Tuần -13 - Ngày 02/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Phát triển Khu công nghiệp
Kết quả kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch KCN, KCX vùng Đồng bằng sông Hồng
23/07/2007


Cuộc kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch KCN, KCX vùng đồng bằng sông Hồng là một nội dung trong kế hoạch thanh tra, kiểm tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2007. Sau cuộc kiểm tra, nhiều vấn đề tích cực và hạn chế liên quan đến quá trình xây dựng và phát triển KCN, KCX vùng Đồng bằng sông Hồng đã được phân tích, rút kinh nghiệm phục vụ cho quá trình hoạch định cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX và hỗ trợ địa phương phát triển KCN, KCX đúng định hướng, mục tiêu phát triển và phù hợp với quy định của pháp luật.

Đồng bằng sông Hồng gồm 12 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình và Thái Bình. Đây là vùng tập trung khá nhiều KCN, KCX và đang có những dấu hiệu bứt phá trong thu hút đầu tư vào KCN, KCX trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh phân cấp mạnh mẽ theo tinh thần của pháp luật về đầu tư và nhiều cơ hội lớn về thu hút đầu tư nước ngoài trên cả nước nói chung và KCN, KCX vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng, triển khai kiểm tra quy hoạch KCN, KCX là một công tác rất cần thiết để hỗ trợ các địa phương phát hiện những thiếu sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mới theo phân cấp, kịp thời chấn chỉnh và cải thiện môi trường đầu tư của địa phương nhằm tận dụng cơ hội thu hút đầu tư trong những năm tới.

Cuộc kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch KCN, KCX vùng đồng bằng sông Hồng là một nội dung trong kế hoạch thanh tra, kiểm tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2007. Sau cuộc kiểm tra, nhiều vấn đề tích cực và hạn chế liên quan đến quá trình xây dựng và phát triển KCN, KCX vùng Đồng bằng sông Hồng đã được phân tích, rút kinh nghiệm phục vụ cho quá trình hoạch định cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX và hỗ trợ địa phương phát triển KCN, KCX đúng định hướng, mục tiêu phát triển và phù hợp với quy định của pháp luật.

Những kết quả cơ bản

Một là: các KCN, KCX vùng Đồng bằng sông Hồng được xây dựng và thành lập về cơ bản phù hợp với quy hoạch được duyệt.

Vùng Đồng bằng sông Hồng đã có 34 KCN được thành lập, trong đó có 23 KCN đang hoạt động và 11 KCN đang trong thời kỳ triển khai xây dựng cơ bản. Tổng diện tích đất quy hoạch phát triển KCN đã thành lập đạt 6.455 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê chiếm 66,3%. So với cả nước, tổng diện tích đất quy hoạch phát triển KCN của vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 20,5%. Tất cả các KCN này đều có trong Quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2000 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại các Quyết định số 519/TTg ngày 6/8/1996, số 713/TTg ngày 30/8/1997 và số 194/1998/QĐ-TTg ngày 01/10/1998; Quy hoạch phát triển KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1107/2006/QĐ-TTg ngày 21/8/2006; hoặc đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương bổ sung vào Quy hoạch phát triển các KCN cả nước. Nhìn chung, các KCN đã được thành lập đều phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và Quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất 5 năm và hàng năm của các địa phương.

Hai là: tốc độ triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, KCX đã có những tiến triển đáng kể, đặc biệt là trong vài năm gần đây.

Nhờ nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đền bù giải phóng mặt bằng trong phát triển KCN, KCX; sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành địa phương; năng lực tài chính và kinh nghiệm của chủ đầu tư dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN, KCX nên phần lớn các địa phương đều triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng khẩn trương, tích cực và đạt kết quả tốt. Điển hình là Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nam Định.

Tổng mức đầu tư đăng ký của 34 dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN thuộc vùng đồng bằng sông Hồng đạt 9.625 tỷ đồng và 489 triệu USD. Vốn đầu tư thực hiện kể từ khi khởi công đạt 3.560 tỷ đồng và 317 triệu USD. Như vậy, các dự án phát triển kết cấu hạ tầng đã thực hiện được trên 50% tổng vốn đầu tư với khoảng 53% tổng diện tích đất công nghiệp đã hoàn thành đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng xong cơ sở hạ tầng.

Một số KCN đã đầu tư hoàn chỉnh các hạng mục kết cấu hạ tầng, công trình xử lý nước thải tập trung, công trình tiện nghi, tiện ích công cộng (trung tâm điều hành, cây xanh) gồm các KCN: Thăng Long, Nomura, Cái Lân, Nam Sách, Hà Nội – Đài Tư. Đối với các KCN đang hoạt động khác chủ yếu đang tập trung vào việc hoàn thiện kết cấu hạ tầng, đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung, trồng cây xanh.... Các KCN trước đây triển khai chậm nay đang khẩn trương triển khai công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng gồm: Nam Thăng Long, Bắc Phú Cát, Đồ Sơn và Kim Hoa.

Ba là: cùng với tốc độ đền bù giải phóng mặt bằng được cải thiện, các địa phương triển khai thu hút đầu tư khá nhanh chóng, đạt hiệu quả sử dụng đất khá cao.

Nhiều địa phương triển khai thu hút đầu tư nhanh chóng, không chỉ lấp đầy nhanh diện tích đất công nghiệp của các KCN mà còn thu hút được những dự án có quy mô lớn, có hàm lượng công nghệ cao vào KCN.

Một số KCN đã cơ bản hoàn thành việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và thu hút đầu tư đạt tỷ lệ lấp đầy cao gồm: KCN Nomura, Nam Sách, Đại An, Phúc Điền, Tiên Sơn, Đồng Văn I, Khai Quang, Hoà Xá, Nguyễn Đức Cảnh, Thăng Long, Sài Đồng B.

Các dự án đầu tư vào KCN trong vùng tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp như dệt may, chế biến thực phẩm, sản xuất ôtô, xe máy và phụ tùng, cơ khí chính xác, sản phẩm thép, vật liệu xây dựng, điện-điện tử, linh kiện nhựa... Các KCN đã quan tâm nhiều hơn đến cơ cấu đầu tư vào KCN, có sự lựa chọn nhà đầu tư theo hướng ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao; thu hút một số nhà đầu tư có uy tín vào KCN như: Canon, Orion-Hanel, Sumitomo Bakelite, Rorze Robotech, Brother Industries, Sumidenso…

Các KCN thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng đã thu hút được 447 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 3.767 triệu USD (chiếm 17,7% về số dự án và 16% về số vốn đầu tư của các dự án đầu tư nước ngoài trong các KCN cả nước) và 519 dự án đầu tư trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 33,46 nghìn tỷ đồng (chiếm 19,2% về số dự án và 22,4% về số vốn đầu tư của các dự án đầu tư trong nước trong các KCN cả nước).

Các KCN vùng Đồng bằng sông Hồng đạt giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN trong vùng năm 2006 đạt gần 3,5 tỷ USD (chiếm khoảng 21% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN cả nước). Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN trong vùng năm 2006 ước đạt khoảng 2 tỷ USD (chiếm 24% tổng giá trị xuất khẩu của các KCN cả nước). Giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN trong vùng năm 2006 ước đạt khoảng 1,2 tỷ USD. Năm 2006, các doanh nghiệp KCN trong vùng nộp ngân sách khoảng 101 triệu USD (chiếm 7% so với tổng số nộp ngân sách của các KCN cả nước). Đến cuối năm 2006, các KCN trong vùng đã thu hút được trên 142 ngàn lao động trực tiếp (chiếm 15% tổng số lao động trực tiếp trong các KCN cả nước).

Nhìn chung, việc sử dụng đất của các nhà đầu tư thuê đất trong các KCN đã đi vào hoạt động trong vùng phù hợp với mục đích sử dụng, thời gian sử dụng đã được phê duyệt. Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp cho thuê của các KCN đã vận hành đạt 72,4%, tương đương mức trung bình của cả nước.

Bốn là: các địa phương đã bước đầu chú ý tới việc đảm bảo các khía cạnh xã hội và môi trường trong phát triển KCN.

Về vấn đề lao động, các doanh nghiệp đang hoạt động tại KCN trong Vùng Đồng bằng sông Hồng hiện đã thu hút được 14,2 vạn lao động trực tiếp. Các KCN thu hút nhiều lao động nhất gồm: KCN Nomura (1,2 vạn lao động), Hoà Xá (1,5 vạn lao động), Nguyễn Đức Cảnh (gần 1,2 vạn lao động), Quang Minh (1,1 vạn lao động), Thăng Long (2,4 vạn lao động), Sài Đồng B (1 vạn lao động), Khai Quang (1 vạn lao động).

Hầu hết các địa phương đều có sự gắn kết giữa quy hoạch KCN với quy hoạch đô thị. Những năm gần đây khi quy hoạch phát triển các KCN, các địa phương đều đã quy hoạch các khu đất để xây dựng nhà ở cho người lao động hoặc quy hoạch các KCN gần các khu quy hoạch khu đô thị. Trong 34 KCN đã có một số KCN xây nhà ở cho người lao động. Tại KCN Thăng Long, UBND thành phố Hà Nội đang triển khai xây dựng 02 tòa nhà 5 tầng tại xã Kim Chung- Đông Anh dự kiến đến giữa năm 2007 sẽ đưa vào sử dụng. Tại KCN Đại An, Công ty cổ phần Đại An đã cho chủ đầu tư thứ cấp thuê chung cư để cho công nhân thuê lại. KCN Tiên Sơn đã xây dựng nhà chung cư cao tầng cho công nhân thuê với 30 căn hộ, diện tích khoảng 60-70 m2/căn hộ, giá thuê một căn hộ khoảng 700.000-900.000 đồng/tháng.

Ngoài việc thực hiện các chính sách đền bù đối với các hộ mất đất theo quy định, các địa phương đã có nhiều biện pháp hỗ trợ người dân bị thu hồi đất trong ổn định cuộc sống như: cấp đất dịch vụ, hỗ trợ đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người lao động, hỗ trợ xây dựng hạ tầng cho địa phương mất đất, ưu tiên tuyển lao động cho các hộ có đất bị thu hồi vào làm việc trong các doanh nghiệp KCN.

Về vấn đề môi trường, một số địa phương rất kiên quyết trong việc bảo đảm môi trường khi tiếp nhận dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư trong những lĩnh vực có nguy cơ ô nhiễm cao như dệt, nhuộm, hoá chất. Nhiều chủ đầu tư đã có ý thức trong việc xây dựng nhà máy xử lý nước thải và bảo vệ môi trường như tại KCN Cái Lân, Nomura, Nam Sách, Phúc Khánh, Thăng Long, Đài Tư và Phố Nối B. Số KCN đã lập dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải hoặc bắt đầu triển khai xây dựng tăng kể từ khi Quyết định 1107/QĐ-TTg được ban hành. Trong 34 KCN thành lập mới, có 7 KCN đã xây dựng nhà máy xử lý nước thải công nghiệp và 1 nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt, đó là:

- KCN Cái Lân: Trạm xử lý nước thải giai đoạn I công suất 2.000 m3/ ngày đêm đã đưa vào vận hành năm 2006, đáp ứng yêu cầu xử lý nước thải của KCN.

- KCN Nomura: Trạm xử lý nước thải công suất 10.800 m3/ngày đêm, nước thải sau khi xử lý bảo đảm tiêu chuẩn loại B trước khi thải ra sông.

- KCN Nam Sách: Trạm xử lý nước thải công suất 3.000 m3/ ngày đêm, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn loại B trước khi thoát ra nguồn.

- KCN Phúc Khánh (phần do chủ đầu tư Đài Loan đầu tư): Trạm xử lý nước thải với công suất 3.700 m3/ngày đêm, hoàn thành vào năm 2005, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn loại B.

- KCN Thăng Long: Nhà máy xử lý nước thải, công suất 5.000 m3/ ngày đêm, đáp ứng yêu cầu xử lý nước thải của các dự án trong KCN.

- KCN Hà Nội - Đài Tư: Nhà máy xử lý nước thải, công suất 3.600 m3/ ngày đêm.

- KCN Phố Nối B (phần do Công ty hạ tầng Dệt may Phố Nối làm chủ đầu tư): Nhà máy xử lý nước thải với công suất 10.000 m3/ngày đêm, xử lý đạt tiêu chuẩn loại B trước khi thải ra kênh nội đồng.

- KCN Nội Bài: Xây dựng trạm xử lý nước thải sinh hoạt.

5 KCN khác gồm: Đại An, Phúc Điền, Quế Võ, Phố Nối A, Khai Quang đang xây dựng nhà máy xử lý nước thải công nghiệp.

Còn lại 22 KCN chưa xây dựng nhà máy xử lý nước thải công nghiệp.

Năm là: công tác xã hội hoá nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN được các địa phương thực hiện có hiệu quả.

Với lợi thế về vị trí địa lý, nguồn nhân lực và chính sách khuyến khích đầu tư, các KCN trong vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây là địa bàn được khá nhiều nhà đầu tư lớn trong nước, nước ngoài có kinh nghiệm và khả năng tài chính quan tâm. Do đó, phần lớn nguồn vốn đầu tư hạ tầng các KCN ở các tỉnh, thành phố này đều do chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng tự huy động. Việc huy động và sử dụng vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, đặc biệt là nguồn vốn khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội và Bắc Ninh tỏ ra có hiệu quả rõ rệt.

Một số KCN thuộc vùng nam Đồng bằng sông Hồng là những tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (gồm Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình) được hỗ trợ từ cả hai nguồn ngân sách địa phương và ngân sách trung ương. ở các tỉnh, thành phố khác thì có hỗ trợ một phần vốn đầu tư từ nguồn ngân sách địa phương chủ yếu để đầu tư kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào KCN. Tổng số vốn ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho các KCN trong vùng là 799,7 tỷ đồng (chiếm 4,5% tổng vốn đầu tư đăng ký của các KCN trong vùng), trong đó vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ 4 tỉnh miền Nam vùng Đồng bằng Sông Hồng là 139 tỷ đồng, chiếm 15,68% tổng vốn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước.

Nguồn vốn ngân sách trung ương và địa phương hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng KCN ở các địa phương có điều kiện khó khăn như Hà Nam, Nam Định và Thái Bình đã góp phần tích cực đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN ở các địa phương này.

Một số vấn đề bất cập

Một là: còn có tình trạng chồng chéo về quy hoạch hoặc quy hoạch KCN đã lâu nhưng chưa triển khai ở một số địa phương.

Một số KCN có trong Quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2000 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (tại các Quyết định số 519/TTg ngày 01/10/1998 của Thủ tướng Chính phủ) hoặc đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương xây dựng KCN trước năm 2000 nhưng hiện chưa được thành lập, quy hoạch các KCN này chưa được thực hiện. Nguyên nhân là do không có chủ đầu tư hạ tầng KCN hoặc khả năng xây dựng và mở rộng KCN không thuận lợi (do nằm sát đô thị).

Một số KCN có sự chồng lấn, không thống nhất về quy hoạch, chẳng hạn như việc phê duyệt quy hoạch chi tiết và ban hành điều lệ quản lý xây dựng cụm công nghiệp trên diện tích KCN đã được quy hoạch tại một số KCN gây khó khăn cho chủ đầu tư kết cấu hạ tầng KCN trong quá trình thực hiện.

Một số KCN phát triển từ cụm công nghiệp nên có sự chồng chéo trong việc quản lý nguồn vốn nhà nước đã đầu tư và nguồn vốn đầu tư kinh doanh của công ty hạ tầng, gây nhiều khó khăn trong việc thu phí sử dụng hạ tầng của các doanh nghiệp đã đầu tư vào cụm công nghiệp trước khi thành lập KCN và tạo ra những khó khăn cho việc điều chỉnh quy hoạch chi tiết.

Hai là: một số KCN còn chậm trong triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng.

Trong 6455 ha đất KCN được quy hoạch còn có 494,6 ha đất chưa giải phóng được mặt bằng (chiếm 7,7% đất quy hoạch KCN). Một số KCN triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng còn chậm và thiếu đồng bộ chủ yếu là do việc triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng không đồng loạt. Có những KCN thành lập đã lâu nhưng vẫn còn những diện tích đất chưa được đền bù, giải phóng mặt bằng.

Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trong quá trình giải phóng mặt bằng cho các KCN trong vùng Đồng bằng sông Hồng phải kể đến:

- Mức giá đền bù thay đổi theo xu hướng tăng theo từng thời kỳ do vậy chủ đầu tư hạ tầng phải tính toán lại giá thành, người dân được nhận tiền đề bù trước gây khó khăn cho nhà đầu tư hoặc tâm lý của người dân chờ thay đổi tiếp mức giá đền bù nên đã gây ảnh hưởng tới tiến độ giải phóng mặt bằng cũng như tiến độ thực hiện dự án;

- Giá trị đền bù giải phóng mặt bằng giữa các tỉnh, các khu vực thay đổi do đó người dân có sự so bì không thống nhất phương án đền bù;

- Tâm lý mất đất canh tác, dẫn tới người dân không có việc làm hoặc các chính sách hỗ trợ, tạo việc làm cho người mất đất không phù hợp nên không chịu nhận tiền đền bù hoặc chống đối quá trình giải phóng mặt bằng, đặc biệt là ở các vùng sản xuất nông nghiệp là chủ yếu;

- Quá trình đô thị hóa nhanh, giá đất ngày càng tăng mạnh làm ảnh hưởng tới tâm lý chờ giá tăng mới nhận tiền đền bù giải phóng mặt bằng;

- Một số doanh nghiệp có diện tích cần giải phóng mặt bằng nhỏ, lẻ được đền bù theo phương thức thỏa thuận với chủ đầu tư, thường giá cao hơn so với qui định nên tác động thiếu tích cực tới quá trình đền bù giải phóng mặt bằng;

- Một bộ phận lợi dụng sự dân chủ đòi tăng giá đền bù vượt khung qui định và đòi hỏi nhiều điều kiện bất hợp lý tác động xấu tới công tác đền bù giải phóng mặt bằng. Một số KCN do việc quy hoạch và xây dựng khu tái định cư chậm nên cũng ảnh hưởng tới công tác đền bù giải phóng mặt bằng.

Ba là: thủ tục và điều kiện thành lập và mở rộng một số KCN còn chưa được tuân thủ chặt chẽ, đặc biệt là tiêu chí về môi trường.

Một số địa phương chưa tuân thủ chặt chẽ theo điều kiện và tiêu chí thành lập và mở rộng KCN theo quy định của pháp luật như thành lập KCN khi chưa đáp ứng điều kiện để mở rộng (do chưa có công trình xử lý nước thải tập trung); hoặc diện tích thành lập chưa phù hợp với diện tích trong Quy hoạch được duyệt, hoặc chưa tuân thủ đúng thủ tục thành lập KCN như Quảng Ninh (KCN Cái Lân mở rộng được UBND tỉnh phê duyệt việc mở rộng và thực hiện theo Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ nhưng chưa triển khai thủ tục trình duyệt theo quy định).

Nhiều KCN đã lấp đầy diện tích đất công nghiệp nhưng còn chưa xây dựng công trình xử lý nước thải công nghiệp tập trung. Một số KCN đã có dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung nhưng triển khai còn chậm.

Bốn là: quá trình xây dựng và phát triển KCN đã bước đầu nảy sinh một số vấn đề xã hội như nhà ở cho người lao động, tái định cư cho người bị thu hồi đất.

Trong 14,2 vạn lao động tại các KCN vùng Đồng bằng sông Hồng thì số lao động sử dụng tại chỗ chỉ khoảng từ 10 – 20% còn lại là lao động ở các huyện, tỉnh lân cận đến làm việc phải thuê nhà ở của các người dân xung quanh KCN. Điều kiện ăn ở sinh hoạt của người lao động thuê nhà còn nhiều khó khăn cả về tiện nghi sinh hoạt và giá cả nhà thuê.

Mặc dù đa số các KCN đã có quy hoạch khu đô thị hoặc khu nhà ở phục vụ người lao động, nhưng việc xây dựng nhà ở cho các KCN trong vùng đều mới đang triển khai dự án hoặc mới quy hoạch quỹ đất xây dựng. Thậm chí đã có một số dự án khu đô thị được triển khai xây dựng song lại không phù hợp với đối tượng người lao động hoặc người dân bị thu hồi đất trong KCN. Nguyên nhân chính là do chưa có vốn và chưa có cơ chế, chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư để kêu gọi các nhà đầu tư thực hiện dự án xây dựng nhà ở cho công nhân, hoặc có nhà nhưng giá cho thuê hoặc giá bán quá cao và không phù hợp với thu nhập của người lao động trong KCN.

Năm là: công tác huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân để đầu tư kết cấu hạ tầng KCN vùng nam Đồng bằng sông Hồng còn nhiều khó khăn

Một số KCN ở vùng nam Đồng bằng sông Hồng do điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn thường dựa nhiều vào nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, việc huy động các nguồn vốn khác và các chủ đầu tư để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN còn hạn chế.

Một số đề xuất

Để nâng hiệu quả hoạt động của các KCN, KCX, góp phần triển khai xây dựng KCN, KCX theo quy hoạch, tăng cường cơ hội thu hút đầu tư của các KCN, KCX của địa phương, trong thời gian tới cần chú ý giải quyết một số vấn đề sau:

- Thứ nhất, trong quá trình xây dựng và phát triển KCN, đặc biệt là trong giai đoạn đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, UBND cấp tỉnh cần chỉ đạo các sở, ban, ngành đặc biệt là Ban quản lý KCN, KCX phối hợp đồng bộ trong triển khai.

- Thứ hai, UBND cấp tỉnh trong phạm vi quản lý nhà nước của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho Ban quản lý KCN, KCX thực hiện chức năng quản lý đầu tư và quản lý nhà nước trên các ngành lĩnh vực khác đối với KCN, KCX theo hướng tăng cường phân cấp, uỷ quyền phù hợp với quy định của Luật Đầu tư, Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư và pháp luật hiện hành.

- Thứ ba, chính quyền địa phương cần phải kiên quyết hơn nữa trong việc kiểm soát môi trường KCN, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, tuân thủ chặt chẽ các điều kiện và tiêu chí thành lập và mở rộng KCN quy định tại Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Đặc biệt cần chỉ đạo, hỗ trợ chủ đầu tư huy động các nguồn vốn xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung KCN.

- Thứ tư, nguồn vốn ngân sách trung ương hỗ trợ theo Quyết định 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ đã góp một phần vào công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của địa phương. Tuy nhiên, nguồn vốn ngân sách trung ương và địa phương chỉ có tính chất hỗ trợ trong giai đoạn đầu phát triển KCN, không phải là giải pháp lâu dài. Do đó, UBND cấp tỉnh, Ban quản lý KCN, KCX cần chủ động triển khai việc tìm kiếm chủ đầu tư có năng lực và cần coi việc huy động các nguồn vốn của khu vực tư nhân vào đầu tư kết cấu hạ tầng KCN là định hướng cơ bản trong phát triển KCN thời gian tới. Ngoài ra, việc sử dụng nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương phải bảo đảm được sử dụng đúng mục đích, đối tượng được hỗ trợ quy định tại Quyết định 183/2004/QĐ-TTg.

- Thứ năm, một số KCN thành lập, xây dựng KCN chưa đúng quy định cần tiến hành các thủ tục điều chỉnh quy hoạch hoặc thủ tục đầu tư phù hợp với quy định hiện hành. Một số KCN đã đền bù, giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cần hoàn tất các thủ tục đầu tư theo đúng quy định hiện hành. Trong quá trình hoạt động, UBND tỉnh cần chỉ đạo chủ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN và doanh nghiệp KCN tuân thủ chặt chẽ quy hoạch chi tiết được duyệt.

- Thứ sáu, kiểm tra khả năng thực hiện của các dự án đã được cấp phép đầu tư vào các KCN. Đối với các dự án không có khả năng triển khai, cần kiên quyết rút Giấy phép đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đầu tư để dành đất cho các dự án khác; thúc đẩy các dự án triển khai chậm.

- Thứ bảy, UBND cấp tỉnh tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành trong nghiên cứu, điều chỉnh Quy hoạch phát triển KCN theo hướng xem xét loại bỏ một số KCN đã có trong quy hoạch từ lâu đến nay chưa thành lập, các KCN nằm trong nội đô và nội thị.

Về việc bổ sung quy hoạch KCN, Cần nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung quy hoạch một số KCN ở các địa phương có khả năng thu hút đầu tư cao, thuận lợi trong giải phóng mặt bằng, có mặt bằng rộng lớn và có khoảng cách tương đối so với đô thị, có điều kiện kết nối giao thông thuận lợi,.... Ngoài ra, các địa phương nên hạn chế việc quy hoạch và phát triển các KCN từ các cụm công nghiệp.

(TS. Trần Ngọc Hưng - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý KCN và KCX)

Cập nhật ( 29/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Bất kỳ người lãnh đạo nào, nếu không học tập nổi những việc thiết thực, những người thiết thực và những bộ phận thiết thực của cấp dưới, để rút kinh nghiệm, thì nhất định không biết chỉ đạo chung cho tất cả các bộ phận.”

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com