Báo cáo của một nhóm chuyên gia Havard viết năm 2008: “Sử dụng mọi thước đo khách quan, dường như nền KH&CN của VN là một thất bại”. Trong bài viết dưới đây, TS Phạm Đức Chính mổ xẻ nguyên nhân yếu kém của khoa học Việt Nam. Bài phản ảnh quan điểm của tác giả.
Từ một nền khoa học khập khễnh trong thời chiến
Từ thời gian chiến tranh và xây dựng CNXH ở miền Bắc, được tiếp nối bởi giai đoạn đầu xây dựng đất nước sau thống nhất, mỗi năm chúng ta chọn (chủ yếu qua thi tuyển) hàng ngàn học sinh đi du học ở các nước Đông Âu. Nhìn chung các lưu học sinh đã được lựa chọn của chúng ta học tốt, và khi tốt nghiệp trình độ cũng không kém mức chung của bạn. Những kỹ sư, bác sĩ thực hành này, khi trở về nước, đã tạo thành lực lượng khoa học kỹ thuật nòng cốt cho công cuộc bảo vệ, xây dựng và công nghiệp hóa đất nước.
Nhà nước cũng chú trọng xây dựng lực lượng khoa học cao cấp qua con số các tiến sĩ, tiến sĩ khoa học (TS, TSKH) đã được đào tạo ở các nước Đông Âu. Lực lượng này được kỳ vọng có khả năng thực hiện những nghiên cứu khoa học trình độ cao và là đầu tàu cho khoa học và tiến trình hiện đại hóa nước nhà. Tuy nhiên, khi đánh giá tiềm lực khoa học công nghệ của mình qua con số các TS và TSKH này thì đã có không ít ngộ nhận.
Để bảo vệ luận án TS (phó tiến sĩ - PTS cũ) ở Liên Xô, nghiên cứu sinh (NCS) phải có kết quả nghiên cứu, thường tối thiểu là 2 bài báo đăng trên các tạp chí khoa học có phản biện nghiêm chỉnh của bạn. Bên cạnh những TS đạt chuẩn, một số TS của ta trình độ còn non, phải dựa nhiều vào thầy, và do áp lực của trình độ và thời gian, đã được các nước bạn chiếu cố.
Ở mức cao hơn, nhiều TSKH (TS cũ) của chúng ta chưa đạt được tới trình độ chuẩn mực tương ứng của nước bạn. TSKH của Liên Xô phải có được những bài báo khoa học mạnh, đứng tác giả độc lập, và thường phải có tới vài chục bài báo đăng các tạp chí khoa học có uy tín. Trong khi đó số bài báo đăng tạp chí có uy tín của số đông các TSKH của chúng ta chỉ đếm trên đầu ngón tay, và phần nhiều vẫn phải dựa vào thầy.
Nhiều TSKH trở về nước, tách khỏi thầy, đã không viết nổi một bài báo riêng đăng tạp chí quốc tế chuẩn mực - thể hiện rõ cái tầm chưa tới của họ. Đáng buồn hơn, vào giai đoạn nhộm nhoạm ở Đông Âu những năm 90, một số nhà khoa học của ta đã kiếm được bằng TSKH dù họ có rất ít, thậm chí không có nổi lấy một bài báo đăng tạp chí khoa học quốc tế nghiêm chỉnh (có thể nói, chỉ ở mức, hoặc thua cả cái chuẩn PTS của thời Liên Xô ổn định).
Trên trường quốc tế, bảo vệ luận án TS chỉ là bước đầu tiên trên con đường sự nghiệp của một nhà khoa học chuyên nghiệp. Tiến hành nghiên cứu khoa học nghĩa là họ phải có được các bài báo khoa học được phản biện độc lập để được đăng trên các tạp chí quốc tế chuyên ngành có uy tín, hay bằng sáng chế, dù nhà khoa học làm việc ở đại học hay viện nghiên cứu, trên lĩnh vực lý thuyết, thực nghiệm, hay ứng dụng.
Công bố khoa học buộc nhà khoa học phải thường xuyên cập nhật thông tin để duy trì và nâng cao trình độ, chịu sự giám sát khách quan, lao động sáng tạo đóng góp cho tiến bộ của khoa học công nghệ. “Publish or Perish” (công bố hay lụi tàn) là thực tế mà mỗi nhà khoa học chuyên nghiệp phải đối mặt.
Hệ lụy từ sự khập khễnh
Trong khi đó nhiều TS, TSKH của chúng ta trở về nước, phần vì trình độ còn non, phần vì hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh và thời kỳ bao cấp trì trệ kéo dài, đã chỉ duy trì được những hoạt động khoa học tầm thấp (trừ một số nhỏ các nhà khoa học), công bố trên những tạp chí quốc nội được lập ra kém xa chuẩn mực quốc tế. Đứng trên quan điểm quốc tế, họ đã không còn giữ được trình độ của mình tương xứng với bằng cấp quốc tế có được và đã tàn lụi về mặt chuyên môn.
Thế nhưng, một số người trong số họ may mắn có được các bằng cấp cao sớm nhất và có thiên hướng hoạt động quản lý hành chính đã nắm những vị trí được gọi là “đầu ngành” và ngự trị cho tận tới khi đã về hưu, và thậm chí cả chọn người kế tục, trong hệ thống chức sắc khoa học cứng nhắc (thiếu cạnh tranh về chuyên môn) của chúng ta. Họ giữ quyền phân chia và chủ trì các đề tài nghiên cứu với nhiều bổng lộc, cho ra lò nhiều TS nội dưới xa chuẩn mực quốc tế. Họ cũng xây dựng nên các chức danh và chuẩn mực cho khoa học nước nhà, nặng về hình thức và xa rời các tiêu chuẩn quốc tế.
Một số chức trách khoa học của ta được mời vào một số viện hàn lâm khoa học hay đứng chung tên giải thưởng với các đàn anh quốc tế, như một cử chỉ hữu nghị hay mang tính đại diện cho VN. Điều đó dẫn tới hiểu nhầm là một số lãnh đạo khoa học của chúng ta đã đạt tới trình độ đỉnh cao quốc tế, tới hàng viện sĩ (VS).
Các công việc cụ thể của các kỹ sư, bác sĩ thực hành dễ được nhận thấy hơn với mọi người dân bình thường. Còn các công trình nghiên cứu khoa học trình độ cao theo chuẩn mực quốc tế, các bằng sáng chế và sản phẩm mới của các GS, PGS, TS, TSKH, VS, các nhà khoa học “đầu ngành” của chúng ta là gì, ở ta thường tránh đề cập tới. Nhưng với quốc tế thì đó lại là tiêu chí thông thường để họ đánh giá trình độ chuyên môn thực của các nhà khoa học, chứ không phải là các hình thức danh đã nêu.
Mấu chốt sự yếu kém của khoa học Việt Nam chính là từ một số “chức sắc khoa học đầu ngành có quyền và lợi nhưng yếu về năng lực chuyên môn (theo chuẩn mực khách quan quốc tế), chứ không phải là vấn đề đầu tư của Nhà nước cho KH&CN chưa thỏa đáng.
Một số do năng lực khoa học vẫn còn non (dù đã có bằng cấp hình thức cao TSKH) khi được đặt lên vị trí lãnh đạo, số khác có năng lực nhưng cũng thoái hóa dần theo thời gian do bận rộn với chức quyền và không chịu sức ép về chuyên môn.
Tư duy phong kiến “học hành đỗ đạt cao để ra làm quan hưởng vinh hoa phú quý” đã góp phần tạo nên nhân cách của họ. Tư tưởng “một người làm quan cả họ được nhờ” đã thúc bách họ nhận vào các cơ quan khoa học những người thân quen yếu năng lực chuyên môn để hưởng biên chế bao cấp nhà nước, trao cho họ và giữ cho bản thân những xuất đi nước ngoài béo bở được bao cấp nhà nước hay viện trợ.
Điều đó góp phần dẫn tới chảy máu chất xám, cùng sự tụt dốc về chất lượng của các cơ quan khoa học với gánh nặng biên chế phình to dồn cho Nhà nước.
Viện KH&CN Việt Nam khi mới thành lập cuối những năm 70 đầu 80 ưu tiên nhận chủ yếu là các cán bộ trẻ giỏi được đào tạo từ nước ngoài, nhưng nay như ở Viện Cơ học - số người có khả năng nghiên cứu công bố quốc tế chỉ đếm được trên đầu ngón tay và không có những người trẻ có năng lực. Viện hiện nay không hấp dẫn và cũng không hề có chính sách hấp dẫn cuốn hút các nhà khoa học trẻ giỏi - có thể nhìn thấy trước một cái đích chết cho một cơ quan nghiên cứu khoa học nếu không có những thay đổi căn bản trong thời gian tới.
400 triệu USD/năm nhưng chỉ có gần 5.000 công bố quốc tế
Trên thực tế quốc tế, tuy số bài báo và sáng chế không phản ánh hết các hoạt động KH&CN của một quốc gia nhưng lại phản ánh được trình độ KH&CN và cả triển vọng vươn lên của nước đó một cách khá chính xác.
Trong 10 năm từ 1997 đến 2007, đã có 4.667 bài báo khoa học có tác giả là người Việt Nam được công bố quốc tế. Các bài báo này thưộc nhiều lĩnh vực khác nhau từ Toán, Lý, Hóa, Dược, Kỹ thuật, Kinh tế, Môi trường… cho đến khoa học xã hội, khoa học máy tính, chứ không phải chỉ các lĩnh vực lý thuyết như ngụy biện của một số người ở ta.
Các công bố quốc tế của Việt Nam là rất yếu, chỉ cỡ 1/3 con số tương ứng của Mã Lai (trong khi số dân nước ta lớn hơn 3 lần số dân Mã Lai), 1/5 số bài của Thái Lan, dưới 1/11 của quốc đảo Singapore, 1/45 của Hàn Quốc, 1/110 của Trung Quốc (số dân VN bằng 1/16 TQ), và 1/700 của Mỹ.
Xét riêng về công bố quốc tế từ nội lực (tự ta làm được) – sự tụt hậu của chúng ta lại càng lớn hơn. Cụ thể, gần nửa số bài nghiên cứu khoa học của Thái Lan là do nội lực, trong khi tỷ lệ nội lực của chúng ta chỉ là 20%, còn lại là do hợp tác với quốc tế. Điều đó cho thấy các nhà khoa học của chúng ta vẫn còn phải dựa nhiều vào hỗ trợ quốc tế (về chuyên môn, phương tiện, hoặc tài chính).
Những kết quả nghèo nàn đó có được, dù cho Nhà nước luôn coi KH&KT là then chốt, dành cho 2% vốn ngân sách, nay đã vượt 400 triệu USD/năm.
Công bố quốc tế phản ảnh vị thế khoa học của Việt Nam
Có ý kiến cho rằng, trình độ KH&CN của VN có yếu cũng là tương ứng với trình độ phát triển của nền kinh tế. Nếu ta chia số bài báo và GDP của các nước theo đầu người, thì đúng là có một sự tương ứng tương đối như vậy. Tuy nhiên, một số nước (như các nước Đông Á) lại có chỉ số bài báo mạnh hơn chỉ số kinh tế tương ứng (so sánh giữa TQ và Thái Lan chẳng hạn, TQ có [chỉ số bài báo]/[chỉ số GDP] cùng tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn hẳn), và điều đó giúp họ có được tiềm năng nội lực và tốc độ tăng trưởng vượt trội so với các nước khác.
Báo cáo Harvard đã đặc biệt nhấn mạnh thành công kinh tế của các nước Đông Á (kể cả Singapore) nhờ có nền khoa học và giáo dục đi trước một bước, tương phản với khối Đông Nam Á tương đối trì trệ. Một ví dụ là tỷ lệ số kỹ sư trên đầu người của họ có những thời điểm nhiều gấp 2,5 lần con số tương ứng ở các nước có trình độ phát triển kinh tế tương đương.
Chúng ta có cơ sở để tin vào chất lượng thực của các kỹ sư đó khi nhìn vào số bài báo mà nền khoa học của họ đóng góp. Trái ngược lại, dù chúng ta có số GS và TS vượt trội so với các nước bạn Đông Nam Á, thì trình độ kinh tế - khoa học của chúng ta vẫn cứ là rất đuối so với họ.
So sánh tỷ lệ chỉ số bài báo (phản ánh thực lực chính xác hơn số GS, TS) và chỉ số kinh tế thì chúng ta thua kém ngay cả so với các nước Đông Nam Á như Thái Lan và Mã Lai, chứ chưa nói tới khối Đông Á mà chúng ta có nền văn hóa tương đồng và muốn phấn đấu noi theo. Đó là một thực tế rất đáng lo ngại. Tất nhiên với mỗi chỉ số để so sánh chúng ta đều có thể tìm ra có những nước khác ở Đông Nam Á hay châu Phi còn kém hơn chúng ta, rằng chúng ta chưa phải là bét, nhưng đó không phải là tư duy của người cầu tiến.
Không chỉ đợi tới những con số, chỉ số khách quan mà dư luận trong nước và quốc tế đề cập tới thời gian gần đây, những người trong cuộc chúng ta đều biết trực tiếp hay được nghe nhiều về công tác quản lý bất cập.
Những đầu tư KH&CN dàn trải, cho các địa phương, phòng thí nghiệm trọng điểm… không hiệu quả, các đề tài khoa học (kể từ đề tài trọng điểm kinh phí lớn cấp bộ ngành, Nhà nước) thực hiện xong rồi chỉ để xếp ngăn kéo, không sử dụng được và không được kiểm tra nghiêm túc (thậm chí tên nhiều đề tài nghe cũng không xuôi), làm giả ăn thật tràn lan, đạo văn, bằng cấp và chức danh rởm phổ biến.
Các họat động đặc quyền đặc lợi không được kiểm soát với sự ngự trị của một số cá nhân và nhóm gọi là học phiệt đứng trên mọi chuẩn mực khách quan, các cơ quan khoa học được bao cấp biên chế phình to nhưng hiệu quả thấp (người ta vẫn nói trong các viện nghiên cứu chỉ 30% là có làm việc), chảy máu chất xám, tác động yếu tới nền giáo dục và đào tạo của nước nhà …
Cần phải thẳng thắn thừa nhận rằng, các con số thống kê quốc tế, dù có thể chưa bao quát hết, đã phản ánh khá chính xác vị thế của chúng ta.
TS Phạm Đức Chính (Viện Cơ học) - Theo VNnet
|