Thông tin chung:
Công trình: Cố đô Pasargadae
Địa điểm: Tỉnh Pars, Iran (N30 11 37.788 E53 10 2.244)
Thiết kế kiến trúc:
Quy mô: Diện tích Di sản 159,65ha; Vùng đệm 7.126,9702 ha
Năm thực hiện:
Giá trị: Di sản thế giới (2004; hạng mục i, ii, iii, iv)
Iran (còn gọi là Ba Tư) là một quốc gia ở Tây Á, phía Tây Bắc giáp Armenia và Azerbaijan; phía Bắc giáp biển Caspi; Đông Bắc giáp Turkmenistan; phía Đông giáp Afghanistan và Pakistan; phía Nam giáp vịnh Ba Tư và vịnh Ô-man; phía Tây giáp Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq.
Iran nằm tại trung tâm khu vực Âu Á và gần eo biển Hormuz, có một tầm quan trọng về địa chính trị.
Iran có diện tích khoảng 1.648.195 km2, là quốc gia lớn thứ 2 tại Trung Đông và lớn thứ 17 trên thế giới. Với 82 triệu dân (2018), Iran là quốc gia đông dân thứ 18 trên thế giới. Thủ đô là thành phố Tehran.
Iran là một trong những nền văn minh lâu đời nhất của nhân loại.
Nền văn minh Iran bắt đầu với sự hình thành các vương quốc Elamite (Elamite kingdoms) trong thiên niên kỷ thứ tư trước Công nguyên (TCN). Người Iran là một trong những tộc người đầu tiên sử dụng toán học, hình học và thiên văn học trong kiến trúc. Kiến trúc Iran gắn liền với các hình tượng vũ trụ, với nhận thức nhờ đó con người được giao tiếp và tham gia quyền lực với thiên đàng. Triết lý này không chỉ mang lại sự thống nhất và liên tục cho kiến trúc Ba Tư, mà còn trở thành một nguồn động lực quý giá cho nghệ thuật kiến trúc.
Vào thế kỷ thứ 7 TCN các bộ tộc Media Iran đã cùng nhau thành lập vương Quốc Median (Median Empire). Vương quốc đạt đến đỉnh cao về quy mô lãnh thổ vào thế kỷ thứ 6 TCN dưới thời Vương triều Achaemenid (Achaemenid Empire, khoảng 550-330 TCN), được thành lập bởi Cyrus Đại đế (Cyrus the Great, cai trị năm 559 – 530 TCN), trở thành Đế quốc Ba Tư. Đây là Đế chế liên kết được nhiều dân tộc có nguồn gốc và tín ngưỡng khác nhau; hình thành được mô hình chính quyền tập trung, quan liêu (chuyển từ cách thực hiện tự phát, thiếu kế hoạch, định hướng giá trị truyền thống sang cách làm việc có hệ thống, tổ chức theo quy tắc, luật lệ, định hướng mục đích và duy lý); xây dựng được hệ thống đường bộ, bưu chính, sử dụng ngôn ngữ chính thức trên toàn bộ lãnh thổ, phát triển các dịch vụ dân sự và một đội quân chuyên nghiệp. Sự thành công của Đế chế Achaemenid đã truyền cảm hứng cho các vương triều Iran sau này.
Đế chế Achaemenid sụp đổ dưới sự thống trị của Alexander Đại đế (Alexander the Great, cai trị năm 336 - 323 TCN) vào thế kỷ thứ 4 TCN và bị chia thành nhiều vương quốc thuộc văn minh Hy Lạp, như vương quốc Seleucid (Seleucid Empire), còn gọi là thời kỳ Hy Lạp hóa (Hellenistic period).
Đế chế Seleucid trở thành một trung tâm lớn của văn hóa Hy Lạp, duy trì sự ưu việt của phong tục Hy Lạp, nơi tinh hoa chính trị Hy Lạp thống trị, chủ yếu ở các khu vực đô thị. Dân số Hy Lạp của các thành phố hình thành nên giới tinh hoa và được củng cố bởi sự nhập cư từ Hy Lạp.
Vào thế kỷ thứ 3 TCN, người Iran nổi dậy lập Đế chế Parthia (Parthian Empire) và Đế chế Sasanian (Sasanian Empire, tồn tại năm 224- 651). Sau đó Iran dần trở thành một trong những cường quốc hàng đầu thế giới vào 4 thế kỷ tiếp theo.
Người Hồi giáo Ả Rập đã chinh phục Đế chế Sasanian vào thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên, cùng với đó là việc Hồi giáo hóa Iran, dẫn đến sự suy tàn của tôn giáo thống trị Zoroastrianism (Hỏa giáo), là một trong những tôn giáo liên tục lâu đời nhất trên thế giới, được thành lập bởi nhà lãnh đạo tinh thần nổi tiếng Iran Zoroaster, còn được gọi là Zarathushtra, sống trong khoảng năm 1500 - 1000 TCN. Đây là quốc giáo của nhà nước Ba Tư trước Hồi giáo, trong giai đoạn năm 600 TCN đến năm 650 sau Công nguyên.
Trong hai thế kỷ tiếp theo, một loạt triều đại Hồi giáo bản địa (Iran Intermezzo) xuất hiện: Tahirids (năm 821 - 873); Sajids (năm 889 - 929); Saffarids (năm 861 - 1003); Samanids (năm 875/819 - 999); Ziyarids (năm 930 -1090); Buyids (năm 934 - 1062); Sallarids (năm 942- 979). Tiếp đó, người Thổ Nhĩ Kỳ thuộc vương triều Seljuq (Seljuq dynasty, tồn tại từ thế kỷ 10 – 12) và người Mông Cổ Ilkhanate (tồn tại từ thế kỷ 13 – 14) đã chinh phục Ba Tư.
Sự trỗi dậy của vương triều Safavids (Safavid dynasty) trong thế kỷ 15 đã dẫn đến việc tái lập quốc gia Iran và chuyển đổi sang Hồi giáo dòng Shia (Shia Islam). Đây là ngoặt trong lịch sử Iran và Hồi giáo.
Thế kỷ 18, dưới thời vua Nader Shah Afshar (cầm quyền 1736- 1747), Iran là một trong những quốc gia hùng mạnh nhất khu vực.
Đến thế kỷ 19, sau một loạt xung đột với Đế quốc Nga, Iran đã chịu những tổn thất lãnh thổ đáng kể.
Triều đại Pahlavi (Pahlavi dynasty, tồn tại từ năm 1925 – 1979) là vương triều cuối cùng của Đế chế Iran. Tiếp đó, là giai đoạn của quốc gia Iran thời hiện đại.
Trong lịch sử phát triển, Iran là một quốc gia và một xã hội đa nguyên, bao gồm nhiều nhóm sắc tộc, ngôn ngữ và tôn giáo, lớn nhất là Ba Tư, Azeris, Kurds, Mazandaranis và Lurs.
Ngày nay, Iran được chia thành 5 khu vực với 31 tỉnh. Các tỉnh chia thành quận/huyện, phường/xã.
Bản đồ Iran và vị trí thành phố Shiraz
Được thành lập vào thế kỷ thứ 6 TCN tại trung tâm của người Ba Tư (ngày nay là tỉnh Fars ở tây nam Iran), Pasargadae là kinh đô sớm nhất của Đế chế Achaemenid (vương quốc Ba Tư đầu tiên).
Thành phố được Cyrus Đại đế xây dựng với sự đóng góp của nhiều dân tộc khác nhau tạo nên đế chế đa văn hóa vĩ đại đầu tiên ở Tây Á. Các di tích khảo cổ của cung điện và bố cục vườn, cũng như lăng mộ của Cyrus Đại đế là một ví dụ nổi bật về giai đoạn đầu của quá trình phát triển nghệ thuật và kiến trúc hoàng gia Achaemenid, và là bằng chứng đặc biệt cho nền văn minh Achaemenid ở Ba Tư. Kiểu quần thể hoàng gia "Bốn khu vườn" (, được tạo ra ở Pasargadae, đã trở thành nguyên mẫu cho kiến trúc và thiết kế Tây Á.
Di tích khảo cổ Pasargadae rộng 160 ha, nằm ngay phía bắc thị trấn Madar-e-Soleyman và cách thành phố Shiraz hiện tại khoảng 90 km về phía đông bắc. Di tích là một trong những biểu hiện sớm nhất của nghệ thuật và kiến trúc Ba Tư.Di tích này bao gồm ngôi mộ đá vôi nhỏ gọn trên đồng bằng Morgab, nơi từng lưu giữ quan tài mạ vàng của Cyrus Đại đế; Tall-e Takht (“Ngai vàng của Solomon”), một bệ đá kiên cố lớn được xây dựng trên một ngọn đồi và sau đó được hợp nhất thành một thành trì rộng lớn với hệ thống phòng thủ bằng gạch bùn vững chắc; và Quần thể Hoàng gia, bao gồm một số cung điện ban đầu nằm trong một bố cục vườn, gọi là Charbagh (“Bốn khu vườn”). Pasargadae đã trở thành nguyên mẫu cho khái niệm Vườn Ba Tư, gồm bốn góc phần tư được phân chia chính thức bằng các tuyến đường nước (hoặc lối đi), kiến trúc của nó được đặc trưng bởi các chi tiết tinh tế và chiều dọc thanh mảnh.
Pasargadae là một minh chứng đặc biệt của nền văn minh Achaemenid.
Đế chế Achaemenid rộng lớn, trải dài từ phía đông Địa Trung Hải và Ai Cập đến sông Hindus ở Ấn Độ, được coi là đế chế đầu tiên được đặc trưng bởi sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa của người dân. Sự tôn trọng này được phản ánh trong kiến trúc hoàng gia Achaemenid, trở thành đại diện tổng hợp của các nền văn hóa khác nhau của Đế chế. Cố đô Pasargadae đại diện cho giai đoạn đầu tiên của sự phát triển này, tạo thành một kiến trúc Ba Tư cụ thể, sau đó được thể hiện đầy đủ tại Persepolis, kinh đô cuối cùng của Đế chế Achaemenid.
Quần thể Pasargadae, Iran được UNESCO tôn vinh là Di sản thế giới (năm 2004) với tiêu chí:
Tiêu chí (i): Pasargadae là tuyệt tác về tài năng sáng tạo nổi bật đầu tiên của kiến trúc hoàng gia Achaemenid.
Tiêu chí (ii): Cố đô Pasargadae được Cyrus Đại đế xây dựng với sự đóng góp, giao lưu giữa các giá trị của nhiều dân tộc khác nhau trong Đế chế do ông tạo ra. Nó đã trở thành giai đoạn cơ bản trong quá trình phát triển của nghệ thuật và kiến trúc Ba Tư cổ điển.
Tiêu chí (iii): Di tích khảo cổ Pasargadae, với các cung điện, khu vườn và lăng mộ của người sáng lập triều đại, Cyrus Đại đế, là minh chứng đặc biệt về nền văn minh của vương triều Achaemenid ở Ba Tư.
Tiêu chí ( iv ): Quần thể cung điện kiểu Charbagh (“Bốn khu vườn”) được xây dựng ở Pasargadae đã trở thành nguyên mẫu cho kiến trúc và thiết kế tại khu vực Tây Á.
Sơ đồ phạm vi Di sản Cố đô Pasargadae, Iran
Nằm ở trung tâm của Ba Tư cổ đại, kinh đô Pasargadae của Đế chế Achaemenid (Achaemenid Empire, khoảng 550-330 TCN), được Cyrus II Đại đế (Cyrus the Great, người sáng lập Đế chế, cai trị năm 559 – 530 TCN) thành lập tại Pars, quê hương của người Ba Tư, vào thế kỷ thứ 6 TCN.
Pasargadae nằm cách kinh đô kế tiếp Persepolis 40 km, thuộc tỉnh Pars của Iran ngày nay.
Pasargadae có vị trí chiến lược tại ngã tư của các tuyến đường thương mại quan trọng, khiến nơi đây trở thành trung tâm thương mại và giao lưu văn hóa quan trọng. Được bao quanh bởi những đồng bằng màu mỡ và bởi dãy núi Zagros, không chỉ mang lại sự bảo vệ mà còn tăng thêm sức hấp dẫn về cảnh quan cho thành phố.
Pasargadae nằm trong thung lũng sông Polvar và nhánh sông khô hạn (Dried River Bed). Vào thời Cổ đại, dọc theo sông có nhiều con đập điều tiết dòng sông, đảm bảo nguồn cung cấp nước ổn định cho cư dân và nhu cầu nông nghiệp, góp phần vào sự thịnh vượng và phát triển của thành phố.
Di sản Pasargadae với các cung điện, khu vườn và lăng mộ của Cyrus là những ví dụ nổi bật về giai đoạn đầu của nghệ thuật và kiến trúc hoàng gia Achaemenid; là bằng chứng đặc biệt của nền văn minh Ba Tư.
Pasargadae được nhà khảo cổ học người Đức Ernst Herzfeld khám phá về mặt khảo cổ học lần đầu tiên vào năm 1905 và vào năm 1923, 1928.
Từ năm 1946, các tài liệu gốc, sổ tay, ảnh, mảnh tranh tường và đồ gốm từ các cuộc khai quật ban đầu tại Pasargadae được lưu giữ tại Phòng trưng bày nghệ thuật Freer, Viện Smithsonian, ở Washington, DC.
Sau Herzfeld, Sir Aurel Stein đã hoàn thành một bản đồ mặt bằng cho Pasargadae vào năm 1933.
Năm 1935, Erich F. Schmidt đã thực hiện một loạt ảnh chụp từ trên không của toàn bộ khu phức hợp.
Từ năm 1949 - 1955, một nhóm người Iran do Ali Sami dẫn đầu đã làm việc tại quần thể.
Từ năm 1961- 1963, một nhóm người của Viện Nghiên cứu Ba Tư thuộc Anh do David Stronach dẫn đầu đã tiếp tục khai quật tại khu vực di tích.
Vào những năm 1960, một kho báu được gọi là Kho báu Pasargadae đã được khai quật gần nền móng của Tòa nhà B (Pavilion B) tại địa điểm này. Có niên đại từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 4 TCN, kho báu bao gồm đồ trang sức Achaemenid, được làm từ vàng và đá quý, hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Quốc gia Iran và Bảo tàng Anh.
Hình ảnh Cố đô Pasargadae, Pars, Iran
Hình ảnh Cyrus Đại đế, Iran
Thung lũng sông Cyrus, Pars, Iran
Sơ đồ vị trí những di tích chính trong khu vực Di sản Cố đô Pasargadae, Iran
Những di tích chính trong Khu vực Di sản gồm:
1. Lăng Cyrus Đại đế
Lăng Cyrus Đại đế (Tomb of Cyrus the Great) là nơi từng lưu giữ quan tài mạ vàng của Cyrus Đại đế.
Lăng được đổi tên thành Lăng mộ của Mẹ Suleiman (Tomb of Suleiman's Mother, liên quan đến mẹ của Solomon trong Kinh Thánh (vua của Vương quốc Israel Thống nhất, nhà tiên tri, năm 965- 928 TCN) sau cuộc chinh phục Ba Tư của người Hồi giáo và sự sụp đổ sau đó của Đế chế Sasanian. Để tránh sự tàn phá của quân đội Ả Rập xâm lược, Lăng mộ đã được biến thành một ngôi đền Hồi giáo.
Công trình được xác định lại là Lăng của Cyrus Đại đế vào đầu thế kỷ 19. Song, người dân nơi đây nói chung vẫn coi đây là di tích của mẹ Solomon.
Lăng Cyrus Đại đế nằm ở góc phía nam của Quần thể di tích, thuộc Công viên Hoàng gia Pasargadae.
Công trình được đánh giá là một tượng đài lăng mộ kiểu Hy Lạp gắn với sự cao quý của đường nét và sự đối xứng của các cấu trúc xây dựng với tỷ lệ hoàn hảo, như một điểm sáng lấp lánh trên một quang cảnh vắng lặng xung quanh.
Công trình được xây dựng bằng đá vôi màu trắng vàng, được khai thác từ mỏ đá núi Sivand.
Lăng mộ được xây dựng theo kiểu không cần vữa. Các viên đá lớn được cắt và lắp ráp với độ chính xác cao và được kết nối với nhau nhờ các chốt đá, kim loại.
Lăng mộ đã chống chọi với các yếu tố tự nhiên và phi tự nhiên trong 2.500 năm và vẫn còn tồn tại.
Nền móng của công trình bao gồm nhiều lớp đá vôi, được liên kết và làm nhẵn bằng hỗn hợp thạch cao vôi và tro hoặc sỏi. Lớp móng cao hơn bao gồm những mảnh đá được kết nối bằng các mẩu kim loại (dạng đuôi én). Với kỹ thuật này, trong một trận động đất, các lớp trên sẽ trượt qua lớp nền dưới.
Phần đế của công trình là một bệ đá có thiết kế tạo thành một hình vuông hình chữ nhật, dài 13,35 m và rộng 12,3 m.
Phần thân là một bệ đá sáu bậc với ít trang trí, tạo ra hiệu ứng tổng thể về sự đơn giản của đường nét kết hợp với sự vững chắc về thể tích.
Bậc đầu tiên, cao 165 cm, bao gồm hai lớp đá. Lớp đá dưới cùng cao khoảng 60 cm, không có chạm khắc.
Bậc thứ hai và ba cao 105 cm.
Bậc thứ tư, thứ năm và thứ sáu cao 57,5 cm. 3 bậc trên cùng có chiều cao giảm một nửa so với 3 bậc phía dưới.
Chiều rộng phần thụt vào của mỗi bậc khoảng 0,5 m.
Bậc thứ sáu tạo thành phần đế cho phòng mộ. Kích thước của bậc thứ 6 là khoảng 6,4 m x 5,35 m.
Phần trên là một khối nhà có mái hình tam giác đầu hồi.
Tổng chiều cao của tòa nhà là hơn 11 m.
Phòng mộ dài 3,17 m, rộng 2,11 m và cao 2,11 m, rất hẹp cho việc đặt quan tài.
Tường của Phòng mộ dày tới 1,5 m và được làm bằng 4 hàng đá cắt. Hàng thứ nhất và thứ hai cao hơn hàng thứ ba và thứ tư. Ở phía tây bắc Phòng mộ dường như có một cánh cửa đôi mở trượt, hiện đã không còn.
Lối vào hiện tại rộng 78 cm, cao 140 cm.
Các chi tiết kiến trúc trang trí trên kết cấu còn sót lại của ngôi mộ chỉ có ở lối vào, diềm mái và đầu hồi phía tây bắc.
Phía trước Phòng mộ, ở tam giác trên cửa ra vào có trang trí một bông hoa rất cầu kỳ, hiện chỉ còn lại một nửa, rất mờ. Không có một dòng chữ nào được tìm thấy trong Phòng mộ.
Trong thời kỳ Hồi giáo, một hốc (mihrap) đã được thêm vào bức tường phía tây nam Phòng mộ, cho thấy Lăng mộ đã được cải tạo thành nhà thờ Hồi giáo.
Sàn của Phòng mộ được làm bằng hai phiến đá lớn.
Bên trong Phòng mộ đặt một chiếc quan tài bằng vàng, nơi lưu giữ thi hài của Cyrus Đại đế. Bên cạnh chiếc quan tài là một chiếc ghế dài có chân bằng vàng, được phủ bằng một tấm thảm Babylon và sàn nhà được trải thảm.
Ngoài ra, bên trong Phòng mộ còn có những đồ trang sức bằng vàng, từ vòng cổ và hoa tai đến kiếm. Tại đây có tượng của những người canh gác với trang phục có nhiều màu sắc khác nhau.
Mái của ngôi mộ nhẵn và đơn giản ở bên trong, nhưng ở bên ngoài thì có dạng mái đầu hồi. Mái được làm bằng hai viên đá, kích thước 6,25 m x 3 m và dày 50 cm.
Lăng mộ được đặt bên trong một không gian lớn với các hàng cột bao quanh 4 mặt tạo thành một mặt bằng với kích thước 30 m x 32 m. Có 24 cột tròn, mỗi mặt có 6 cột tròn, đường kính 99 cm. Tại 4 góc là một cột vuông.
Hiện tại, các cột chỉ còn lại tàn tích gắn với bức tường bao quanh.
Phối cảnh tàn tích Lăng mộ Cyrus Đại đế, Cố đô Pasargadae, Pars, Iran
Hình ảnh phục dựng Lăng mộ Cyrus Đại đế, Cố đô Pasargadae, Pars, Iran
Tranh vẽ Lăng mộ Cyrus Đại đế do Eugène Flandin thực hiện (vào năm 1840), Cố đô Pasargadae, Pars, Iran
Sơ đồ vị trí, mặt bằng, mặt cắt, mặt đứng Lăng mộ Cyrus Đại đế do Eugène Flandin thực hiện (vào năm 1840), Cố đô Pasargadae, Pars, Iran
Chi tiết các khối đá liên kết không cần vữa (dạng đuôi én), mà bằng các chốt kim loại, Lăng mộ Cyrus Đại đế, Cố đô Pasargadae, Pars, Iran
2. Quần thể Tall-e Takht
Tall-e Takht (“Đồi Ngai vàng”) hay Takht-e Soleyman (“Ngai vàng của Solomon”) là một bệ đá lớn kiên cố được xây dựng trên một ngọn đồi phía đông bắc của Pasargada, cách Lăng Cyrus Đại đế khoảng 2300 m về phía đông bắc.
Công trình sau được hợp nhất thành một pháo đài hay thành lũy rộng lớn với hệ thống phòng thủ bằng gạch bùn vững chắc. (Địa điểm này khác với Di sản Takht -e Soleyman, Western Azerbaijan, Iran, cũng là Di sản UNESCO).
Thành được xây dựng dưới thời trị vì của Cyrus Đại đế, nhưng đã bị bỏ hoang sau khi ông qua đời vào năm 530 TCN. Giống như thành cổ Acropolis ở Athens, công trình được thiết kế như một bệ đá kiên cố khổng lồ làm nền cho các cung điện và đền thờ xây dựng phía trên.
Bệ đá có kích thước dài 80m, cao 15m, được tạo thành từ khoảng 20 lớp phiến đá khổng lồ có trọng lượng lên tới 6 tấn.
Bệ đá được cho là nền cho công trình xây dựng ấn tượng phía trên, song chưa bao giờ được hoàn thành sau khi Cyrus Đại đế qua đời vào năm 530 TCN.
Vào nửa đầu triều đại của Darius Đại đế (Darius the Great, Vương triều Achaemenid, trị vì năm 522 – 486 TCN), một công trình lớn có tường bằng gạch bùn đã được dựng lên trên sân thượng và đỉnh đồi liền kề. Công trình tiếp tục được sử dụng trong suốt thời kỳ còn lại của Vương triều Achaemenid.
Tổng mặt bằng Tàn tích Tall-e Takht, Pasargadae, Pars, Iran
Phối cảnh tổng thể Tàn tích Tall-e Takht, Pasargadae, Pars, Iran
Tàn tích Tall-e Takht, Pasargadae, Pars, Iran
Sơ đồ mô phỏng Quần thể Tall-e Takht được xây dựng vào thời Vương triều Achaemenid, Pasargadae, Pars, Iran
3. Quần thể Cung điện Hoàng gia
Quần thể Cung điện Hoàng gia hay Trung tâm Nghi lễ của Pasargadae nằm cách Lăng Cyrus khoảng 1,4km về phía đông bắc, trên một vùng đất rộng bằng phẳng.
Sơ đồ tổng mặt bằng Quần thể Cung điện hoàng gia, Pasargadae, Pars, Iran
Quần thể Cung điện Hoàng gia, gồm các di tích chính sau:
Cổng R
Cổng R (Gate R), nằm ở rìa phía đông nam của Quần thể Cung điện, là Cổng thành (Propylaeum) độc lập lâu đời nhất được biết đến. Về mặt kiến trúc, đây là biểu tượng cổng của vương triều Achaemenid tại cố đô Persepolis và trở thành nguồn cảm hứng cho các cổng khác của vương triều.
Cổng tượng trưng cho giới hạn giữa thế giới bên ngoài và thế giới bên trong của các nhà cai trị, như một tượng đài.
Cổng R bao gồm một công trình có mặt bằng hình chữ nhật, kích thước 29,5 x 22,60 m, có một lối đi xuyên qua trên trục dài và một lối đi xuyên qua trên trục ngang.
Hiện tại Cổng R chỉ còn lại tàn tích của nền đá vơi màu nâu nhạt, bệ cột bằng và tường bằng gạch bùn.
Mái của Cổng được hỗ trợ bởi hai hàng bốn cột, trong đó chỉ có bệ đá vẫn còn được bảo tồn một phần.
Bệ cột có kích thước 1,43m x 1,43m, cao 1,04m bằng đá đen. Phần thân cột cao 12,06m bằng đá vôi trắng. Đầu cột được làm bằng đá đen, mô tả hình tượng sư tử.
Với quy mô như vậy, Cổng R trở thành công trình kiến trúc cao nhất ở Pasargadae.
Hai lối ra vào chính qua Cổng R dạng cổng vòm, nhô ra phía ngoài, được trang trí bởi tượng những con bò đực có cánh đồ sộ, đầu người, hiện chỉ còn lại tàn tích của mảnh vỡ nhỏ.
Hai lối ra vào phụ qua Cổng R được trang trí bằng các phù điêu. Một trong số tác phẩm còn tồn tại đến ngày nay là một hình chạm khắc thiên thần có cánh, cao 3m.
Phối cảnh tổng thể tàn tích Cổng R, Quần thể Cung điện hoàng gia, Pasargadae, Pars, Iran
Tàn tích bệ tường, cột tại Cổng R, Quần thể Cung điện hoàng gia, Pasargadae, Pars, Iran
Tàn tích phù điêu Thiên thần có cánh, Cổng R, Quần thể Cung điện hoàng gia, Pasargadae, Pars, Iran
Vườn Ba Tư
Quần thể Cung điện Hoàng gia bao gồm một số cung điện nằm trong một bố cục vườn gọi là Charbagh, có nguồn gốc từ Vườn Thiên đường hay Vườn Ba Tư của Đế chế Achaemenid.
Charbagh hoặc Chaharbagh, nghĩa là “Bốn khu vườn”, có bố cục gồm 4 ô vườn được phân chia bởi 4 đường nước nối với nhau tại một hồ nước hình vuông nhỏ ở trung tâm khu vườn.
Cấu trúc này tượng trưng cho 4 khu vườn và 4 con sông của Thiên đường được đề cập trong Kinh Qur'an.
Cấu trúc này còn được cho là bắt nguồn từ vườn Địa Đàng (Garden of Eden) trong sách Sáng Thế (Book of Genesis), được mô tả là có một con suối trung tâm nuôi sống 4 con sông, mỗi con sông chảy ra mỗi thế giới bên kia. Vườn Ba Tư hay vườn Địa Đàng là một trong số ít các loại vườn cổ xưa, được thiết kế tượng trưng cho Cuộc sống vĩnh cửu.
Vườn Ba Tư có thể bắt nguồn từ những năm 4000 TCN, song rõ ràng tồn tại trong giai đoạn Vương triều Achaemenid (Achaemenid Empire hay Đế quốc Ba Tư, khoảng 550-330 TCN), thể hiện qua các hình vẽ trang trí trên đồ gốm thời đó.
Vườn Ba Tư là một khu vườn kín, bao quanh bởi các bức tường nhằm đảm bảo bảo sự riêng tư và an ninh, trong điều kiện khí hậu khô cằn hoặc bán khô cằn. Thiết kế phổ biến của khu vườn là khu đất hình chữ nhật, phân chia công phu bởi các đường nước, thường là kênh rạch, hồ, đôi khi là các đài phun nước và thác nước. Diện tích mặt nước thường chiếm một phần tư của vườn.
Các vị vua thuộc Vương triều Achaemenid đã xây dựng vườn Địa Đàng trong các công viên săn bắn của hoàng gia. Đây là nơi thư giãn được bảo vệ, một nơi giao tiếp và tâm linh, như một thiên đường trên mặt đất.
(Xem thêm Di sản thế giới Vườn Ba Tư /Persian Garden)
Pasargadae là ví dụ sớm nhất được biết đến về Charbagh, đã trở thành nguyên mẫu cho khái niệm Vườn Ba Tư.
Khu vườn nằm tại trung tâm của Quần thể, có mặt bằng hình chữ nhật, dài 210 m, rộng 168 m, được giới hạn bởi các tuyến kênh dẫn nước xung quanh. Trung tâm của Khu vườn là 4 ô vườn được phân tách và giới hạn bởi các tuyến kênh hở hoặc chìm. Ngoài ra, tầm quan trọng về mặt nghi lễ của Khu vườn được nhấn mạnh bởi kích thước và vẻ đẹp nổi bật của các cổng ra vào Khu vườn.
Các kênh dẫn nước tưới cho vườn dài đến 1100m, dẫn từ sông Polvar, thông qua hệ thống đập dọc theo sông. Hệ thống quản lý thủy lực tại đây thể hiện một quy hoạch chính xác và hiểu biết sâu sắc về thủy lực, để tạo ra một ốc đảo tươi tốt trong môi trường bán khô hạn.
Hiện tại, Khu vườn chỉ còn lại tàn tích móng đá của kênh dẫn nước, bồn nước và của các bức tường bao quanh.
Sơ đồ của một Vườn Ba Tư với cấu trúc bốn phần với 4 tuyến kênh, hồ trung tâm, các cống dẫn nước kết nối và cây cối xung quanh, cũng như vị trí của cung điện.
Phối cảnh phục dựng Vườn Ba Tư, Quần thể Cung điện hoàng gia, Pasargadae, Pars, Iran
Tàn tích kênh dẫn nước tại Vườn Ba Tư, Quần thể Cung điện hoàng gia, Pasargadae, Pars, Iran
Quần thể Cung điện
Quần thể có nhiều di tích công trình: Cung điện P, S (Palace P, S), Nhà nghỉ A, B (Pavilion A, B).
Mỗi một Cung điện, Nhà nghỉ trong Quần thể có vai trò riêng, tạo thành một chuẩn mực trong suốt thời kỳ Đế chế Achaemenid. Tất cả công trình đều có một không gian trung tâm với các hàng cột đỡ mái bên trong. Xung quanh không gian trung tâm là các không gian hiên với các hàng cột trang trí bên ngoài. Vật liệu xây dựng bằng đá với các kỹ thuật chế tác đá bậc cao, liên kết không cần vữa với kẹp sắt và chì, chỉ xuất hiện tại Pasargadae, du nhập từ thế giới Hy Lạp.
Những công nghệ này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các bệ đá, cầu thang, cửa ra vào, chân tường, sàn nhà và cột đá, trở thành dấu ấn của kiến trúc Achaemenid.
Cung điện S (Palace S) nằm cạnh Cổng R.
Cung điện S có vai trò là cung điện tiếp khách (Audience Hall/ Throne Hall). Công trình có một không gian trung tâm kích thước 32,35 x 22,14 m. Bên trong có 2 hàng 4 cột lớn. Hiện vẫn tồn tại một cột với chiều cao 13,1m.
4 phía của không gian trung tâm là hàng hiên với 2 hàng cột nhỏ trang trí. Khác với các hàng cột đá Hy Lạp, các cột đá Iran không có rãnh và thanh mảnh hơn; Bệ cột là bê vuông cao 2 bậc được phủ bằng một tấm tròn; Đầu cột được chạm khắc theo những sinh vật được tôn sùng như như bò đực, sư tử và ngựa. Đây có thể coi là một sự sáng tạo độc đáo của kiến trúc Ba Tư.
Hàng hiên 4 phía tại Quần thể Cung điện đánh dấu một trong những thay đổi to lớn trong lịch sử kiến trúc vùng Cận Đông. Thay vì các công trình kiến trúc đồ sộ, tập trung, các công trình kiến trúc tại đây có 4 mặt mở ra cảnh quan xung quanh, phù hợp với các hoạt động nghi lễ cung đình ngoài trời.
Tàn tích Cung điện S với một cột còn sót lại, Quần thể Cung điện Hoàng gia, Cố đô Pasargadae, Iran
Cung điện P (Palace P) nằm tại phía bắc của Quần thể, phía nam là Khu vườn Charbagh (vườn Ba Tư).
Cung điện có vai trò dành riêng cho Hoàng gia. Công trình có một không gian trung tâm với mặt bằng hình chữ nhật kích thước 31 m x 22 m. Bên trong có 6 hàng 5 cột. Hai phía tây bắc và đông nam có hàng hiên. Hàng hiên phía đông nam có 2 hàng 12 cột hướng ra khu vườn Hoàng gia kề liền. Góc phía tây bắc của công trình có hai phòng nhỏ. Bên trong phòng có các cổng vòm. Mỗi cổng vòm đều được kết thúc bằng một trụ đá.
Các lối vào chính của Cung điện P dạng cổng vòm với các tác phẩm điêu khắc trang trí bằng các sinh vật thần thoại và khác biệt cả về phong cách và chủ đề so với các phù điêu tại các công trình còn lại trong Quần thể.
Giống như Cung điện S , Cung điện P có một dòng chữ khắc bằng chữ hình nêm Ba Tư cổ , trong đó đề cập rằng tòa nhà này được xây dựng bởi Cyrus Đại đế.
Sơ đồ mặt bằng Cung điện P, Quần thể Cung điện Hoàng gia, Cố đô Pasargadae, Iran
Tàn tích Cung điện P, Quần thể Cung điện Hoàng gia, Cố đô Pasargadae, Iran
Hình ảnh phục dựng Cung điện P, Quần thể Cung điện Hoàng gia, Cố đô Pasargadae, Iran
Bảng chữ viết trong Cung điện P, Quần thể Cung điện Hoàng gia, Cố đô Pasargadae, Iran
Tại Quần thể Cung điện còn có các Nhà nghỉ A, B (Pavilion A, B). Các công trình này có quy mô nhỏ, bố cục tương tự nhau, gồm: Một phòng trung tâm, bên trong có 1 hoặc 2 hàng với 2 cột. Bốn phía đều có hàng hiên với các hàng cột, mở ra cảnh quanh xung quanh. Các hàng hiên rộng đều hướng ra phía vườn Charbagh (Vườn Ba Tư).
Tàn tích Pavilion B, Quần thể Cung điện Hoàng gia, Cố đô Pasargadae, Iran
4. Các di tích khác
Tháp Zendan-e Soleyman hay Lăng mộ Cambyses II
Tháp đá (Stone Tower) Zendan-e Soleyman (Nhà tù của Solomon) nằm cách Quần thể Cung điện Hoàng gia khoảng 320m về phía đông bắc.
Đây còn được cho là Lăng mộ của con trai và người kế vị Cyrus Đại đế là Cambyses II (trị vì năm 530 đến năm 522 TCN).
Tháp đá được tìm thấy vào năm 2006. Lăng mộ này có những điểm tương đồng với Lăng mộ Cyrus Đại đế, được xây dựng bằng các khối đá liên kết không cần vữa.
Phần đế của Tháp bao gồm một bệ 3 bậc, được xây dựng bằng đá không cần vữa.
Thân tháp cao khoảng 14 m, là một tòa tháp vuông với các trụ đỡ ở các góc. Tháp được xây dựng bằng đá trắng, có ba hàng cửa sổ giả ở ba mặt, bằng đá vôi sẫm.
Bên trong thân tháp có một cầu thang, dẫn đến một căn phòng duy nhất không có cửa sổ ở trên cùng. Phòng rộng khoảng 3,2m x 4m, cao 4,7m. Lối lên là một cầu thang đồ sộ ngoài trời.
Tháp hiện chỉ còn lại tàn tích phần đế và một phần thân.
Qua khảo sát, người ta cho rằng, Tháp chỉ là một phần của một khu phức hợp lớn hơn.
Tàn tích Tháp Zendan-e Soleyman hay Lăng mộ Cambyses II, Cố đô Pasargadae, Iran
Hình ảnh phục dựng Tháp Zendan-e Soleyman hay Lăng mộ Cambyses II, Cố đô Pasargadae, Iran
Khu vực thiêng liêng
Khu vực thiêng liêng (Sacred Precinct of Pasargadae) nằm ở phía tây bắc Lăng mộ Cyrus, phía sau một dãy đồi đá, nằm bên kia một con kênh nối với sông Polvar.
Khu vực này có hai bệ đá trắng, nằm cách nhau khoảng 9m.
Bệ phía nam bao gồm một đế vuông và một cấu trúc bậc thang, bao gồm một khối trắng rỗng cao khoảng 2,16m với một nắp đá vôi đen ba tầng ở trên cùng.
Bệ phía bắc, đơn giản hơn và không có cầu thang, cao 2,10 m và được làm từ một khối rỗng lớn.
Trong thời kỳ Vương triều Achaemenid, những bệ này được sử dụng làm bàn thờ và đóng vai trò trung tâm trong các nghi lễ.
Tàn tích Khu vực thiêng liêng, Cố đô Pasargadae, Iran
Pasargadae là kinh đô đầu tiên của vương triều Achaemenid. Trải dài từ Đông Địa Trung Hải và Ai Cập đến sông Hindu, nơi đây được coi là đế chế đa văn hóa vĩ đại đầu tiên ở Tây Á.
Pasargadae là di sản đích thực về mặt vị trí, bối cảnh, tính chất, hình thức, cấu trúc và vật liệu xây dựng.
Pasargadae là một nhân chứng đặc biệt của nền văn minh Achaemenid, là đế chế đầu tiên được đặc trưng bởi sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa của cư dân. Sự tôn trọng này được phản ánh trong kiến trúc hoàng gia Achaemenid, trở thành đại diện của các nền văn hóa khác nhau trong Đế chế và cho giai đoạn đầu tiên của nền kiến trúc Ba Tư sau này.
Đặng Tú, Bộ môn KTCN, ĐHXD
Nguồn :
https://whc.unesco.org/en/list/1106/
https://en.wikipedia.org/wiki/Iran
https://en.wikipedia.org/wiki/Pasargadae
https://en.wikipedia.org/wiki/Cyrus_the_Great
https://en.wikipedia.org/wiki/Persian_gardens
https://en.wikipedia.org/wiki/Charbagh
https://en.wikipedia.org/wiki/Propylaea
https://surfiran.com/mag/tomb-of-cyrus-the-great/
https://surfiran.com/mag/pasargadae/
https://www.orientalarchitecture.com/sid/803/iran/pasargadae/tall-i-takht-citadel
https://referenceworks.brill.com/display/entries/EIRO/COM-951.xml
https://www.the-persians.co.uk/Essays/architecture.htm
https://itto.org/iran/attraction/Tomb-of-Cambyses/
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Á và châu Đại Dương
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Âu
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Mỹ
Danh sách và bài viết về Di sản thế giới tại châu Phi
|