ

Không thể phủ nhận quyết tâm hết sức lớn lao của Nhà nước TQ trong việc chủ trương đưa một số trường đại học TQ vào danh sách các đại học hàng đầu thế giới. Họ coi đó là một chiến lược phát triển quốc gia, và điều này thể hiện rõ trước hết trong chính sách của Nhà nước TQ đối với giáo dục đại học.

Về mặt chính sách,Nhà nước TQ coi giáo dục đại học là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình hiện đại hóa TQ. Mọi kế hoạch phát triển của Nhà nước đều nhấn mạnh đến giáo dục ở mọi cấp, từ phổ cập giáo dục tiểu học toàn quốc đến việc xây dựng ĐHĐCQT như là đỉnh cao của hệ thống giáo dục. TQ muốn cạnh tranh với toàn thế giới trong nhiều lãnh vực, và giáo dục đại học là lãnh vực duy nhất mà tiêu chuẩn quốc tế được chính thức dùng làm thước đo cho những thành công ở trong nước.

Ngay từ thập niên 50, TQ đã có chính sách đầu tư đặc biệt cho một số trường trọng điểm, và từ giữa thập kỷ 90, khi Giang Trạch Dân, sau đó là lãnh đạo của TQ, chính thức nêu rõ quyết tâm chuyển biến các trường đại học TQ, ngân sách Nhà nước cho giáo dục đại học đã tăng hơn gấp đôi, lên tới 10,4 tỷ USDtrong năm 2003.Từ những năm 90, TQ bắt đầu triển khai kế hoạch xây dựng 100 trường đại học chất lượng cao trước khi bước sang thế kỷ 21, với một kế hoạch được gọi là Dự án 211. Năm 1998 tại lễ kỷ niệm 100 năm Đại học Bắc Kinh, chủ tịch nước tuyên bố TQ cần có những trường đẳng cấp quốc tế, ngay sau đó Dự án 985 ra đời nhằm thực hiện chủ trương này. Năm 2005, sau Hội nghị Quốc tế về ĐHĐCQT do Đại học Giao thông Thượng Hải đăng cai tổ chức, Dự án 111 ra đời để khắc phục chỗ yếu của các trường đại học tinh hoa ở TQ nhằm nhanh chóng đạt vị trí “đẳng cấp quốc tế”. Nếu như 211 và 985 nhằm nâng cao nguồn lực tài chính để trang bị cơ sở vật chất và trang thiết bị nghiên cứu tối tân cho các trường, thì Dự án 111 chủ yếu để “mua” các tài năng từ nước ngoài đem về các trường đại học TQ nhằm tăng nhanh số lượng công bố khoa học và thành tích nghiên cứu. Các sáng kiến này chủ yếu nhằm vào các trường hàng đầu với mục đích nâng cao năng lực nghiên cứu để thực hiện tham vọng của TQ trong việc giành ngôi vị đẳng cấp quốc tế. Nhiều lần các quan chức Chính phủ đã phát biểu một cách hiển ngôn niềm hy vọng sẽ đưa một loạt các trường đại học TQ vào hàng ngũ đại học đẳng cấp quốc tế trước năm 2020.

Để thực hiện chính sách ấy, Nhà nước TQ đã chi những khoản tiền khổng lồ cho giáo dục đại học so với tương quan GDP của họ. Từ những năm 50, đã có những trường được coi là “đại học trọng điểm quốc gia” (national key universities). Năm 1954 có 6 trường được gọi là đại học trọng điểm quốc gia, đến năm 1959 thêm 16 trường và 44 trường tính đến năm 1960, rồi một lần nữa danh sách này được bổ sung thêm 4 trường trong năm 1963. Sau cuộc Cách mạng Văn hóa, các trường đại học trọng điểm quốc gia được đặt tên lại, thêm nhiều trường được bổ sung vào danh sách này, tính đến năm 1981, có tất cả là 96 trường như vậy. Các trường trọng điểm quốc gia này được ưu tiên hơn những trường khác trong các chính sách về tài chính.

Chính sách đầu tư trọng điểm này vẫn tiếp tục và càng lúc càng tăng cường độ. Từ năm 1984, 10 trường đại học được cung cấp tài chính bổ sung từ Dự án Trọng điểm Quốc gia là: Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Phúc Đán, Đại học Giao thông Thượng Hải, Đại học Giao thông, Đại học Bách khoa TQ, Đại học Y khoa Bắc Kinh, Đại học Remin, Đại học Sư phạm Bắc Kinh, Đại học Nông nghiệp TQ. Trong những năm cuối của thập kỷ 80, 416 chương trình trọng điểm quốc gia ở 107 trường đã được chọn để hỗ trợ tài chính bổ sung như một phần của Dự án Trọng điểm Quốc gia được gọi là Dự án 211. Để thực hiện dự án này, trước hết Nhà nước Trung Quốc đầu tư 400 triệu nhân dân tệ (khoảng 50 triệu USD) cho những trường được chọn lựa để nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Đồng thời chính quyền địa phương cũng được yêu cầu cung cấp hỗ trợ tài chính cho những trường này. Chẳng hạn, chính quyền đặc khu Thượng Hải đã đóng góp cho Đại học Phúc Đán và Đại học Giao thông Thượng Hải mỗi trường 120 triệu nhân dân tệ (15 triệu USD) năm 1995 để nâng cao chất lượng dạy học và điều kiện nghiên cứu ở cả hai trường. Điều này chứng tỏ mong muốn của các chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ các trường đại học hàng đầu nằm trong khu vực địa phương của mình. Đến năm 1998, khi Dự án 985 ra đời, chỉ 38 trường được hưởng nguồn tài chính từ dự án này. Đại học Bắc Kinh, Đại học Triết Giang, Đại học Phúc Đán, Đại học Giao thông Thượng Hải, Đại học Nam Kinh, Đại học Bách khoa TQ, Đại học Giao thông Xi’an và Viện Kỹ thuật Harbin là 9 trường đứng hàng đầu trong những trường được sự hỗ trợ mạnh mẽ nhất của Dự án 9851. Dự án này cung cấp cho Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa, hai trường trọng điểm hàng đầu của Trung Quốc một ngân sách trọn gói trong ba năm là 1,8 tỷ nhân dân tệ (234 triệu USD) mỗi trường như một khoản tài trợ đặc biệt nhằm xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế. Chính sách tài chính này khiến hệ thống giáo dục đại học TQ phân hóa rõ rệt: chỉ vài mươi trường tinh hoa đang khao khát đạt tới vị trí đẳng cấp quốc tế, và được Nhà nước đầu tư rất mạnh, trong lúc phần lớn sinh viên phải theo học ở những trường đại học cấp tỉnh ở địa phương, các cơ sở giáo dục cho người lớn, đào tạo từ xa qua mạng Internet, và mới đây là các đại học tư, là những trường bị buộc phải xoay trở để tìm nguồn tài chính mà tồn tại. Mong muốn của TQ trở thành đủ sức cạnh tranh với cả thế giới trong nghiên cứu và đào tạo chỉ giới hạn trong một vài trường hàng đầu, kết quả của chiến lược “nhà nghèo, con đông”: Nhà nước chỉ tập trung cho những mũi nhọn với hy vọng tạo được sức mạnh đột phá về thành tích.

Tuy vậy, ngay cả những trường tốt nhất mặc dù đang nhận những khoản tài trợ đặc biệt từ Dự án 985 về Xây dựng ĐHĐCQT, cũng phải tìm kiếm những nguồn tài chính phi Chính phủ cho ngân quỹ hoạt động hàng năm của họ. Những nguồn tài chính hỗ trợ khác gồm có các tài trợ nghiên cứu của Quỹ Tài trợ Khoa học Quốc gia TQ và Quỹ Tài trợ Khoa học Xã hội, mặc dù mức tài trợ của những quỹ này thấp hơn nhiều so với những tổ chức Chính phủ ở Mỹ. Các trường đại học cũng phải tìm kiếm sự hợp tác hỗ trợ của các doanh nghiệp hoặc tổ chức cộng đồng ở địa phương để thực hiện những nghiên cứu ứng dụng cũng như những chương trình giáo dục và đào tạo. Cạnh tranh giữa các trường trong lĩnh vực này khá quyết liệt. Mặc dù nguồn hỗ trợ tài chính dành cho các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ đã tăng rất đáng kể từ năm 1999, ngân sách hoạt động hằng năm của họ vẫn nhỏ hơn nhiều so với các trường ĐHĐCQT của phương Tây (ngân sách của Harvard năm 2008 là 2,996 tỷ USD!2)

Không chỉ đầu tư mạnh về tài chính, nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu của các trường, về mặt tổ chức, Nhà nước TQ đã tiến hành những cải tổ quan trọng. Trong những năm 50, TQ theo mô hình trường đại học chuyên ngành của Xô Viết. Vì hầu hết các trường ĐHĐCQT đều là các trường tổng hợp và bao gồm nhiều chuyên ngành, Chính phủ TQ đã thực hiện tái cấu trúc các trường đại học và coi đó như một nỗ lực nhằm nâng cao hiệu quả của các trường và phục vụ cho việc đầu tư trọng điểm để xây dựng những trường ĐHĐCQT. Từ năm 1992, đã có hơn 200 trường đại học chuyên ngành được sáp nhập lại thành các trường đại học tổng hợp và đa ngành. Trong quá trình tái cấu trúc, hầu hết các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ đều giành được một trường chuyên ngành có chất lượng đỉnh cao như trường y hay một số trường chuyên ngành hẹp khác. Chẳng hạn, Đại học Y khoa Bắc Kinh đã được sáp nhập vào Đại học Bắc Kinh, Đại học Mỹ Thuật Quốc gia đã được sáp nhập vào Đại học Thanh Hoa.

Bên cạnh việc tái cấu trúc, một nỗ lực đáng chú ý của Nhà nước TQ là việc tiến hành xếp hạng các trường đại học, bao gồm cả xếp hạng quốc gia và xếp hạng quốc tế. Xuất phát điểm của chủ trương này là ý muốn xác định khoảng cách giữa các trường đại học TQ và các trường ĐHĐCQT và tìm hiểu những nhân tố nào đưa một trường đại học lên hàng đẳng cấp quốc tế. Viện Nghiên cứu Giáo dục Đại học của Đại học Giao thông Thượng Hải đã tiến hành thu thập dữ liệu của 500 trường đại học trên toàn thế giới theo những tiêu chí xác định, có thể xác minh được, và tiến hành xếp hạng. Bảng xếp hạng này trở thành rất nổi tiếng và được coi là một trong hai hệ thống xếp hạng quốc tế được biết đến rộng rãi nhất trên toàn thế giới. Năm 2005 họ đã đưa ra một danh sách xếp hạng hầu như hoàn toàn dựa trên những sản phẩm và kết quả nghiên cứu của các trường. TQ cũng đứng ra tổ chức Hội thảo Quốc tế về WCU năm 2005 tập hợp hàng trăm nhà khoa học trên toàn thế giới để bàn về chủ đề này.

Ngoài xếp hạng quốc tế, TQ còn thực hiện xếp hạng quốc gia. Từ giữa thập kỷ 90, việc xếp hạng các trường đại học trở thành một hiện tượng phổ biến ở TQ. Có năm chương trình xếp hạng có ảnh hưởng mạnh, trong đó có 4 là xếp hạng trường. Kết quả xếp hạng được coi là một nguồn thông tin quan trọng đối với sinh viên và phụ huynh. Các trường đại học và Chính phủ cũng hết sức quan tâm chú ý tới việc xếp hạng. Dù có nhiều trở ngại trong vấn đề xếp hạng các trường đại học ở TQ, đặc biệt là những vấn đề liên quan tới sự sẵn sàng và độ tin cậy của dữ liệu, kết quả xếp hạng cũng đem lại cho sinh viên một ý niệm đại khái về địa vị của mỗi trường đại học.

Về mặt quản lý, Bộ Giáo dục TQ tuy không còn giữ lề lối hoạt động trong một xã hội được điều khiển bằng mệnh lệnh như trước đây, nhưng vẫn giữ quyền kiểm soát những nhân tố chính của giáo dục đại học, như giảng viên và số lượng sinh viên mỗi ngành học, mức thu học phí, việc bổ nhiệm các chức vụ quản lý lãnh đạo cao cấp. Tuy vậy, trong bộ khung hành chính quan liêu này, các trường đại học cũng có quyền tự chủ nhiều hơn trong việc quyết định nội dung chương trình đào tạo, thành lập những viện nghiên cứu mới, thay đổi cơ cấu tổ chức nhà trường, và xác lập những ưu tiên về tài chính.

Chiến lược xây dựng trường ĐHĐCQT của các trường đại học TQ

Tuyển dụng nhân sự trên phạm vi toàn cầu và tăng cường quốc tế hóa:

Các trường đại học TQ hiểu rõ con người là nhân tố quyết định cho thành công của một trường đại học. Họ không có đủ sức mạnh tài chính để lôi cuốn được những giáo sư đẳng cấp quốc tế với số lượng đủ để đảm bảo cho hoạt động của một trường, thay vào đó, họ có chủ trương rất rõ ràng nhằm thu hút những trí thức Hoa kiều và những người TQ được đào tạo từ các nước phương Tây. Các trường đại học ở Bắc Kinh và Thượng Hải đặc biệt thành công trong việc thu hút những người học ở nước ngoài trở về nhận những vị trí nghiên cứu và giảng dạy. Có khi họ trở về ở hẳn TQ, có khi họ thương lượng một chế độ qua lại thường xuyên cho phép họ duy trì cương vị của họ ở phương Tây trong lúc bỏ ra nhiều tháng mỗi năm làm việc tại TQ.

Nếu những người TQ được đào tạo ở phương Tây có thể có nhà ở, xe cộ, những phương tiện văn hóa và trường học tốt cho con cái họ, thì trở về TQ không còn là một sự hy sinh như trong quá khứ. Dùng những người trở về này thay cho các chuyên gia nước ngoài cũng sẽ thích hợp hơn với mục tiêu của TQ trong việc tự lực và tăng sức cạnh tranh dài hạn. Mặc dù chi phí của các đại học TQ tăng cao vì mức lương của những người trở về này phải đủ sức cạnh tranh quốc tế, trong những lĩnh vực được ưu tiên cao (đặc biệt là trong khoa học và kỹ thuật), sự đầu tư này được coi là thiết yếu để tạo ra những chương trình giảng dạy và nghiên cứu với những phương pháp và lý thuyết tối tân nhất. Thêm vào đó, cơ sở vật chất mới cũng tạo điều kiện cho các trường đại học TQ tuyển mộ giảng viên và cán bộ nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu, nhất là các khoa học gia người TQ có bằng tiến sĩ ở châu Âu.

Để tăng cường tính chất quốc tế hóa, TQ cũng đang nỗ lực để trở thành thỏi nam châm thu hút sinh viên nước ngoài, thường là từ các quốc gia châu Á, chứ không chỉ quan tâm đến việc gửi nhân tài của họ sang phương Tây. Mục tiêu của họ là 100,000 sinh viên nước ngoài đến học tại TQ trong một tương lai gần. Mặc dù các trường đại học TQ vẫn tiếp tục đưa ra những chương trình học ngắn hạn về ngôn ngữ và văn hóa cho người nước ngoài, phần lớn là người Mỹ, ngày càng có nhiều trường đào tạo sinh viên nước ngoài cả trong những ngành học khác và cấp bằng chính quy cho họ. Với quyết tâm xác định vị trí của mình một cách tích cực trong bối cảnh toàn cầu, các trường đại học nghiên cứu hàng đầu ở TQ rất thiết tha với các hoạt động hợp tác quốc tế. Đã có nhiều thành công đạt được trong những chương trình trao đổi sinh viên và liên kết đào tạo. Nhiều trường đang có những tiến bộ vượt bậc trong việc thu hút sinh viên quốc tế và xây dựng những chương trình hợp tác nghiên cứu. Họ đang cố gắng vận dụng những tiêu chuẩn đánh giá có tính chất quốc tế đối với đội ngũ giảng viên của mình cũng như đối với các chương trình đào tạo.

Đầu tư mạnh vào phòng thí nghiệm và trang thiết bị phục vụ nghiên cứu

Các trường đại học TQ rất chú trọng nghiên cứu và đào tạo về khoa học kỹ thuật, đầu tư các nguồn quỹ mà họ có quyền chủ động sử dụng vào việc xây dựng những phòng thí nghiệm mới với những thiết bị kỹ thuật tối tân. Việc cộng tác với các đại học nước ngoài là một cách đã được thử thách qua thời gian để các đại học TQ khởi động những chương trình nghiên cứu ở trình độ quốc tế.

Năm 1986, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia đầu tiên được xây dựng tại Đại học Bắc Kinh. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của các đại học nghiên cứu cùng với khoản tài trợ nghiên cứu và phát triển cho các phòng thí nghiệm được Nhà nước Trung ương hỗ trợ và đặt tại các trường đại học, và việc các nghiên cứu của trường đại học được xem như một bộ phận của hệ thống nghiên cứu khoa học cơ bản của quốc gia. Ý tưởng thành lập các phòng nghiên cứu trọng điểm của quốc gia và đặt tại các trường đại học thực ra là học tập từ mô hình của các trường đại học nghiên cứu ở Hoa Kỳ. Trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, chủ trương tài trợ của Nhà nước Liên bang Hoa Kỳ đối với việc nghiên cứu của các trường đại học đã ảnh hưởng mạnh đến việc cải cách hệ thống nghiên cứu khoa học ở Trung Quốc.Ví dụ phổ biến nhất là Phòng Thí nghiệm Quốc gia Lawrence Berkeley, Phòng Thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore, và Phòng Thí nghiệm Quốc gia Los Alamos tại hệ thống đại học California. Trong lúc các phòng thí nghiệm quốc gia tại các trường đại học Trung Quốc hầu hết dựa trên cơ sở chuyên ngành nhằm mục đích tạo ra các trung tâm chất lượng cao trong từng lĩnh vực, sự thành lập của những phòng thí nghiệm ấy biểu hiện niềm hy vọng các trường đại học Trung Quốc rồi đây sẽ có được những phòng nghiên cứu giống như những phòng nghiên cứu mà Đại học California đang có.

Dựa trên những thông tin của Mạng lưới Nghiên cứu và Giáo dục Trung Quốc, đến năm 2002 đã có 91 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia tại các trường đại học hàng đầu. Hiện nay chỉ riêng Đại học Bắc Kinh đã có 13 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia như thế, những công trình nghiên cứu tại đó gắn chặt với những vấn đề khẩn thiết nhất của quốc gia trong việc phát triển.

Xây dựng các trường đại học nghiên cứu và coi nghiên cứu như là một chức năng chính ở các trường trọng điểm khác

Trong thập kỷ 50, TQ áp dụng mô hình Xô Viết về việc thành lập các viện nghiên cứu độc lập và nằm ngoài trường đại học, kể cả Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia TQ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội TQ, Viện Nghiên cứu Nông nghiệp. Những viện hàn lâm này có hàng trăm viện nghiên cứu bao gồm tất cả các lãnh vực chuyên ngành. Cho đến thập kỷ 80, hầu hết các hoạt động nghiên cứu ở TQ đều được thực hiện ở các viện nghiên cứu độc lập này, còn nhiệm vụ chính của các trường đại học chỉ là giảng dạy. Chủ trương xây dựng ĐHĐCQT khiến Nhà nước TQ phải xem lại điều này. Không phải ngẫu nhiên mà hệ thống tiêu chí xếp hạng quốc tế của SJTU rất xem trọng thành quả nghiên cứu của các trường. Thành tích nghiên cứu hiển nhiên là tác động trực tiếp tới uy tín của nhà trường, hiển nhiên là tác động tới trình độ phát triển của quốc gia, và chắc chắn có ảnh hưởng tích cực đối với việc giảng dạy và đào tạo. Vì vậy những trường đại học hàng đầu và được đầu tư trọng điểm ở TQ để đạt đẳng cấp quốc tế đều xác định rõ định hướng nghiên cứu của mình. Quỹ Khoa học Quốc gia TQ thành lập năm 1986 đã mang lại cho các trường đại học TQ cơ hội cạnh tranh các nguồn tài trợ dành cho việc nghiên cứu. Việc dựa trên những sáng kiến nghiên cứu của Bộ Khoa học Công nghệ và các bộ khác trong Chính phủ TQ trong thập kỷ 80 và 90 cũng tạo cho các trường đại học TQ thêm nhiều cơ hội quan trọng. Đồng thời, bản thân các trường đại học khác cũng bắt đầu chú trọng hơn đến công tác nghiên cứu, vì nghiên cứu đã được thừa nhận là một chức năng trọng yếu của nhiều trường đại học ở TQ. Nhà nước TQ tiến hành phân loại đại học nghiên cứu loại 1, loại 2, v.v…căn cứ vào tỷ lệ sinh viên cao học, và những trường được phân loại là đại học nghiên cứu được cấp kinh phí cao hơn. Các giáo sư ở những trường hàng đầu TQ đang dành thời gian cho nghiên cứu nhiều hơn là giảng dạy. Một số lớn các giáo sư và phó giáo sư chẳng hề dạy một môn nào ở bậc đại học. Để nâng cao chất lượng đào tạo bậc đại học, Bộ Giáo dục thậm chí đã phải ban hành một hướng dẫn năm 2003 yêu cầu các giáo sư và phó giáo sư phải tham gia giảng dạy ở bậc đại học.

Sự thành công của các trường đại học nghiên cứu Hoa Kỳ đã được công nhận là một khuôn mẫu cho giáo dục đại học trên toàn thế giới. Ở thập kỷ 80 Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thậm chí đã bắt đầu thảo luận về mô hình hệ thống nghiên cứu khoa học của Hoa Kỳ. Mô hình Hoa Kỳ có một tác động rất lớn đối với hệ thống giáo dục đại học Trung Quốc. Từ năm 1978, hàng ngàn giảng viên và sinh viên Trung Quốc đã đổ xô vào Hoa Kỳ vì họ quan tâm đến giáo dục và tri thức bậc cao. Rất nhiều hội thảo và ấn phẩm tập trung vào các trường đại học nghiên cứu Hoa Kỳ: họ đã hoạt động như thế nào và chúng ta có thể học tập ở họ những gì. Kinh nghiệm Hoa Kỳ đã trở thành cội nguồn cho rất nhiều ý tưởng về cải cách giáo dục đại học ở Trung Quốc, trong đó có ý tưởng về xây dựng các trường đại học nghiên cứu.

2- Những kết quả mà TQ đã đạt được

Thành tựu

Cùng với sự phát triển nhanh chóng của giáo dục đại học tại TQ và sự hỗ trợ tài chính mạnh mẽ của Chính phủ TQ, các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ đang có những bước đi quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động chuyên môn của họ và tạo ra những tiến bộ rất đáng kể nhằm đạt mục tiêu chiến lược của họ là trở thành những trường ĐHĐCQT.

Trong khoảng từ năm 2000 đến 2005, số lượng công bố khoa học của các trường đại học nghiên cứu hàng đầu trong danh mục SCI đã tăng gấp đôi. Đại học Thanh Hoa đã có khoảng 2700 bài báo được liệt kê trong danh mục SCI năm 2003, gần bằng con số của các trường hàng đầu thuộc top 50 của thế giới. Các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ cũng đã bắt đầu nhấn mạnh đến chất lượng của các công bố khoa học bằng cách khen thưởng những bài báo có tỉ lệ được trích dẫn cao hoặc xuất hiện trên những tạp chí chuyên môn danh tiếng. Xu Tian, nhà nghiên cứu di truyền học hàng đầu được đào tạo tại Đại học Yale và hiện nay vẫn đang dạy tại đó, phụ trách một phòng thí nghiệm ở Đại học Phúc Đán nơi tiến hành những nghiên cứu về biến đổi gene. Ngày 12 tháng 8 năm 2005, nghiên cứu có tính đột phá của ông đã được nêu trên trang bìa của tờ tạp chí nghiên cứu uy tín lừng lẫy- Tạp chí Nghiên cứu Các Tế bào- lần đầu tiên một khoa học gia TQ có vinh dự ấy!

Số giảng viên có bằng tiến sĩ đã đạt đến 50% ở các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ tính đến năm 2005 và hy vọng sẽ đạt đến 75% trước năm 2010. Những trường này cam kết nâng cao số giảng viên có bằng tiến sĩ từ các trường ĐHĐCQT. Các nhà quản lý của Đại học Bắc Kinh ước lượng khoảng 40% cán bộ giảng dạy của họ được đào tạo ở nước ngoài, chủ yếu là ở Mỹ.

Thêm vào đó, họ còn nỗ lực đặc biệt để lôi cuốn các giáo sư đẳng cấp quốc tế bằng nhiều cách. Trường Đại học Bắc Kinh đã lôi kéo được tài năng của Tian Gang- một nhà toán học hàng đầu của MIT, trong việc xây dựng một trung tâm nghiên cứu quốc tế về toán cao cấp trong số các trung tâm nghiên cứu trình độ cao khác.

Tỉ lệ của học viên sau đại học (kể cả các khóa học chuyên môn) với sinh viên đại học vẫn còn ở mức 1:1. Các trường đại học đang phải đấu tranh với việc nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, đặc biệt là năng lực sáng tạo và đổi mới của một bộ phận nghiên cứu sinh tiến sĩ. Nghiên cứu sinh tiến sĩ thường được yêu cầu có bài đăng trên tạp chí quốc tế trước khi có thể bảo vệ luận án.

Nhìn rộng ra cả hệ thống, chỉ trong vòng một thế hệ, kể từ năm 1978, TQ đã đưa tỉ lệ những người trong độ tuổi vào đại học từ 1,4% lên đến 20%. Chỉ riêng trong lãnh vực kỹ thuật, TQ tạo ra 442,000 cử nhân hằng năm, cùng với 48,000 người hoàn tất bằng thạc sĩ và 8,000 người đạt học vị tiến sĩ.

Tuy vậy, cho đến nay chỉ có Trường Đại học Bắc Kinh và một vài trường hàng đầu của TQ là được thế giới công nhận là có chất lượng cao. Tiêu chí số lượng bài báo khoa học trong danh mục SCIE và SSCI tính trên đầu người được đưa ra nhằm phản ánh hiện tượng cạnh tranh quốc tế ngày càng phát triển và đặt TQ trong một bối cảnh có tính chất quốc tế. Con số thấp nhất về tỉ lệ công bố khoa học trên đầu người trong số 60 trường thành viên của Hiệp hội Các trường Đại học Hoa Kỳ được chọn làm tiêu chuẩn cho TQ, chỉ số này được xác định là 0,7 trong năm 2004. Chỉ có 10 trường đại học TQ có được chỉ số này ở trên mức tối thiểu của Hoa Kỳ.

Khoảng cách, và những thử thách đang đặt ra

Trong bảng xếp hạng quốc tế của SJTU năm 2005, không một trường đại học TQ nào lọt vào danh sách 200 trường hàng đầu trên thế giới. Chỉ có 8 trường đại học TQ lọt vào danh sách 500 trường hàng đầu. Vị trí cao nhất mà các trường đại học TQ đạt được là trong khoảng 151 đến 2003. Còn trong bảng xếp hạng THES cùng năm, Đại học Bắc Kinh được xếp thứ 15, và chỉ có 5 trường đại học TQ nằm trong top 200 mà thôi. Ba năm sau, trong bảng xếp hạng năm 2008 cũng của SJTU thực hiện với cùng phương pháp và tiêu chí, vẫn không có tên một trường đại học nào của Trung Quốc trong danh sách 200 trường hàng đầu. Năm trường lọt vào thứ hạng cao nhất từ 152-200 là Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa, Đại học Nam Kinh, Đại học Giao Thông Thượng Hải, Đại học Chiết Giang, Shanghai Jiao Tong University, tức là không có bước tiến nào đáng kể so với kết quả xếp hạng năm 2005. Trong bảng xếp hạng THES năm 2008, chỉ có 2 trường đại học TQ lọt vào danh sách 100, nhưng lại tụt hạng so với chính họ: Đại học Bắc Kinh xếp hạng 50 năm 2008 trong lúc được xếp hạng 36 năm 2007, hạng 14 năm 2006. Mặc dù giới khoa học quốc tế gièm pha, chê bai cả hai hệ thống xếp hạng này vì những đánh giá không thỏa đáng về chất lượng, nhưng các trường đại học TQ thì nhìn vấn đề này một cách nghiêm túc như là một chỉ số cho thấy vị trí cạnh tranh của họ. Họ biết rằng phải mất một thế hệ hoặc hơn nữa để các trường đại học TQ có thể có chất lượng thực sự ngang bằng với những trường của Âu Mỹ. Các học giả TQ không phải là không có lý khi nghĩ như vậy, vì mặc cho mọi khác biệt về phương pháp và kỹ thuật, vẫn có một sự đồng thuận rất cao giữa hai hệ thống xếp hạng về 12 vị trí đầu tiên của bảng xếp hạng, điều này cho thấy uy tín của các trường ĐHĐCQT là một thực thể thực sự tồn tại khách quan và đo lường được.

Điểm phân biệt chủ yếu giữa các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ và các trường đại học đẳng cấp quốc tế là chất lượng của giảng viên và nghiên cứu, được thể hiện qua số cán bộ khoa học đoạt được các giải thưởng khoa học quốc tế chính, qua số lượng tác giả được nhiều nhà khoa học khác nêu trích dẫn trong những lĩnh vực khoa học chủ yếu, qua số lượng cán bộ giảng viên được đào tạo bậc tiến sĩ ở các trường đại học đẳng cấp quốc tế, qua số lượng các bài báo khoa học được công bố quốc tế, và qua một số nhân tố khác nữa.

Các trường ĐHĐCQT có trung bình 4,4 giảng viên đoạt giải Nobel và Huy chương của ngành, có trung bình 56 nhà nghiên cứu được nhiều người trích dẫn trong những lĩnh vực khoa học chủ yếu, trong lúc không một trường đại học nào ở TQ có được một cán bộ khoa học đạt giải Nobel hoặc Huy chương Field. TQ cũng thiếu những tác giả được nhiều người trích dẫn trong những lĩnh vực khoa học chủ yếu.4

Hơn 85% giảng viên tại các trường đại học đẳng cấp quốc tế có bằng tiến sĩ do các trường thuộc top 100 trên toàn thế giới cấp, trong lúc con số này chỉ là 10% ở các trường đại học TQ hàng đầu như Đại học Thanh Hoa hay Đại học Bắc Kinh5. Số trích dẫn trung bình trên mỗi bài báo khoa học trong Danh mục Trích dẫn Khoa học- SCI vào khoảng từ 2 đến 3 đối với các đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ như Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh, so với 25 ở Harvard 6.

Sự kiểm soát của Nhà nước đối với các trường đại học TQ đang giảm đi. Tuy vậy Nhà nước TQ vẫn giữ ảnh hưởng mạnh mẽ thông qua việc phân bổ nguồn lực, chuẩn thuận chương trình đào tạo, đánh giá dự án, và vô số các buổi họp hành. Vẫn còn một chặng đường rất dài để các trường đại học TQ có thể đạt được sự mở rộng quyền tự chủ. Vì năng lực đổi mới kỹ thuật của công nghệ TQ rất yếu kém, Nhà nước khuyến khích các trường đại học nghiên cứu phục vụ việc phát triển kinh tế của quốc gia. Phần lớn các nghiên cứu thực hiện ở TQ là nghiên cứu ứng dụng và tuyệt đại đa số là có liên quan đến phát triển công nghệ. Nghiên cứu cơ bản vẫn còn là một thứ xa xỉ đối với các trường đại học nghiên cứu ở TQ.

Chỉ có một số rất nhỏ các giáo sư đại học thực hiện việc nghiên cứu vì những mối quan tâm thuần túy khoa học. Phần lớn họ dạy học và làm nghiên cứu như một cách để kiếm sống. Chất lượng giảng viên, tiêu chí đề bạt, và quy trình đánh giá còn rất xa so với ước muốn xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế. Vì vậy, cải cách triệt để, tận gốc rễ là một điều hết sức thiết yếu.

Bên cạnh đó, cuộc cạnh tranh giữa Viện Hàn lâm Khoa học TQ và các trường đại học đang ngày càng mạnh mẽ. Viện Hàn lâm được bảo đảm quyền cấp bằng sau đại học, và mục đích của họ là đạt được 50.000 nghiên cứu sinh trước năm 2020. Hơn nữa, họ còn có ngân sách bổ sung do Nhà nước Trung ương cấp bên cạnh ngân sách hoạt động thường xuyên. Bởi vậy khả năng cạnh tranh của họ trong những khoản tài trợ nghiên cứu chính và đáp ứng nhu cầu của đất nước sẽ tăng lên.

Dù các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ đang tìm cách trở thành đại học đẳng cấp quốc tế, họ đang chú ý nhiều hơn đến cạnh tranh trong nước thay vì cạnh tranh quốc tế để duy trì vị thế hiện tại và giành các nguồn lực cần thiết, điều này làm giảm sự tập trung trong những nỗ lực cạnh tranh quốc tế của họ.

3- Bài học Trung Quốc

Qua con đường của TQ và những thành tựu mà họ đạt được đã nêu tóm tắt trên đây, có thể nói, nhờ Nhà nước TQ có chính sách đẩy mạnh giáo dục đại học, TQ đã tiến một bước rất dài trong việc đại chúng hóa giáo dục đại học, và đã đạt được những thành tựu rất đáng kể. Tuy nhiên, kể từ khi Chính phủ TQ chính thức tuyên bố tham vọng có được những trường đại học đẳng cấp quốc tế vào năm 1998 đến nay, mười năm đã trôi qua cùng với những khoản đầu tư khổng lồ, khoảng cách của các trường đại học hàng đầu của TQ với những trường đẳng cấp quốc tế vẫn còn rất xa.

Năm 2005, Tạp chí McKinsey đã thực hiện một nghiên cứu về thị trường lao động TQ và kết luận, thật nghịch lý là TQ có hàng triệu người tốt nghiệp đại học nhưng lại thiếu nhân tài. Diana Farrell và Andrew J. Grant ước lượng chỉ khoảng 10% các kỹ sư trẻ người TQ có những kỹ năng thích hợp cho công việc trong các doanh nghiệp đa quốc gia; số còn lại không có đủ kỹ năng ngôn ngữ và những hiểu biết văn hóa cần thiết để thực hiện chức phận của mình trong những công việc có tính cạnh tranh cao. Truyền thống giáo dục của TQ là một trong những thủ phạm gây ra vấn đề này. Điển hình là lối dạy thuần túy thuyết giảng và lối học ghi nhớ: các giáo sư thường đòi hỏi sinh viên phải nhớ bài giảng và những nội dung trong sách giáo khoa rồi lặp lại trong các bài thi thay vì phải phát triển sự hiểu biết thấu đáo và tinh thần sáng tạo. Đã vậy, sinh viên ngành kỹ thuật còn phải chịu đựng những chương trình đào tạo đã quá lạc hậu. Có rất ít cơ hội làm việc cùng nhau, cũng như không có dịp cho họ trải nghiệm thế giới thực, và những vị trí thực tập thì không đủ cho tất cả mọi người. Đặt những nhân tố này cùng nhau, các nhà phân tích McKinsey kết luận rằng TQ sẽ không thể chuyển sang công nghiệp dịch vụ trong thập kỷ tới và như vậy cũng không thể cạnh tranh ở mức toàn cầu về công nghệ kỹ thuật cao trong tương lai gần7.

Hiển nhiên là các học giả TQ biết rõ họ phải nỗ lực đẩy mạnh cải cách và tư duy phê phán. Một số trường hàng đầu đã xây dựng chương trình giáo dục tổng quát ở bậc đại học nhằm đem lại cho sinh viên một nền tảng kiến thức rộng rãi hơn, mặc dù những nỗ lực này chưa đủ để đem lại những kết quả mong đợi vì bị cấy ghép vào một hệ thống thi cử khắt khe và cứng nhắc, một hệ thống vẫn còn đang ban thưởng cho sự học vẹt! Điều này chắc chắn cũng sẽ phải thay đổi trong một vài năm tới đây.

Đó là nói về giáo dục đại học TQ nói chung, còn nói riêng về giấc mộng ĐHĐCQT của TQ, thì lý do chính khiến TQ chưa thể lọt vào danh sách các trường hàng đầu trên thế giới là do TQ thiếu những tài năng đỉnh cao trong khoa học cơ bản đủ để sánh bằng thành tích của các trường ĐHĐCQT. Một số nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo các trường tỏ ra hết chịu đựng nổi cuộc tranh luận vẫn đang tiếp diễn về vấn đề ĐHĐCQT. Người ta bắt đầu nhận ra rằng xây dựng một ĐHĐCQT là một quá trình lâu dài chứ không phải là kết quả tức thời của một ước muốn và một số tiền đầu tư “một cục” khổng lồ. Thực ra, nhiều người thậm chí còn hoài nghi về khả năng liệu TQ có thể thực sự xây dựng được một ĐHĐCQT hay không, bởi vì những trường được công nhận rộng rãi là một mẫu mực về ĐHĐCQT như Oxford ở Anh hay Harvard và Yale ở Hoa Kỳ đều đã phải trải qua hàng thế kỷ phát triển. Chẳng những thế, những trường này đều đã rất tiến triển trong một môi trường chính sách khác và hình thức khác của cơ cấu quản lý đại học.

Thử đi tìm nguyên nhân

Nhà nước TQ và giới học giả, giới quản lý giáo dục đại học có một quyết tâm hết sức to lớn trong việc xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế, và đã dành nhiều nguồn lực tài chính lớn lao cho kế hoạch này, nhưng dường như kết quả đạt được vẫn chưa được như họ mong đợi.

TQ đang tập trung vào khoa học tự nhiên và kỹ thuật, những lĩnh vực phản ánh nhu cầu phát triển của quốc gia, nhưng đồng thời cũng phản ánh sự thiên vị của một hệ thống chính trị độc tài vốn ngăn cấm những phát biểu tự do. Khoa học xã hội và nhân văn thường liên quan tới những ý tưởng phê phán về chính trị, kinh tế và lịch sử. Nhà nước ít nhấn mạnh đến việc đạt đẳng cấp quốc tế trong những môn này. Tuy vậy, nhiều người TQ cũng nhận định –thường là một cách gián tiếp- rằng việc hạn chế những cuộc tranh luận khoa học có thể cản trở những nỗ lực tạo ra các trường ĐHĐCQT.

Lin Jianhua, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bắc Kinh nhận định: “Hiện nay, tôi cho rằng chẳng có trường đại học nào ở TQ có một bầu không khí có thể so sánh được với các trường đại học lâu đời ở phương Tây- Harvard hay Oxford- về mặt tự do diễn đạt ý tưởng” (…)Chúng ta cố gắng đem lại cho sinh viên một môi trường tốt hơn, nhưng để có thể làm được điều đó, cần có thời gian. Không phải là 10 năm, mà là một hay hai thế hệ”8.

Ge Jianxiong, một nhà địa lý lỗi lạc ở Đại học Phúc Đán, nói rằng văn hóa Trung Hoa đòi hỏi những kết quả nhanh chóng, điều này có thể xói mòn việc nghiên cứu. “Ở TQ, các dự án thường ngắn hạn, thông thường là 3 năm. Sau đó người ta đòi hỏi phải có các ấn phẩm đồ sộ. Trong những cuộc nghiên cứu thực sự, cần phải cho các nhà khoa học sự tự do cần thiết để có được kết quả tốt, chứ không chỉ là kết quả mà người ta muốn”. Trong khi đó, cơ chế bảo đảm quyền tự do học thuật ở phương Tây cho phép một nhà khoa học có thể chẳng có một bài nghiên cứu nào được công bố trong hàng chục năm, để rồi đến năm thứ mười chẳng hạn, thì công bố một bài báo đưa ra cách giải quyết cho những câu hỏi đã tồn tại hàng trăm năm nay mà chưa có lời đáp!

Ge bổ sung thêm những khó khăn của giáo dục khi nó luôn luôn được coi là công cụ của chính trị. Điểm yếu lớn nhất, như nhiều nhà khoa học TQ đã cho biết, là sự thiếu vắng tự do học thuật. Yang, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Phúc Đán, cảnh báo rằng nếu không xây dựng được một bầu không khí đúng đắn, những bộ óc vĩ đại ở nước ngoài có thể sẽ chỉ đến TQ một hay hai năm là tìm đường rút vì bực bội.

Gong Ke, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Thanh Hoa, nói rằng các trường đại học “có bổn phận bảo đảm cho tự do học thuật”.

"Chúng tôi có những giáo sư dạy ở đây, người nước ngoài, đang dạy rất khác với quan điểm của chính phủ TQ”. Ông nói thêm: “Có những người phê phán mạnh chính sách kinh tế của TQ”.

Li Ao, một nhà văn Đài Loan nổi tiếng, đã kêu gọi mở rộng tự do học thuật và độc lập với Nhà nước trong một diễn văn đọc hồi tháng 9 năm 2005 tại Đại học Bắc Kinh. Ngày hôm sau, sau bản tin được đưa ra dưới áp lực chính thống khá nặng nề, ông đã trình bày một phiên bản được thuần hóa hơn nhiều tại Đại học Thanh Hoa, nơi mà các phương tiện truyền thông được kiểm soát rất chặt chẽ.

Chính phủ TQ cũng kiểm duyệt các bản tin trên mạng của các trường đại học và của các nhóm thảo luận, và gần đây đã ngăn chặn sinh viên Trường Đại học Trung Sơn ở Quang Du nói chuyện tự do với những quan chức HongKong được mời đến viếng thăm trường.

Sinh viên ở đây không được khuyến khích để thử thách quyền lực hay tri thức. Điều này giải thích vì sao TQ chưa từng bao giờ có giải Nobel trong bất cứ lãnh vực nào. Điều cần nhất bây giờ, như các nhà khoa học giỏi nhất của TQ nói, và nhấn mạnh, là những bộ óc độc đáo.

Điều vĩ đại nhất mà TQ đã làm được trong 20 năm qua là đưa 200 triệu người thoát cảnh đói nghèo. Xu nói: “Tuy vậy, TQ vẫn chưa nhận ra rằng nếu muốn tiến lên một trình độ mới, thì phải hiểu rằng các con số là không đủ. Chúng ta cần một cuộc cách mạng mới để đưa chúng ta ra khỏi nền văn hóa mà giải thưởng là trở thành quan chức Nhà nước. Chúng ta phải học cách ban thưởng cho những đổi mới thực sự, cho những tư tưởng độc lập, và những công trình học thuật chính cống!”9

Phải chăng tình trạng thiếu vắng tự do học thuật là nguyên nhân khiến các trường hàng đầu ở TQ chưa thể đi xa hơn được, dù quyết tâm của Chính phủ rất lớn và đầu tư cũng không nhỏ? Liệu điều này có thể giải thích những hạn chế của hệ thống giáo dục đại học TQ, khi tự do học thuật không phải là vấn đề đối với các bộ môn khoa học kỹ thuật và ứng dụng, những lĩnh vực mà Nhà nước TQ rất khuyến khích?

Có lẽ câu trả lời phải tìm không chỉ trong những nhân tố về thể chế, mà còn trong những nhân tố văn hóa. Nền giáo dục TQ chưa bao giờ thoát ly hoàn toàn truyền thống Khổng giáo, nơi người ta đi học là để tiếp thu những chân lý có sẵn của thánh hiền, chứ không phải để thử thách hay cọ xát với những tri thức đã có. Điều này tất nhiên ảnh hưởng lớn đến phương pháp dạy và học trong nhà trường và không khuyến khích tinh thần phản biện, tinh thần tự do sáng tạo, là những nhân tố cốt yếu của đời sống đại học, và là những nhân tố quyết định đối với năng lực nghiên cứu.

4- Kết luận

Thực tiễn xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế ở Trung Quốc cho chúng ta thấy quyết tâm của Nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng, vì nó giúp mang lại những nguồn lực cần thiết cho các trường để thực hiện nâng cao chất lượng hoạt động. Tuy nhiên, chỉ nguồn lực thôi thì không đủ để tạo ra được những thay đổi mong đợi. TQ đã đi từ Dự án 211 đến Dự án 985 theo hướng tập trung tăng cường nguồn lực tài chính cho một số ít trường trọng điểm, rồi lại tiếp tục đến dự án 111 theo hướng “mua” người tài từ bên ngoài về để tăng nhanh số lượng công bố khoa học và thành tích nghiên cứu, nhưng kết quả vẫn không được như họ mong muốn, bởi vì đó vẫn chỉ là những giải pháp đắp vá. Phải chăng TQ đã nhắm đến những nhân tố bề ngoài, những thứ ở phần ngọn, những biểu hiện của kết quả hoạt động chẳng hạn số lượng công bố khoa học và trích dẫn, thay vì phải nhắm vào những nhân tố bên trong, những thứ có ý nghĩa cốt lõi và là nguyên nhân của thành công, chẳng hạn những chính ách thực sự giải phóng năng lực của con người? Phải chăng những chính sách ấy chính là điều mà TQ cần, để tạo ra một tầng lớp trí thức có thể sáng tạo ra những giá trị tinh thần thực sự, vì chỉ với những giá trị ấy, trường đại học mới thực sự là nơi kiến tạo tri thức, vun trồng tài năng và thực hiện được sứ mệnh của nó? Xét cho cùng, thứ hạng trong bảng xếp hạng chỉ quan trọng nếu nó phản ánh được mức độ đạt được sứ mạng mà một trường đại học phải thực hiện. Đó là sứ mạng làm động lực thúc đẩy sự phát triển của từng cá nhân, của cả cộng đồng, của từng quốc gia và sau hết là sự tiến bộ của toàn thể nhân loại.

---------
1 Nian Cai Liu, 2005. Research Universities in China: Differentiation, Classsification, and Future World-Class Status

2 Nguồn: QS Quacquarelli Symonds (www.topuniversities.com)

3Institute of Higher Education, Shanghai Jiao Tong University 2005. Academic ranking of world universities-2005.http://ed.sjtu.edu.cn/ranking.htm.

4 Cheng, Y., S. X. Liu. 2005. When will Chinese universities be able to become world – class? Journal of Higher Education 26 (4) : 1-6

5 Jiang, Y., P. 2004. The origins of doctoral degrees of faculty members in world-class universities. Jiangsu Gaojiao no. 4: 106-09.

6 Nian Cai Liu, 2005. Bài đã dẫn

7 Kathryn Mohrman 2005. Nguồn: http://www.saisjhu.edu/pubaffairs/publications/saisphere/winter06/

8 Howard W. French 2005. Nguồn: The International Herald Tribune, 27 October 2005

9 Howard W. French 2005. Bài đã dẫn

 
Phạm Thị Ly & Vũ Thị Phương Anh (theo Tia Sáng)
Cập nhật ( 27/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“Đặt ra kế hoạch thật tốt, thật sát là rất cần, nhưng đó chỉ là bước đầu, kế hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo sát sao phải là 30 phần- có như thế mới hoàn thành kế hoạch”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com