Trong hơn 16 năm qua, hệ thống các KCN, KCX trong cả nước được hình thành và phát triển; tại các tỉnh, thành phố thuộc các vùng kinh tế trọng điểm, nhiều KCN đang hoạt động ngày càng hiệu quả, góp phần tăng trưởng nhanh sản xuất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng theo hướng tích cực.
Song, trong tiến trình đó cũng có những KCN đã phải trải qua nhiều năm hoạt động rất khó khăn. Đầu những năm 2000, ngay từ khi thành lập các KCN tại các tỉnh Trung du, miền núi Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, hay Tây Nguyên và ven biển miền Trung, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và theo đó việc vận động, lựa chọn chủ đầu tư tham gia xây dựng KCN cũng là công việc có nhiều trở ngại. Tại các địa bàn này, do đặc điểm địa hình kinh tế trong vùng kém thuận lợi, nền kinh tế vốn thấp kém, công nghiệp nhỏ bé, ngân sách địa phương không đủ chi thường xuyên... cho nên không có khả năng xây dựng nhanh hạ tầng KCN, không đủ sức hấp dẫn và tạo mặt bằng thu hút các nhà đầu tư; những doanh nghiệp nội tỉnh cũng không thể chủ động thực hiện được dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, nếu Nhà nước không có cơ chế, chính sách hỗ trợ vốn, ưu đãi đầu tư. Thực tế tại những địa bàn có điều kiện khó khăn này đã có không ít KCN được thành lập sau vài năm mà vẫn không được khởi động do chưa lựa chọn được doanh nghiệp chủ đầu tư, hoặc có nhưng không đủ năng lực tài chính để triển khai thực hiện dự án, hay phải kéo dài 5, 6 năm mà vẫn chưa xây dựng xong hạ tầng KCN.
Để thúc đẩy việc hình thành các KCN ngay tại những địa bàn chưa có nhiều thuận lợi, tạo sự phân bố hợp lý và đồng đều các KCN trên cả nước, đòi hỏi phải có sự tác động của Nhà nước, trước hết là xây dựng cơ sở hạ tầng đi trước một bước đối với những KCN đã được quy hoạch thành lập, nhằm tạo môi trường đầu tư, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào KCN. Đáp ứng yêu cầu cấp bách đó, từ năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã sớm cho phép thực hiện cơ chế hỗ trợ vốn từ ngân sách địa phương trong việc giải phóng mặt bằng khi xây dựng KCN Hòa Khánh (Tp Đà Nẵng). Sau đó, trong những năm 2002-2004, với cơ chế này, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục cho phép sử dụng ngân sách trung ương và địa phương thực hiện hỗ trợ có mục tiêu cho 22 KCN được thành lập theo quy hoạch tại những địa phương có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Nhờ có sự hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách cùng với việc huy động các nguồn vốn khác, phần lớn các KCN này từng bước hoàn thành về cơ bản các công trình hạ tầng và thu hút nhiều dự án đầu tư sản xuất.
Căn cứ kết quả thực tế trên đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách trung ương để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Theo đó, trong kế hoạch năm 2004, vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương được phân bổ cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật của 20 KCN mới được thành lập, có đủ điều kiện được hỗ trợ theo quy định.
Nhìn lại, từ năm 2004 đến năm 2007, tổng mức vốn hỗ trợ đã đạt 1274 tỷ đồng và được phân bổ cho 40 dự án xây dựng trên tổng diện tích đất quy hoạch là 7071 ha. Trong đó, 6 KCN đã được hỗ trợ đủ vốn theo kế hoạch (các KCN Vũng áng, Mỹ Tho, Sađéc, Hòa Phú, Giao Long, Tâm Thắng) với số vốn hỗ trợ là 383 tỷ đồng cho 729 ha, bình quân mỗi ha thực tế nhận được 0,53 tỷ đồng/ha; 34 dự án KCN khác với diện tích 6342 ha, tuy đã nhận được vốn hỗ trợ 3, 4 lượt cho mỗi dự án, nhưng đến nay những KCN này mới nhận được tổng mức hỗ trợ là 891 tỷ đồng; bình quân mỗi ha đất của 34 KCN này, tính đến nay mới được ngân sách trung ương hỗ trợ 0,14 tỷ đồng/ha.
Dự kiến để hoàn thành mục tiêu đề ra tại Quyết định 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 sẽ cần khoảng thời gian 10-12 năm với tổng vốn hỗ trợ khoảng 2700 tỷ đồng. Do vậy, xét về mặt thời gian và nguồn lực cần huy động thì chúng ta mới thực hiện được 40% mục tiêu đề ra. Mặc dù vậy, qua 4 năm thực hiện Quyết định này, bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực:
Trước hết, nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương được giải ngân nhanh. Tính đến cuối năm 2007, tỷ lệ giải ngân nguồn vốn này đạt hơn 84%. Trong đó, các địa phương đã sử dụng 64% tổng vốn hỗ trợ dành cho đền bù, giải phóng mặt bằng, 10% để xây dựng cơ sở xử lý nước thải tập trung và hơn 24% cho các hạng mục khác. Trong đó, có 15 địa phương sử dụng toàn bộ số vốn được hỗ trợ cho công tác đền bù giải phóng mặt bằng.
Nhờ có nguồn vốn hỗ trợ, tuy mức vốn được hỗ trợ không nhiều, nhưng đã giúp cho những địa phương này khắc phục những khó khăn trong giai đoạn đầu xây dựng KCN. Một số KCN như Hòa Xá (Nam Định), Đình Trám (Bắc Giang), Thụy Vân (Phú Thọ), Phú Tài (Bình Định), Mỹ Tho (Tiền Giang) sau khi được hỗ trợ từ ngân sách trung ương, kết hợp với vốn hỗ trợ từ ngân sách địa phương, các chủ đầu tư đã nhanh chóng triển khai xây dựng và cơ bản hoàn thành các công trình hạ tầng, thu hút được nhiều dự án đầu tư vào KCN. Từ những kết quả đạt được, nhiều địa phương đã có điều kiện huy động bổ sung các nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư xây dựng thêm KCN khác trên địa bàn tỉnh.
Tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở các KCN trên địa bàn có khó khăn, nói chung đã được cải thiện. Đến nay, vốn thực hiện trên tổng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng đăng ký đạt gần 33%, cao hơn nhiều so với thời điểm cuối năm 2004. Nhờ nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương và sự nỗ lực của các địa phương, một số KCN mới thành lập hay xây dựng dở dang từ nhiều năm trước, nay đã hoàn thành cơ bản các công trình hạ tầng, tiếp nhận các dự án đầu tư sản xuất, lấp kín diện tích đất công nghiệp trong nhiều KCN.
Tính đến nay, 40 KCN thuộc diện hỗ trợ theo Quyết định 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 đã thu hút được 799 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký là 38.000 tỷ đồng và 120 dự án vốn đầu tư nước ngoài với trên 700 triệu USD. Mặc dù hoạt động trong điều kiện khó khăn, nhưng các KCN này đã góp phần tăng trưởng công nghiệp của địa phương, thúc đẩy các thành phần kinh tế đầu tư phát triển thêm các KCN trên địa bàn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua trong việc thực hiện Quyết định 183/2004/QĐ-TTg còn những mặt hạn chế, chưa tương xứng với nguồn vốn ngân sách Nhà nước đã bỏ ra:
Trong điều kiện ngân sách trung ương hạn hẹp, số lượng KCN thuộc diện cần hỗ trợ tăng nhanh, nhưng mức vốn phân bổ hàng năm cho các địa phương lại có xu hướng bình quân, từ đó, việc xác định những nhu cầu vốn thực tế ở mỗi địa phương chưa thực sự hợp lý, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao.
Một số địa phương sử dụng nguồn vốn này còn dàn trải, chưa đúng mục đích, chưa tập trung cho yêu cầu đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung, có nơi lại sử dụng cho xây dựng những hạng mục khác (hệ thống cấp thoát nước, nhà điều hành...), thậm chí có địa phương còn sử dụng nguồn hỗ trợ này để xây dựng hạ tầng KCN khác ngoài địa bàn được phê duyệt.
Nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương chỉ có thể đáp ứng một phần trong tổng nhu cầu vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật của mỗi KCN. Song, vẫn còn những địa phương chưa thực sự chủ động tìm giải pháp huy động thêm các nguồn vốn khác, hệ quả là tiến độ xây dựng hạ tầng KCN ở địa phương đó kéo dài 5-6 năm, nhất là ở những địa phương có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.
Ngoài ra, trên 80% số Công ty hạ tầng KCN ở những địa bàn khó khăn trên đây, hiện vẫn đang hoạt động theo mô hình đơn vị sự nghiệp có thu, do vậy khả năng huy động nguồn vốn tín dụng, vốn góp của các tổ chức, cá nhân... cũng thướng có những hạn chế nhất định.
Để đảm bảo sử dụng nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách thực sự có hiệu quả, qua 4 năm thực hiện Quyết định 183/2004/QĐ-TTg, xin kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét điều chỉnh, bổ sung Quyết định theo hướng tăng tính khách quan và hợp lý hơn trong việc xác định địa bàn hỗ trợ, mức vốn hỗ trợ cho một KCN nhất định và hạng mục hỗ trợ cần thiết theo đặc điểm cụ thể của từng loại KCN (quy mô diện tích, điều kiện hạ tầng sẵn có...) tại những địa bàn khác nhau. Trước mắt theo dự kiến trong năm 2008, khả năng tiếp tục thực hiện mục tiêu đề ra tại Quyết định 183/2004/QĐ-TTg, với tổng nguồn vốn từ ngân sách trung ương hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng các KCN ở những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn với tổng mức hỗ trợ tương đương như mức đã được phân bổ cho các địa phương của năm 2007.
Đối với các KCN tại những địa bàn được thụ hưởng nguồn vốn hỗ trợ này, cần chủ động tiến hành những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sớm hoàn thành đồng bộ các công trình hạ tầng trong KCN.
Trước hết, cần nhận thức việc sử dụng vốn từ ngân sách trung ương được phân bổ hay vốn ngân sách địa phương, dù trong bối cảnh nào cũng mang tính bao cấp. Do đó, trong mọi trường hợp đều phải đề cao trách nhiệm sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn vốn đó. Hơn nữa, các nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách dù được phân bổ với mức tối đa cũng không đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư xây dựng hoàn chỉnh cho cơ sở hạ tầng từng KCN. Do đó, biện pháp cơ bản, lâu dài vẫn phải là chủ động huy động nguồn vốn của toàn xã hội, nhất là từ vốn ứng trước của doanh nghiệp KCN, doanh nghiệp của tỉnh khác liên kết đầu tư, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ trong KCN (như các doanh nghiệp cấp điện, nước, bưu chính viễn thông, doanh nghiệp dịch vụ kho tàng...), đồng thời phải tích cực tiết kiệm chi phí đầu tư giảm chi phí xây dựng.
Cùng với việc huy động vốn, cần coi trọng sử dụng hợp lý các nguồn vốn đó, nhất là đối với nguồn vốn ngân sách, phải tuân thủ các thủ tục, trình tự đầu tư, các quy định về quản lý đầu tư; triển khai công tác tổ chức xây dựng và đấu thầu xây dựng hợp lý, hợp pháp. Trong đó, chú trọng sử dụng vốn mục đúng mục đích, tập trung ưu tiên xây dựng những hạng mục trọng điểm, và xây dựng hoàn thành từng KCN đã được xác lập trong kế hoạch đầu tư xây dựng của đơn vị đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Kinh nghiệm thực tế còn cho thấy, để thực hiện tốt những biện pháp trên, yếu tố có tính quyết định là nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành của Ban quản lý các KCN tại từng địa phương, cùng với tăng cường năng lực hoạt động của các công ty hạ tầng (gồm cả những đơn vị hoạt động sự nghiệp có thu), nhằm đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng kỹ thuật, sớm đưa KCN vào hoạt động.
(Vụ Quản lý KCN&KCX)
|