Cuộc kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch KCN, KCX vùng đồng bằng sông Hồng là một nội dung trong kế hoạch thanh tra, kiểm tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2007. Sau cuộc kiểm tra, nhiều vấn đề tích cực và hạn chế liên quan đến quá trình xây dựng và phát triển KCN, KCX vùng Đồng bằng sông Hồng đã được phân tích, rút kinh nghiệm phục vụ cho quá trình hoạch định cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX và hỗ trợ địa phương phát triển KCN, KCX đúng định hướng, mục tiêu phát triển và phù hợp với quy định của pháp luật.
Đồng bằng sông Hồng gồm 12 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Ninh Bình và Thái Bình. Đây là vùng tập trung khá nhiều KCN, KCX và đang có những dấu hiệu bứt phá trong thu hút đầu tư vào KCN, KCX trong thời gian gần đây. Trong bối cảnh phân cấp mạnh mẽ theo tinh thần của pháp luật về đầu tư và nhiều cơ hội lớn về thu hút đầu tư nước ngoài trên cả nước nói chung và KCN, KCX vùng Đồng bằng sông Hồng nói riêng, triển khai kiểm tra quy hoạch KCN, KCX là một công tác rất cần thiết để hỗ trợ các địa phương phát hiện những thiếu sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mới theo phân cấp, kịp thời chấn chỉnh và cải thiện môi trường đầu tư của địa phương nhằm tận dụng cơ hội thu hút đầu tư trong những năm tới.
Cuộc kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch KCN, KCX vùng đồng bằng sông Hồng là một nội dung trong kế hoạch thanh tra, kiểm tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2007. Sau cuộc kiểm tra, nhiều vấn đề tích cực và hạn chế liên quan đến quá trình xây dựng và phát triển KCN, KCX vùng Đồng bằng sông Hồng đã được phân tích, rút kinh nghiệm phục vụ cho quá trình hoạch định cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX và hỗ trợ địa phương phát triển KCN, KCX đúng định hướng, mục tiêu phát triển và phù hợp với quy định của pháp luật.
Những kết quả cơ bản
Một là: các KCN, KCX vùng Đồng bằng sông Hồng được xây dựng và thành lập về cơ bản phù hợp với quy hoạch được duyệt.
Vùng Đồng bằng sông Hồng đã có 34 KCN được thành lập, trong đó có 23 KCN đang hoạt động và 11 KCN đang trong thời kỳ triển khai xây dựng cơ bản. Tổng diện tích đất quy hoạch phát triển KCN đã thành lập đạt 6.455 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê chiếm 66,3%. So với cả nước, tổng diện tích đất quy hoạch phát triển KCN của vùng Đồng bằng sông Hồng chiếm 20,5%. Tất cả các KCN này đều có trong Quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2000 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại các Quyết định số 519/TTg ngày 6/8/1996, số 713/TTg ngày 30/8/1997 và số 194/1998/QĐ-TTg ngày 01/10/1998; Quy hoạch phát triển KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1107/2006/QĐ-TTg ngày 21/8/2006; hoặc đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương bổ sung vào Quy hoạch phát triển các KCN cả nước. Nhìn chung, các KCN đã được thành lập đều phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và Quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất 5 năm và hàng năm của các địa phương.
Hai là: tốc độ triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, KCX đã có những tiến triển đáng kể, đặc biệt là trong vài năm gần đây.
Nhờ nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đền bù giải phóng mặt bằng trong phát triển KCN, KCX; sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ban, ngành địa phương; năng lực tài chính và kinh nghiệm của chủ đầu tư dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN, KCX nên phần lớn các địa phương đều triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng khẩn trương, tích cực và đạt kết quả tốt. Điển hình là Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nam Định.
Tổng mức đầu tư đăng ký của 34 dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN thuộc vùng đồng bằng sông Hồng đạt 9.625 tỷ đồng và 489 triệu USD. Vốn đầu tư thực hiện kể từ khi khởi công đạt 3.560 tỷ đồng và 317 triệu USD. Như vậy, các dự án phát triển kết cấu hạ tầng đã thực hiện được trên 50% tổng vốn đầu tư với khoảng 53% tổng diện tích đất công nghiệp đã hoàn thành đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng xong cơ sở hạ tầng.
Một số KCN đã đầu tư hoàn chỉnh các hạng mục kết cấu hạ tầng, công trình xử lý nước thải tập trung, công trình tiện nghi, tiện ích công cộng (trung tâm điều hành, cây xanh) gồm các KCN: Thăng Long, Nomura, Cái Lân, Nam Sách, Hà Nội – Đài Tư. Đối với các KCN đang hoạt động khác chủ yếu đang tập trung vào việc hoàn thiện kết cấu hạ tầng, đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung, trồng cây xanh.... Các KCN trước đây triển khai chậm nay đang khẩn trương triển khai công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng gồm: Nam Thăng Long, Bắc Phú Cát, Đồ Sơn và Kim Hoa.
Ba là: cùng với tốc độ đền bù giải phóng mặt bằng được cải thiện, các địa phương triển khai thu hút đầu tư khá nhanh chóng, đạt hiệu quả sử dụng đất khá cao.
Nhiều địa phương triển khai thu hút đầu tư nhanh chóng, không chỉ lấp đầy nhanh diện tích đất công nghiệp của các KCN mà còn thu hút được những dự án có quy mô lớn, có hàm lượng công nghệ cao vào KCN.
Một số KCN đã cơ bản hoàn thành việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và thu hút đầu tư đạt tỷ lệ lấp đầy cao gồm: KCN Nomura, Nam Sách, Đại An, Phúc Điền, Tiên Sơn, Đồng Văn I, Khai Quang, Hoà Xá, Nguyễn Đức Cảnh, Thăng Long, Sài Đồng B.
Các dự án đầu tư vào KCN trong vùng tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp như dệt may, chế biến thực phẩm, sản xuất ôtô, xe máy và phụ tùng, cơ khí chính xác, sản phẩm thép, vật liệu xây dựng, điện-điện tử, linh kiện nhựa... Các KCN đã quan tâm nhiều hơn đến cơ cấu đầu tư vào KCN, có sự lựa chọn nhà đầu tư theo hướng ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao; thu hút một số nhà đầu tư có uy tín vào KCN như: Canon, Orion-Hanel, Sumitomo Bakelite, Rorze Robotech, Brother Industries, Sumidenso…
Các KCN thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng đã thu hút được 447 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 3.767 triệu USD (chiếm 17,7% về số dự án và 16% về số vốn đầu tư của các dự án đầu tư nước ngoài trong các KCN cả nước) và 519 dự án đầu tư trong nước còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 33,46 nghìn tỷ đồng (chiếm 19,2% về số dự án và 22,4% về số vốn đầu tư của các dự án đầu tư trong nước trong các KCN cả nước).
Các KCN vùng Đồng bằng sông Hồng đạt giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN trong vùng năm 2006 đạt gần 3,5 tỷ USD (chiếm khoảng 21% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN cả nước). Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN trong vùng năm 2006 ước đạt khoảng 2 tỷ USD (chiếm 24% tổng giá trị xuất khẩu của các KCN cả nước). Giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN trong vùng năm 2006 ước đạt khoảng 1,2 tỷ USD. Năm 2006, các doanh nghiệp KCN trong vùng nộp ngân sách khoảng 101 triệu USD (chiếm 7% so với tổng số nộp ngân sách của các KCN cả nước). Đến cuối năm 2006, các KCN trong vùng đã thu hút được trên 142 ngàn lao động trực tiếp (chiếm 15% tổng số lao động trực tiếp trong các KCN cả nước).
Nhìn chung, việc sử dụng đất của các nhà đầu tư thuê đất trong các KCN đã đi vào hoạt động trong vùng phù hợp với mục đích sử dụng, thời gian sử dụng đã được phê duyệt. Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp cho thuê của các KCN đã vận hành đạt 72,4%, tương đương mức trung bình của cả nước.
Bốn là: các địa phương đã bước đầu chú ý tới việc đảm bảo các khía cạnh xã hội và môi trường trong phát triển KCN.
Về vấn đề lao động, các doanh nghiệp đang hoạt động tại KCN trong Vùng Đồng bằng sông Hồng hiện đã thu hút được 14,2 vạn lao động trực tiếp. Các KCN thu hút nhiều lao động nhất gồm: KCN Nomura (1,2 vạn lao động), Hoà Xá (1,5 vạn lao động), Nguyễn Đức Cảnh (gần 1,2 vạn lao động), Quang Minh (1,1 vạn lao động), Thăng Long (2,4 vạn lao động), Sài Đồng B (1 vạn lao động), Khai Quang (1 vạn lao động).
Hầu hết các địa phương đều có sự gắn kết giữa quy hoạch KCN với quy hoạch đô thị. Những năm gần đây khi quy hoạch phát triển các KCN, các địa phương đều đã quy hoạch các khu đất để xây dựng nhà ở cho người lao động hoặc quy hoạch các KCN gần các khu quy hoạch khu đô thị. Trong 34 KCN đã có một số KCN xây nhà ở cho người lao động. Tại KCN Thăng Long, UBND thành phố Hà Nội đang triển khai xây dựng 02 tòa nhà 5 tầng tại xã Kim Chung- Đông Anh dự kiến đến giữa năm 2007 sẽ đưa vào sử dụng. Tại KCN Đại An, Công ty cổ phần Đại An đã cho chủ đầu tư thứ cấp thuê chung cư để cho công nhân thuê lại. KCN Tiên Sơn đã xây dựng nhà chung cư cao tầng cho công nhân thuê với 30 căn hộ, diện tích khoảng 60-70 m2/căn hộ, giá thuê một căn hộ khoảng 700.000-900.000 đồng/tháng.
Ngoài việc thực hiện các chính sách đền bù đối với các hộ mất đất theo quy định, các địa phương đã có nhiều biện pháp hỗ trợ người dân bị thu hồi đất trong ổn định cuộc sống như: cấp đất dịch vụ, hỗ trợ đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người lao động, hỗ trợ xây dựng hạ tầng cho địa phương mất đất, ưu tiên tuyển lao động cho các hộ có đất bị thu hồi vào làm việc trong các doanh nghiệp KCN.
Về vấn đề môi trường, một số địa phương rất kiên quyết trong việc bảo đảm môi trường khi tiếp nhận dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư trong những lĩnh vực có nguy cơ ô nhiễm cao như dệt, nhuộm, hoá chất. Nhiều chủ đầu tư đã có ý thức trong việc xây dựng nhà máy xử lý nước thải và bảo vệ môi trường như tại KCN Cái Lân, Nomura, Nam Sách, Phúc Khánh, Thăng Long, Đài Tư và Phố Nối B. Số KCN đã lập dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải hoặc bắt đầu triển khai xây dựng tăng kể từ khi Quyết định 1107/QĐ-TTg được ban hành. Trong 34 KCN thành lập mới, có 7 KCN đã xây dựng nhà máy xử lý nước thải công nghiệp và 1 nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt, đó là:
- KCN Cái Lân: Trạm xử lý nước thải giai đoạn I công suất 2.000 m3/ ngày đêm đã đưa vào vận hành năm 2006, đáp ứng yêu cầu xử lý nước thải của KCN.
- KCN Nomura: Trạm xử lý nước thải công suất 10.800 m3/ngày đêm, nước thải sau khi xử lý bảo đảm tiêu chuẩn loại B trước khi thải ra sông.
- KCN Nam Sách: Trạm xử lý nước thải công suất 3.000 m3/ ngày đêm, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn loại B trước khi thoát ra nguồn.
- KCN Phúc Khánh (phần do chủ đầu tư Đài Loan đầu tư): Trạm xử lý nước thải với công suất 3.700 m3/ngày đêm, hoàn thành vào năm 2005, xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn loại B.
- KCN Thăng Long: Nhà máy xử lý nước thải, công suất 5.000 m3/ ngày đêm, đáp ứng yêu cầu xử lý nước thải của các dự án trong KCN.
- KCN Hà Nội - Đài Tư: Nhà máy xử lý nước thải, công suất 3.600 m3/ ngày đêm.
- KCN Phố Nối B (phần do Công ty hạ tầng Dệt may Phố Nối làm chủ đầu tư): Nhà máy xử lý nước thải với công suất 10.000 m3/ngày đêm, xử lý đạt tiêu chuẩn loại B trước khi thải ra kênh nội đồng.
- KCN Nội Bài: Xây dựng trạm xử lý nước thải sinh hoạt.
5 KCN khác gồm: Đại An, Phúc Điền, Quế Võ, Phố Nối A, Khai Quang đang xây dựng nhà máy xử lý nước thải công nghiệp.
Còn lại 22 KCN chưa xây dựng nhà máy xử lý nước thải công nghiệp.
Năm là: công tác xã hội hoá nguồn vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN được các địa phương thực hiện có hiệu quả.
Với lợi thế về vị trí địa lý, nguồn nhân lực và chính sách khuyến khích đầu tư, các KCN trong vùng kinh tế trọng điểm miền Bắc gồm Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây là địa bàn được khá nhiều nhà đầu tư lớn trong nước, nước ngoài có kinh nghiệm và khả năng tài chính quan tâm. Do đó, phần lớn nguồn vốn đầu tư hạ tầng các KCN ở các tỉnh, thành phố này đều do chủ đầu tư kinh doanh hạ tầng tự huy động. Việc huy động và sử dụng vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, đặc biệt là nguồn vốn khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội và Bắc Ninh tỏ ra có hiệu quả rõ rệt.
Một số KCN thuộc vùng nam Đồng bằng sông Hồng là những tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (gồm Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình) được hỗ trợ từ cả hai nguồn ngân sách địa phương và ngân sách trung ương. ở các tỉnh, thành phố khác thì có hỗ trợ một phần vốn đầu tư từ nguồn ngân sách địa phương chủ yếu để đầu tư kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào KCN. Tổng số vốn ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho các KCN trong vùng là 799,7 tỷ đồng (chiếm 4,5% tổng vốn đầu tư đăng ký của các KCN trong vùng), trong đó vốn ngân sách Trung ương hỗ trợ 4 tỉnh miền Nam vùng Đồng bằng Sông Hồng là 139 tỷ đồng, chiếm 15,68% tổng vốn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước.
Nguồn vốn ngân sách trung ương và địa phương hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng KCN ở các địa phương có điều kiện khó khăn như Hà Nam, Nam Định và Thái Bình đã góp phần tích cực đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN ở các địa phương này.
Một số vấn đề bất cập
Một là: còn có tình trạng chồng chéo về quy hoạch hoặc quy hoạch KCN đã lâu nhưng chưa triển khai ở một số địa phương.
Một số KCN có trong Quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2000 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (tại các Quyết định số 519/TTg ngày 01/10/1998 của Thủ tướng Chính phủ) hoặc đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương xây dựng KCN trước năm 2000 nhưng hiện chưa được thành lập, quy hoạch các KCN này chưa được thực hiện. Nguyên nhân là do không có chủ đầu tư hạ tầng KCN hoặc khả năng xây dựng và mở rộng KCN không thuận lợi (do nằm sát đô thị).
Một số KCN có sự chồng lấn, không thống nhất về quy hoạch, chẳng hạn như việc phê duyệt quy hoạch chi tiết và ban hành điều lệ quản lý xây dựng cụm công nghiệp trên diện tích KCN đã được quy hoạch tại một số KCN gây khó khăn cho chủ đầu tư kết cấu hạ tầng KCN trong quá trình thực hiện.
Một số KCN phát triển từ cụm công nghiệp nên có sự chồng chéo trong việc quản lý nguồn vốn nhà nước đã đầu tư và nguồn vốn đầu tư kinh doanh của công ty hạ tầng, gây nhiều khó khăn trong việc thu phí sử dụng hạ tầng của các doanh nghiệp đã đầu tư vào cụm công nghiệp trước khi thành lập KCN và tạo ra những khó khăn cho việc điều chỉnh quy hoạch chi tiết.
Hai là: một số KCN còn chậm trong triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng.
Trong 6455 ha đất KCN được quy hoạch còn có 494,6 ha đất chưa giải phóng được mặt bằng (chiếm 7,7% đất quy hoạch KCN). Một số KCN triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng còn chậm và thiếu đồng bộ chủ yếu là do việc triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng không đồng loạt. Có những KCN thành lập đã lâu nhưng vẫn còn những diện tích đất chưa được đền bù, giải phóng mặt bằng.
Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trong quá trình giải phóng mặt bằng cho các KCN trong vùng Đồng bằng sông Hồng phải kể đến:
- Mức giá đền bù thay đổi theo xu hướng tăng theo từng thời kỳ do vậy chủ đầu tư hạ tầng phải tính toán lại giá thành, người dân được nhận tiền đề bù trước gây khó khăn cho nhà đầu tư hoặc tâm lý của người dân chờ thay đổi tiếp mức giá đền bù nên đã gây ảnh hưởng tới tiến độ giải phóng mặt bằng cũng như tiến độ thực hiện dự án;
- Giá trị đền bù giải phóng mặt bằng giữa các tỉnh, các khu vực thay đổi do đó người dân có sự so bì không thống nhất phương án đền bù;
- Tâm lý mất đất canh tác, dẫn tới người dân không có việc làm hoặc các chính sách hỗ trợ, tạo việc làm cho người mất đất không phù hợp nên không chịu nhận tiền đền bù hoặc chống đối quá trình giải phóng mặt bằng, đặc biệt là ở các vùng sản xuất nông nghiệp là chủ yếu;
- Quá trình đô thị hóa nhanh, giá đất ngày càng tăng mạnh làm ảnh hưởng tới tâm lý chờ giá tăng mới nhận tiền đền bù giải phóng mặt bằng;
- Một số doanh nghiệp có diện tích cần giải phóng mặt bằng nhỏ, lẻ được đền bù theo phương thức thỏa thuận với chủ đầu tư, thường giá cao hơn so với qui định nên tác động thiếu tích cực tới quá trình đền bù giải phóng mặt bằng;
- Một bộ phận lợi dụng sự dân chủ đòi tăng giá đền bù vượt khung qui định và đòi hỏi nhiều điều kiện bất hợp lý tác động xấu tới công tác đền bù giải phóng mặt bằng. Một số KCN do việc quy hoạch và xây dựng khu tái định cư chậm nên cũng ảnh hưởng tới công tác đền bù giải phóng mặt bằng.
Ba là: thủ tục và điều kiện thành lập và mở rộng một số KCN còn chưa được tuân thủ chặt chẽ, đặc biệt là tiêu chí về môi trường.
Một số địa phương chưa tuân thủ chặt chẽ theo điều kiện và tiêu chí thành lập và mở rộng KCN theo quy định của pháp luật như thành lập KCN khi chưa đáp ứng điều kiện để mở rộng (do chưa có công trình xử lý nước thải tập trung); hoặc diện tích thành lập chưa phù hợp với diện tích trong Quy hoạch được duyệt, hoặc chưa tuân thủ đúng thủ tục thành lập KCN như Quảng Ninh (KCN Cái Lân mở rộng được UBND tỉnh phê duyệt việc mở rộng và thực hiện theo Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ nhưng chưa triển khai thủ tục trình duyệt theo quy định).
Nhiều KCN đã lấp đầy diện tích đất công nghiệp nhưng còn chưa xây dựng công trình xử lý nước thải công nghiệp tập trung. Một số KCN đã có dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung nhưng triển khai còn chậm.
Bốn là: quá trình xây dựng và phát triển KCN đã bước đầu nảy sinh một số vấn đề xã hội như nhà ở cho người lao động, tái định cư cho người bị thu hồi đất.
Trong 14,2 vạn lao động tại các KCN vùng Đồng bằng sông Hồng thì số lao động sử dụng tại chỗ chỉ khoảng từ 10 – 20% còn lại là lao động ở các huyện, tỉnh lân cận đến làm việc phải thuê nhà ở của các người dân xung quanh KCN. Điều kiện ăn ở sinh hoạt của người lao động thuê nhà còn nhiều khó khăn cả về tiện nghi sinh hoạt và giá cả nhà thuê.
Mặc dù đa số các KCN đã có quy hoạch khu đô thị hoặc khu nhà ở phục vụ người lao động, nhưng việc xây dựng nhà ở cho các KCN trong vùng đều mới đang triển khai dự án hoặc mới quy hoạch quỹ đất xây dựng. Thậm chí đã có một số dự án khu đô thị được triển khai xây dựng song lại không phù hợp với đối tượng người lao động hoặc người dân bị thu hồi đất trong KCN. Nguyên nhân chính là do chưa có vốn và chưa có cơ chế, chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư để kêu gọi các nhà đầu tư thực hiện dự án xây dựng nhà ở cho công nhân, hoặc có nhà nhưng giá cho thuê hoặc giá bán quá cao và không phù hợp với thu nhập của người lao động trong KCN.
Năm là: công tác huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân để đầu tư kết cấu hạ tầng KCN vùng nam Đồng bằng sông Hồng còn nhiều khó khăn
Một số KCN ở vùng nam Đồng bằng sông Hồng do điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn thường dựa nhiều vào nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, việc huy động các nguồn vốn khác và các chủ đầu tư để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN còn hạn chế.
Một số đề xuất
Để nâng hiệu quả hoạt động của các KCN, KCX, góp phần triển khai xây dựng KCN, KCX theo quy hoạch, tăng cường cơ hội thu hút đầu tư của các KCN, KCX của địa phương, trong thời gian tới cần chú ý giải quyết một số vấn đề sau:
- Thứ nhất, trong quá trình xây dựng và phát triển KCN, đặc biệt là trong giai đoạn đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, UBND cấp tỉnh cần chỉ đạo các sở, ban, ngành đặc biệt là Ban quản lý KCN, KCX phối hợp đồng bộ trong triển khai.
- Thứ hai, UBND cấp tỉnh trong phạm vi quản lý nhà nước của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho Ban quản lý KCN, KCX thực hiện chức năng quản lý đầu tư và quản lý nhà nước trên các ngành lĩnh vực khác đối với KCN, KCX theo hướng tăng cường phân cấp, uỷ quyền phù hợp với quy định của Luật Đầu tư, Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư và pháp luật hiện hành.
- Thứ ba, chính quyền địa phương cần phải kiên quyết hơn nữa trong việc kiểm soát môi trường KCN, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, tuân thủ chặt chẽ các điều kiện và tiêu chí thành lập và mở rộng KCN quy định tại Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Đặc biệt cần chỉ đạo, hỗ trợ chủ đầu tư huy động các nguồn vốn xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung KCN.
- Thứ tư, nguồn vốn ngân sách trung ương hỗ trợ theo Quyết định 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ đã góp một phần vào công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của địa phương. Tuy nhiên, nguồn vốn ngân sách trung ương và địa phương chỉ có tính chất hỗ trợ trong giai đoạn đầu phát triển KCN, không phải là giải pháp lâu dài. Do đó, UBND cấp tỉnh, Ban quản lý KCN, KCX cần chủ động triển khai việc tìm kiếm chủ đầu tư có năng lực và cần coi việc huy động các nguồn vốn của khu vực tư nhân vào đầu tư kết cấu hạ tầng KCN là định hướng cơ bản trong phát triển KCN thời gian tới. Ngoài ra, việc sử dụng nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương phải bảo đảm được sử dụng đúng mục đích, đối tượng được hỗ trợ quy định tại Quyết định 183/2004/QĐ-TTg.
- Thứ năm, một số KCN thành lập, xây dựng KCN chưa đúng quy định cần tiến hành các thủ tục điều chỉnh quy hoạch hoặc thủ tục đầu tư phù hợp với quy định hiện hành. Một số KCN đã đền bù, giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cần hoàn tất các thủ tục đầu tư theo đúng quy định hiện hành. Trong quá trình hoạt động, UBND tỉnh cần chỉ đạo chủ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN và doanh nghiệp KCN tuân thủ chặt chẽ quy hoạch chi tiết được duyệt.
- Thứ sáu, kiểm tra khả năng thực hiện của các dự án đã được cấp phép đầu tư vào các KCN. Đối với các dự án không có khả năng triển khai, cần kiên quyết rút Giấy phép đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đầu tư để dành đất cho các dự án khác; thúc đẩy các dự án triển khai chậm.
- Thứ bảy, UBND cấp tỉnh tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành trong nghiên cứu, điều chỉnh Quy hoạch phát triển KCN theo hướng xem xét loại bỏ một số KCN đã có trong quy hoạch từ lâu đến nay chưa thành lập, các KCN nằm trong nội đô và nội thị.
Về việc bổ sung quy hoạch KCN, Cần nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung quy hoạch một số KCN ở các địa phương có khả năng thu hút đầu tư cao, thuận lợi trong giải phóng mặt bằng, có mặt bằng rộng lớn và có khoảng cách tương đối so với đô thị, có điều kiện kết nối giao thông thuận lợi,.... Ngoài ra, các địa phương nên hạn chế việc quy hoạch và phát triển các KCN từ các cụm công nghiệp.
(TS. Trần Ngọc Hưng - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý KCN và KCX)
|