|
Ảnh: cnn.net |
Việt Nam phụ thuộc xuất khẩu?
Kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá mức vào xuất khẩu - nhiều chuyên gia kinh tế có quan điểm như thế.
Họ cho rằng nhiều năm qua nước ta chỉ chú ý đẩy mạnh xuất khẩu, mải mê mở rộng thị trường ngoài nước mà bỏ quên thị trường trong nước. Mức độ phụ thuộc vào thị trường thế giới phản ánh qua tỉ lệ xuất khẩu của Việt Nam quá lớn so với GDP (gần 70%), thành thử chừng nào mà kinh tế thế giới, đặc biệt là Mỹ chưa giải quyết được thì chừng đó kinh tế Việt Nam không thể trở lại tình trạng phát triển bình thường.
Thực ra, không thể chỉ dựa vào tương quan giữa kim ngạch xuất khẩu với GDP để xét đoán mức độ phụ thuộc của nền kinh tế vào thị trường nước ngoài.
Để làm rõ mức độ phụ thuộc của nền kinh tế vào xuất khẩu, cần làm rõ một con số khác: khi chúng ta xuất khẩu được lượng hàng hóa trị giá 65 tỉ USD, thì phần giá trị mới được tạo thêm trong đó là bao nhiêu, và chiếm tỉ trọng bao nhiêu trong tổng GDP của toàn bộ nền kinh tế, ước tính khoảng 85 tỉ USD năm?
Ví dụ, ta nhập khẩu nguyên vật liệu trị giá 10 tỉ USD, sau đó sản xuất ra hàng hoá và xuất đi, thu về 11 tỉ USD, thì 1 tỉ USD ở đây là giá trị mới do ta tạo ra, chính là GDP của khu vực xuất khẩu.
Hiện không có số liệu thống kê chính xác nên chỉ có thể phỏng đoán, rằng nếu loại bỏ phần đóng góp của việc xuất khẩu dầu thô thì con số còn lại là không lớn lắm, do chỗ hầu hết các ngành sản xuất xuất khẩu của ta đều tạo ra giá trị gia tăng rất thấp, điển hình như dệt may, da giày, đóng tàu.
Thử giả thiết các ngành đó tạo ra giá trị mới là 10% xem sao. Lấy kim ngạch xuất khẩu 65 tỉ USD, trừ đi kim ngạch xuất khẩu dầu thô, rồi nhân số còn lại với 9%, ta sẽ ra con số khoảng 5 tỉ USD gì đó.
|
Ảnh: energytribune.com.
|
Như thế, phần GDP do xuất khẩu đóng góp là khoảng 5 tỉ USD, chỉ chiếm 6% trong GDP mà thôi.
Nói cách khác, khu vực kinh tế phục vụ thị trường nội địa tạo ra hơn 90% GDP, tức là nền kinh tế của ta thực chất không đến nỗi lệ thuộc quá mức vào thị trường nước ngoài.
Chỉ khi nào GDP do khu vực sản xuất hàng xuất khẩu tạo ra chiếm một tỉ trọng khá lớn trong GDP, ví dụ 30 – 40%, lúc đó mới có thể nói rằng nền kinh tế quá phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Điều đó có thể xảy ra ngay cả khi kim ngạch xuất khẩu không lớn lắm so với GDP, nếu các nhà sản xuất chỉ sử dụng nguyên vật liệu trong nước chứ không dùng nguyên vật liệu nhập khẩu (như Trung Quốc chẳng hạn).
Trong trường hợp ngược lại, nếu một nước nhập khẩu hầu hết nguyên vật liệu, gia công tí ti, sau đó đem xuất khẩu (như cái cách Vinashin đóng tàu biển), thì kim ngạch xuất khẩu có thể rất lớn (do đầu vào, tức kim ngạch nhập khẩu, quá lớn), nhưng tỉ trọng GDP do xuất khẩu mang lại không lớn. Đây là trường hợp Việt Nam.
Nhiều chuyên gia kinh tế vẫn cho rằng Trung Quốc hơn hẳn Việt Nam ở điểm đó. Cùng một cái áo, phải trải qua 10 công đoạn sản xuất, thì Việt Nam chỉ thực hiện công đoạn cuối là may, trong khi Trung Quốc thực hiện tất cả 10 công đoạn. Tuy nhiên, đến lúc khủng hoảng nổ ra, thì điểm mạnh của Trung Quốc lại biến thành tử huyệt. Bị cắt đơn hàng, Việt Nam chỉ bị ảnh hưởng tới doanh nghiệp may mặc, trong khi Trung Quốc bị ảnh hưởng tới toàn bộ 10 công đoạn. Dễ hiểu vì sao đội quân thất nghiệp của Trung Quốc lớn khủng khiếp đến như vậy.
Nếu GDP của khu vực sản xuất hàng xuất khẩu chỉ chiếm 6% tổng GDP, thì có thể suy đoán là số lượng lao động của khu vực này cũng chỉ chiếm tỷ lệ tương đương trong tổng số lao động của toàn nền kinh tế. Đây là số lao động bị ảnh hưởng trước tiên và trực tiếp từ cuộc khủng hoảng; sau đó mới đến các khu vực khác theo hiệu ứng dây chuyền.
Thành thử, trong trường hợp năm 2009 kim ngạch xuất khẩu của ta giảm trầm trọng, ví dụ 50% (không tính xuất khẩu dầu thô), thì GDP chỉ giảm tương ứng là 3%, chứ không phải 35%.
Cách nhìn trên, nếu đúng đắn, sẽ giúp ta bình tĩnh hơn, bớt bi quan hơn về ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tới Việt Nam, từ đó có các biện pháp đối phó phù hợp.
GDP và việc làm – đâu nhân đâu quả?
"Theo các chuyên gia kinh tế, về lí thuyết, GDP giảm 2 phần trăm thì tỉ lệ thất nghiệp sẽ tăng một điểm phần trăm"; "Nếu năm 2009 tốc độ tăng trưởng GDP không đạt 6.5% thì sẽ không đảm bảo đủ việc làm cho người lao động"; "Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), nếu GDP tăng 1% thì sẽ có 0,33-0,34% lao động có việc làm. GDP của Việt Nam giảm từ 8,5% năm 2007 xuống còn khoảng 6,5% của năm 2009 thì sẽ có khoảng 0,65% lao động bị mất việc làm " v.v... là những nhận định xuất hiện liên tục trên báo chí gần đây.
Theo những cách diễn đạt đó thì dường như tốc độ tăng trưởng GDP là nguyên nhân, còn thất nghiệp/ việc làm là hệ quả: tốc độ tăng trưởng tăng sẽ tạo thêm việc làm, còn tốc độ tăng trưởng giảm sẽ làm giảm sút việc làm.
Quả thực rất khó hình dung, làm sao GDP lại có thể tăng trưởng (hoặc suy giảm) trước, rồi mới tạo ra việc làm (hoặc làm tăng thất nghiệp) sau?
Cái gì đã khiến GDP tăng hay giảm?
GDP, tức giá trị mới được tạo ra trong nền kinh tế, không tự dưng từ trên trời rơi xuống. Nó bao giờ cũng là do người lao động tạo ra, dĩ nhiên cùng với các yếu tố sản xuất khác.
Nếu nền kinh tế thu hút thêm lao động, tức là có thêm việc làm, thì chính những người lao động bổ sung này sẽ tạo ra lượng GDP bổ sung. Trong trường hợp ngược lại, nếu thất nghiệp gia tăng, số người lao động giảm đi, thì GDP sẽ bị giảm theo. Như thế mức độ khiếm dụng hay toàn dụng lao động phải là cái có trước, là nguyên nhân, còn tốc độ tăng trưởng GDP là cái có sau, là hệ quả.
Có lẽ vì hai cái này luôn đi cùng nhau nên người ta mới lẫn lộn mối quan hệ nhân - quả ở đây chăng?
Chuỗi liên hệ nhân quả đúng ra phải là thế này: tăng (giảm) đầu tư -> tăng (giảm) việc làm -> tăng (giảm) GDP. Nếu số việc làm tăng 1% thì GDP có khả năng tăng 2%, chứ không phải ngược lại.
Đây không chỉ thuần túy là vấn đề chữ nghĩa. Cách đặt vấn đề sai dễ khiến cho các cơ quan có trách nhiệm soạn thảo chính sách chống suy thoái kinh tế và thất nghiệp bị con số 6.5% tăng trưởng GDP thu hút, tìm mọi cách giữ cho GDP tăng đúng theo con số này để nhờ đó giải bài toán thất nghiệp (mặc dù chưa biết giữ bằng cách nào).
Trong khi vấn đề cần đặt ngược lại hoàn toàn: nước ta có nguy cơ xuất hiện đội quân thất nghiệp cả triệu người, vậy vấn đề cấp bách hiện giờ là làm sao tạo việc làm cho một triệu người này. Còn chuyện một triệu người lao động đó có việc làm sẽ tạo ra GDP bổ sung là bao nhiêu, tăng trưởng là 6 hay 7%, thì chỉ là hệ quả ăn theo, nếu nhiều thì tốt mà ít thì cũng không sao.
Thử đưa ra một đề xuất tạo việc làm tối đa với nguồn vốn tối thiểu
|
Ảnh: libcom.org.
|
Đặt lại vấn đề cho ngay ngắn rồi, giờ đến giải quyết vấn đề: tạo việc làm cho một triệu con người thế nào đây?
Đã có vô số ý kiến của các chuyên gia xung quanh chuyện làm sao sử dụng hiệu quả nhất gói kích cầu, nhưng tất cả vẫn chỉ dừng ở những kiến nghị chung chung. Chưa thấy ai đưa ra một giải pháp thực sự cụ thể, khả thi.
Số tiền của gói kích cầu chỉ có hạn, chẳng thể ban phát lung tung.
Nhưng tiền mới chỉ là một khía cạnh của vấn đề. Còn có những khía cạnh khác, chẳng hạn :
-
Vấn đề thực sự khiến các doanh nghiệp đau đầu hiện giờ không hẳn là vốn, mà là đầu ra cho sản phẩm, đặc biệt là các doanh nghiệp chuyên làm hàng xuất khẩu. Chính vì không có đầu ra nên họ mới phải ngưng sản xuất, cho công nhân nghỉ việc. Vậy nếu dùng tiền kích cầu bù lãi suất cho các doanh nghiệp này, thì mang lại hiệu quả gì?
-
Với các doanh nghiệp không có khó khăn về đầu ra, người lao động vẫn đang có việc làm, thì cần gì phải bơm vốn hay bù lãi suất cho họ ?
-
Số tiền ít ỏi, cho nên cần dồn cho các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động và không thâm dụng vốn; nhưng lấy gì đảm bảo rằng hàng hóa do khu vực này làm ra sẽ được tiêu thụ trong hoàn cảnh đang dư cung thiếu cầu? Hay nó càng làm tình hình căng thẳng thêm?
Để tránh lặp lại việc kiến nghị chung chung, người viết xin thử đưa ra một đề xuất cụ thể như sau:
Một tỉ đô la, hay 17,000 tỉ đồng của gói kích cầu, nhiều người cho rằng quá nhỏ bé, giỏi lắm thì chỉ đủ làm vốn mồi. Đó là vì người ta nghe quá nhiều về các dự án khổng lồ ngốn hàng chục, hàng trăm ngàn tỉ đồng, nên mới thấy nó nhỏ. Thực ra, nó không nhỏ chút nào.
Nếu Nhà nước đứng ra làm người thuê mướn lao động, trả cho một triệu người đó mức lương một triệu đồng/người/tháng, thì mỗi tháng Nhà nước chi hết 1,000 tỉ đồng. Như vậy số tiền kích cầu 17,000 tỉ đồng, nếu là tiền tươi thóc thật, sẽ đủ trả lương cho một triệu con người trong vòng một năm rưỡi.
Vấn đề chỉ còn là: thuê những người đó làm công việc gì đây để sản phẩm do họ làm ra đảm bảo tiêu thụ được, chứ không ế chỏng ế chơ, đâm ra lãng phí, hoặc khiến tình trạng dư cung thêm căng thẳng, làm hại các doanh nghiệp và người lao động khác?
Ví dụ, có thể thuê họ trồng rừng và trồng cây ở các đô thị.
Trồng cây là công việc đòi hỏi rất ít vốn đầu tư; mỗi người lao động chỉ cần cái cuốc, thùng tưới, kèm thêm cây giống, phân bón là đủ. Công việc trồng cây chủ yếu đòi hỏi sức người là chính.
Rừng hẳn nhiên là thứ hàng hoá nước ta đang thiếu trầm trọng, và sản phẩm của công việc trồng rừng chắc chắn được tiêu thụ 100% - dù là sau này khai thác gỗ, hay cứ để mặc cho rừng sinh sôi nảy nở, phủ kín đồi hoang núi trọc, làm xanh mát các đô thị đang ngột ngạt. Cả đất nước, cả thế hệ hôm nay lẫn mai sau là người tiêu thụ loại sản phẩm này chứ không phải riêng ai đó.
Như thế, Nhà nước không phải lo bỏ ra ngay lập tức mấy chục ngàn tỉ đồng, mà mỗi tháng chỉ phải bỏ ra 1,000 tỉ đồng trả lương, và vài trăm tỉ đồng mua cây giống, phân bón, có lẽ không quá căng thẳng đối với ngân sách.
1,000 tỉ đồng trả lương là kích cầu trực tiếp, số tiền này sẽ được người lao động dùng để mua sắm. Vài trăm tỉ đồng mua cây giống, phân bón kia cũng là kích cầu trực tiếp nốt. Từ số tiền đó thể nào Nhà nước cũng thu lại được một phần từ thuế để quay vòng tiếp, nhưng cái đó không quan trọng.
Quan trọng là đã tạo việc làm và thu nhập cho một triệu con người. Đây mới gọi là “kích cầu” đúng nghĩa.
Không biết việc trồng cây có được tính vào GDP hay không? Nghe đâu có kiểu tính “GDP xanh” kia đấy. Nhưng GDP tăng bao nhiêu % có lẽ cũng không quan trọng.
Suốt mấy chục năm qua công việc phá rừng chúng ta làm rất tốt, còn việc trồng rừng thì ngược lại. Sao không nhân cơ hội này mà làm cái công việc cực kì quan trọng đó?
Sau một năm rưỡi, nếu tình hình kinh tế ổn ổn trở lại, cây non cũng đã lớn, lúc đó có thể rút bớt số người chăm sóc, chuyển giao rừng cây cho các địa phương, lâm trường, quân khu quản lí. Người lao động lại quay trở về công việc khi xưa của mình. Đất nước có thêm mấy triệu hecta rừng cây xanh mướt chỉ sau một mùa khủng hoảng kinh tế.
Quyết định rồi, thì cần nhanh chóng bắt tay vào tổ chức thực hiện. Tình hình khẩn cấp đôi khi đòi hỏi những biện pháp hơi khác thường một chút.
|