Tuần -14 - Ngày 25/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với văn hóa Trung Quốc
16/10/2011


Trong bài phát biểu ngày 3/9/2004 tại Diễn đàn đỉnh cao văn hóa 2004 tại Bắc Kinh, GS Dương Chấn Ninh (Nobel Vật lý năm 1957), cho rằng Kinh Dịch ảnh hưởng sâu sắc đến cách tư duy trong văn hóa Trung Quốc và đây là một trong các nguyên nhân quan trọng làm cho khoa học cận đại không nảy sinh tại Trung Quốc
.
 

Dương Chấn Ninh hiện là Giao sư ĐH Thanh Hoa
Bắc Kinh và ĐH Hồng Công.

















Đề tài bài nói của tôi là Ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với văn hóa truyền thống Trung Quốc; trong mấy chục phút sau đây tôi sẽ bàn về nhiều quan niệm: tinh giản, tỉ loại [1], thiên nhân hợp nhất, liên tưởng, thủ tượng, sự hình thành Hán ngữ và Hán tự, quy nạp. Trong một thời gian ngắn không thể nói rõ nhiều quan niệm như vậy, nên xin chỉ tập trung bàn 3 vấn đề sau: [Hình 1]


Tinh thần của Kinh Dịch là gì: cô đọng hóa, phân loại hóa, trừu tượng hóa, tinh giản hóa, ký hiệu [phù hiệu] hóa ... là tinh thần của Kinh Dịch. Tôi cho rằng tinh thần ấy xuyên suốt đến từng xó xỉnh trong nền văn hóa truyền thống Trung Quốc mấy nghìn năm.
1) Kinh Dịch ảnh hưởng tới phương thức tư duy của văn hóa truyền thống Trung Quốc; ảnh hưởng đó là một trong các nguyên nhân quan trọng khiến cho khoa học cận đại không thể nảy sinh tại Trung Quốc.

2) Kinh Dịch là một trong các nguyên nhân làm cho Hán ngữ trở thành ngôn ngữ đơn âm.

3) Kinh Dịch ảnh hưởng tới quan niệm thẩm mỹ của văn hóa Trung Quốc.

 
Hình 1. Chữ ở chính tâm vòng tròn:  “Dịch”
Các chữ ở trên vòng tròn, theo chiều kim đồng hồ, từ vị trí chính giữa trên: “Tinh giản”,  “Thiên nhân hợp nhất”, “Liên tưởng”,  “Hán ngữ”, “Hán tự”, “Quy nạp”, “Thủ tượng”, “Tỉ loại”

Tôi làm công tác nghiên cứu vật lý, chưa từng nghiên cứu sử học, khảo cổ học, ngôn ngữ học, mỹ học, triết học; nhưng gần đây tôi bắt đầu quan tâm tới nguồn gốc hình thành văn hóa Trung Quốc. Bởi vậy, nhân dịp này tôi xin mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ của mình.

Mọi người đều biết Kinh Dịch là một văn bản rất cổ của Trung Quốc, nghe nói từ triều đại nhà Hạ đã có bản Kinh Dịch sớm nhất, gọi là Liên Sơn. Đời nhà Thương có sưu tập bảo quản nhưng đều thất truyền. Kinh Dịch mà chúng ta hiện nay được thấy là Chu Dịch thời Tây Chu. Cho nên thời gian thai nghén Kinh Dịch ít nhất trải qua hơn 1000 năm. Tôi nghĩ mọi người có thể đồng ý với kết luận đó.

64 quẻ của Kinh Dịch bắt đầu bằng quẻ Càn và quẻ Khôn. Nếu hỏi Kinh Dịch hình thành như thế nào, tôi cho rằng mọi người có thể chấp nhận cách nói như sau: Trung Quốc phát triển bói toán sớm nhất, vì muốn hiểu bói toàn một cách có hệ thống nên đã phát triển quái phù [ký hiệu của quẻ]. Tất cả 64 quẻ đều có quái phù. Càn là 6 vạch nét liền. Khôn là 6 vạch nét đứt. Sau khi có quái phù còn phải có tên gọi [quái danh] và chữ [tự] cho mỗi quẻ. Tên quẻ có âm [âm thanh]; có âm vẫn chưa đủ, bèn có một chữ [tự]. Có lẽ thứ tự trước sau quá trình phát triển này là như vậy. Vì tôi không nghiên cứu khảo cổ học nên tôi nghĩ rằng rất có thể cái thứ tự ấy ít nhiều có phần đúng.

Chúng ta biết rằng niên đại thai nghén Kinh Dịch cũng là niên đại Hán ngữ, Hán tự bắt đầu hình thành, là niên đại thai nghén nền văn hóa Trung Hoa. Những quẻ này là “Tượng”; trong Chu Dịch có nói như thế. “Tượng” là quan niệm đã cô đọng, là cái “Tượng” dùng quái phù, tên quẻ để phân loại sự biến thiên của trời, đất, người.

Có thể nói đoạn trình bày ở trên dùng ngôn ngữ ngày nay để thuật lại chuyện rốt cuộc tinh thần của Kinh Dịch là gì: cô đọng hóa, phân loại hóa, trừu tượng hóa, tinh giản hóa, ký hiệu [phù hiệu] hóa ... là tinh thần của Kinh Dịch. Tôi cho rằng tinh thần ấy xuyên suốt đến từng xó xỉnh trong nền văn hóa truyền thống Trung Quốc mấy nghìn năm.

Chẳng hạn có cực nhiều thí dụ về tinh giản phân loại. Ngày nay ta đều biết trong lý luận Trung Y có một điểm quan trọng là chia bệnh tật và y dược thành các loại âm dương, nóng lạnh, trong ngoài; dùng quan niệm phân loại này làm tiền đề lớn để phát triển lý luận Trung Y. Đó là thứ truyền lại từ truyền thống của Kinh Dịch. Ta có thể nêu ra rất nhiều thí dụ như vậy.

Nguyên nhân làm cho khoa học cận đại không nảy sinh ở Trung Quốc

Vì sao khoa học cận đại không nảy sinh tại Trung Quốc ? Vấn đề này đã có rất nhiều người bàn thảo. Quy nạp lại, đại để có 5 lẽ sau.

Thứ nhất, truyền thống của Trung Quốc là nhập thế chứ không phải xuất thế. Nói cách khác là tương đối chú trọng thực tế, không chú trọng lý luận trừu tượng.

Thứ hai, [Trung Quốc áp dụng] chế độ khoa cử.

Thứ ba, [văn hóa truyền thống Trung Quốc] có quan niệm cho rằng kỹ thuật không quan trọng, cho rằng đó chỉ là “Kỳ kỹ dâm sảo” [sản phẩm kỳ dị mà tinh xảo].

Thứ tư, [văn hóa] truyền thống Trung Quốc không có phương pháp tư duy kiểu suy diễn.

Thứ năm, có quan niệm Thiên nhân hợp nhất.

Tôi cho rằng điểm thứ 4 và 5 có quan hệ khăng khít với Kinh Dịch.

Trước hết nói về điểm thứ tư.

Nội hàm của Thiên nhân hợp nhất quyết không phải chỉ là “nội ngoại nhất lý” mà còn có “Thiên nhân hài hòa” quan trọng hơn. Thiên nhân hài hòa có ảnh hưởng cực lớn tới truyền thống Trung Quốc.
Phương pháp tư duy của khoa học cận đại có đồ thị như sau về hai loại phương pháp tư duy kiểu suy diễn và kiểu quy nạp. [Hình 2]


Quy nạp và suy diễn [tiếng Anh là Inductive method và Deductive method] đều là phương pháp tư duy không thể thiếu trong khoa học cận đại. Để trình bày rõ điểm này, ta hãy xem xét lịch sử xây dựng phương trình Maxwell do Maxwell (1831-1879) sáng lập.


Hình 2. Hình bên trái, từ trên xuống:  “Quy luật tự nhiên”;  chữ trong khung: “Quy nạp”
Hình bên phải, từ trên xuống:  “Quy luật tự nhiên”;  chữ trong khung: “Suy diễn”
Dòng chữ ở dưới: Hai phương pháp tìm kiếm quy luật tự nhiên của khoa học cận đại. Phương pháp quy nạp được biểu diễn bằng đường nét đứt thể hiện sự khó khăn của phương pháp này. Phương pháp suy diễn được biểu diễn bằng nét liền, thể hiện sự dễ dàng của phương pháp này.

Maxwell là nhà vật lý vĩ đại nhất thế kỷ XIX. Vào giữa thế kỷ ấy, ông viết ba bài báo đặt nền móng kết cấu chính xác cho sóng điện từ, qua đó làm thay đổi lịch sử nhân loại. Các phát minh sau này được phát triển trong thế kỷ XX như vô tuyến điện, truyền hình, thông tin mạng v.v... tất cả đều dựa trên cơ sở phương trình Maxwell. Vậy ông làm như thế nào để có được kết quả có tính chất đánh dấu thời đại như thế?

Trong bài báo thứ nhất, Maxwell đã sử dụng phép quy nạp; trong đó có một đoạn như sau :

“Chúng ta cần nhận thức được việc các nhánh của vật lý học rất giống nhau; tức là nói trong vật lý học có các nhánh khác nhau nhưng kết cấu của chúng lại có thể chứng minh lẫn cho nhau.”

Ông dùng quan niệm đó để nghiên cứu ra cách viết phương trình điện từ học, lấy một số phương trình cơ học chất lỏng làm bản gốc. Phương pháp nghiên cứu này tuân theo tinh thần của phép quy nạp.

Mấy năm sau, trong bài báo thứ ba, ông vận dụng phương pháp suy diễn vào phương trình điện từ (được lập nên bằng phương pháp quy nạp), đi tới kết luận : các phương trình đó thể hiện điện từ có thể truyền đi dưới hình thức sóng với tốc độ sóng phù hợp tốc độ ánh sáng lúc ấy đã biết, cho nên “ánh sáng tức là sóng điện từ”. Đây là một suy luận đánh dấu thời đại, nó đã thúc đẩy sự phát triển KHKT thế kỷ XX và phương thức sinh hoạt của loài người ngày nay.

Câu chuyện trên thể hiện rõ phương pháp quy nạp và suy diễn đồng thời là phương pháp tư duy cơ bản của khoa học cận đại.

Một đặc sắc lớn của văn hóa truyền thống Trung Hoa là có phương pháp quy nạp nhưng không có phương pháp suy diễn. Trong đó đâu là nguồn gốc của phương pháp quy nạp ?
“Dịch giả tượng dã”, “Thánh nhân lập tượng dĩ tận ý”, “Thủ tượng bỉ loại”, “Quan vật thủ tượng”.

Những câu này đều quán xuyến tinh thần của Kinh Dịch, đều là phép quy nạp, là phương pháp hướng lên trên tìm cái “Tượng” toàn bộ.

Thế nhưng văn hóa Trung Hoa không phát triển ra phép suy diễn. Làm sao ta có thể chứng minh khiếm khuyết ấy ? Mời quý vị xem một số câu nói của Từ Quang Khải (1562-1633), một vị đại thần cuối thời nhà Minh, cũng là một đại học giả. Mọi người đều biết ông là người đầu tiên hợp tác với Matteo Ricci [2] phiên dịch bản gốc tác phẩm hình học của Euclide; hai người đã dịch được 6 chương đầu tiên. Hiện nay trong nước còn giữ được mấy bản dịch gốc của họ. Tôi có lần đến Thư viện Bắc Kinh mượn đọc bản gốc đó.

Hình học Euclide là một cống hiến lớn trong lịch sử loài người, đầu tiên quy luật hóa phép suy diễn, có ảnh hưởng rất lớn, không thể tính toán được. Sau này Newton viết Principia Mathematica [Nguyên lý toán học của khoa học tự nhiên]. Nếu đọc cuốn sách ấy thì bạn sẽ thấy phương pháp viết của Newton hoàn toàn theo phương pháp trong bản gốc Hình học Euclide, tức là từ các tiên đề, định lý đi tới chứng minh v.v...Cuốn sách ấy sao chép hình thức phép suy diễn của Euclide. Điều không may là Từ Quang Khải dịch sách hình học Euclide tuy sớm (hồi đó Newton chưa ra đời) nhưng trong gần 300 năm sau khi dịch, sách này chưa gây được ảnh hưởng nên có tại Trung Quốc.

Sau khi dịch sách nói trên, Từ Quang Khải hiểu được một đặc điểm của phép suy diễn là “Dục tiền hậu cánh trí bất khả đắc [Không được thay đổi thứ tự trước sau].”

Tức là không được đảo lộn thứ tự các suy luận. Điều này khác với truyền thống của Trung Quốc. Truyền thống Trung Quốc không chú ý logic, không chú ý thứ tự thuyết lý, đòi hỏi người đọc tự mình hiểu ra kết luận cuối cùng. Từ Quang Khải còn có mấy câu rất nổi tiếng như sau:

Tự chí hối, thực chí minh [có vẻ tối tăm, thực ra là sáng sủa],

Tự chí phồn, thực chí giản [có vẻ phức tạp, thực ra đơn giản],

Tự chí nan, thực chí dịch [có vẻ khó, thực ra dễ].

Đây cũng là đặc điểm của phương pháp suy diễn. Sau khi hiểu được tinh thần của phương pháp suy diễn thì sẽ hiểu được suy diễn thực ra dễ hơn quy nạp. Xin xem hình vẽ 2.

Dưới đây xin nói về điểm thứ 5, tức quan niệm “Thiên nhân hợp nhất”

“Thiên nhân nhất vật”, “Lý nhất phân thù”, “Nội ngoại nhất lý” bắt nguồn từ chỗ mỗi một quẻ trong Kinh Dịch đều bao hàm đạo trời, đạo đất, và đạo người (nhân đạo), quy luật của trời và quy luật của người là một.

Chúng ta đều biết Vương Dương Minh khi tìm hiểu cây tre [nguyên văn : cách trúc tử ?] muốn dùng cái “Lý” [lý lẽ] trong đời người để tìm kiếm cái “Lý” trong giới tự nhiên. Dĩ nhiên làm như thế không thể nào sáng tạo được khoa học cận đại. Một đặc điểm của khoa học cận đại là phải thoát ra khỏi quan niệm Thiên nhân hợp nhất, phải thừa nhận đời người có quy luật của đời người, có các hiện tượng phức tạp của đời người; thiên nhiên có quy luật của thiên nhiên, có các hiện tượng phức tạp của thiên nhiên. Trời và người là hai chuyện khác nhau, không thể hợp làm một.

Tất nhiên tôi nói như thế sẽ làm cho rất nhiều người, nhất là những người nghiên cứu triết học Trung Quốc, cảm thấy tôi công kích triết học truyền thống Trung Quốc ghê gớm quá. Tôi hoàn toàn không có ý công kích. Nội hàm của Thiên nhân hợp nhất quyết không phải chỉ là “nội ngoại nhất lý” mà còn có “Thiên nhân hài hòa” quan trọng hơn. Thiên nhân hài hòa có ảnh hưởng cực lớn tới truyền thống Trung Quốc. Vả lại khi nói về hiện trạng thế giới ngày nay, chúng ta có thể hỏi, vứt bỏ Thiên nhân hợp nhất mà hoàn toàn dùng các biện pháp của phương Tây để phát triển thế giới phải chăng sẽ có hiện tượng Thiên nhân đối lập? Đây là một đề tài vô cùng quan trọng, nhưng nó không nằm trong phạm vi tôi có thể thảo luận hôm nay.

Nguồn gốc của Hán ngữ, Hán tự

Các ngôn ngữ nguyên thủy và ngôn ngữ chín muồi trên thế giới đều là ngôn ngữ đa âm [nguyên văn: phức âm]; rất hiếm có ngôn ngữ đơn âm. Tôi không nắm được bất kỳ một ngôn ngữ chín muồi nào khác là ngôn ngữ đơn âm như Hán ngữ. Gần đây các nhà khảo cổ phát hiện 16 nghìn năm trước, người dân Giang Tây đã thu thập lúa dại để làm lương thực chính. Cho nên hơn 10 nghìn năm trước đã hình thành văn hóa Trung Hoa. Ta có thể tin rằng hồi ấy họ đã có ngôn ngữ. Ta cũng có lý do có thể giả thiết những ngôn ngữ mà tổ tiên ta sử dụng hồi ấy là ngôn ngữ đa âm. Thế thì vì sao sau này lại biến ra thành Hán ngữ đơn âm?

Từ Hán ngữ đa âm biến thành Hán ngữ đơn âm nhất định phải trải qua một quá trình rất dài, hơn nữa nhất định phải có lý lẽ của nó, vì đây là một chuyện rất độc đáo.
Tôi cho rằng thời đại hình thành văn hóa Trung Hoa, thời đại hình thành Hán ngữ đã chịu ảnh hưởng từ tên gọi các quẻ trong Kinh Dịch, từ Kinh Dịch phát triển ra quan niệm ở tầng sâu cho rằng tinh giản là đẹp, cô đọng là đẹp
Tôi có một giả thiết mạnh dạn như sau : sự biến đổi đó chịu ảnh hưởng của Kinh Dịch. Tên quẻ [quái danh] là đơn âm. Càn, Khôn, .... đều đơn âm cả. Đó là những từ tầng lớp thống trị sử dụng, có tính chất thần bí, có ảnh hưởng lớn, đọc lên có sức mạnh. Lâu ngày nó sẽ hình thành một giá trị quan coi trọng ký hiệu [phù hiệu] đơn âm, về sau ảnh hưởng tới toàn bộ sự phát triển Hán ngữ.


Hôm nay tại đây có sự hiện diện của các chuyên gia ngôn ngữ; ý kiến của tôi là rất mạnh dạn, hy vọng sẽ không bị các nhà ngôn ngữ học đập cho tơi bời. Chúng ta xem : Nguyên, Hưởng, Lợi, Trinh, Cát, Hung, Âm, Dương, Nhật, Nguyệt, Thiên, Địa - những chữ đơn âm này có thanh có sắc, có sức nặng, nói ra có tác động, dĩ nhiên có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ ngôn ngữ văn tự. Cho nên vừa rồi tôi nói tôi đoán là Hán ngữ, Hán tự sở dĩ biến thành ngôn ngữ văn tự đơn âm là có quan hệ khăng khít với Kinh Dịch.

Quan niệm thẩm mỹ của văn hóa Trung Hoa

Tinh thần cô đọng hóa, phân loại hóa, trừu tượng hóa, tinh giản hóa, ký hiệu hóa của Kinh Dịch có ảnh hưởng cực kỳ sâu rộng đối với văn hóa Trung Hoa. Dưới đây tôi xin bàn qua về ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với Hán ngữ, văn phạm Hán ngữ, văn học, nghệ thuật, thư pháp.

Từ Word trong tiếng Anh thường được dịch là “chữ” (tự). Dịch như thế không thỏa đáng. Nên dịch là “từ”, cấu tạo bởi một hoặc vài chữ. Thí dụ “hiện đại”, “sở dĩ” đều là từ có 2 chữ. Từ có thể cấu tạo bởi một, hai hoặc nhiều chữ, nhưng tuyệt đại đa số là 1 hoặc 2 chữ, ít từ có 3 chữ trở lên. Phần lớn từ có 3 chữ hoặc trên 3 chữ là phức từ, hoặc là từ dịch âm. Thí dụ “ngoại tổ phụ [ông ngoại]”, “Động Đình hồ” là phức từ; “Thành Cát Tư Hãn” là từ dịch âm.
Thế kỷ XIX Trung Quốc bắt đầu phiên dịch tên các nguyên tố, khi ấy cũng chỉ dùng một chữ, như “Dưỡng [oxygen]”, “Lưu [sulphur]”, “Lôi [radium]”; những từ này trong tiếng Anh đều là từ đa âm, khi người Trung Quốc dịch đều biến thành một từ đơn âm.

Vì sao lại hà tiện [từ ngữ] thế? Tôi cho rằng thời đại hình thành văn hóa Trung Hoa, thời đại hình thành Hán ngữ đã chịu ảnh hưởng từ tên gọi các quẻ trong Kinh Dịch, từ Kinh Dịch phát triển ra quan niệm ở tầng sâu cho rằng tinh giản là đẹp, cô đọng là đẹp. Quan niệm thẩm mỹ đó đã ảnh hưởng tới sự hình thành từ.

Tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều có văn phạm [văn pháp] tầng sâu như nhau, sau đấy các ngữ hệ khác nhau tự phát triển trên cơ sở văn phạm tầng sâu đó. Đây là một phát hiện lớn của Chomsky. So sánh các ngôn ngữ khác nhau sẽ thấy mỗi loại ngôn ngữ đều có danh từ, động từ, tính từ [adjjective], giới từ [adverb] v.v...Nhưng Hán ngữ có một đặc điểm lớn là rất ít dùng giới từ. Thí dụ không nói “Bố của tôi” mà nói “Bố tôi”; không nói “chạy một cách chầm chậm” mà nói “chạy chậm”, bỏ bớt giới từ. Cho nên người phương Tây nói Trung văn là văn tự kiểu điện báo telex, nhất là cổ văn. Những áng cổ văn hay đúng là văn học cực đẹp. Một trong các nguyên nhân đẹp là cổ văn không tuân theo phương thức phát triển văn phạm thông thường và cố gắng dùng ít từ nhất để diễn đạt nhiều ý nhất. Quan niệm thẩm mỹ này là sự tiếp nối của tinh thần cô đọng hóa, tinh giản hóa trong Kinh Dịch.


Hình 3. Chữ trong vòng trên : « Phong »’ chữ trong vòng dưới: bên trái là “Phong”, bên phải là “Vân”

Trong bất cứ nền văn học nào trên thế giới, liên tưởng đều có vai trò quan trọng, mà trong văn học Hán văn thì nó có vị trí đặc biệt quan trọng, bởi lẽ các từ trong Hán văn thường thường cấu tạo bởi một số chữ đơn âm, thường hay được hình thành căn cứ theo liên tưởng. Thí dụ từ “phong khí”, “phong vân”, “phong lưu”, “phong cảnh”, “phong quan”, “phong vũ” đều là các từ hình thành từ sự liên tưởng. Có thể dùng hình vẽ sau để biểu thị từ “phong vân” (Hình 3)
Kết cấu của từ này càng tiến một bước thúc đẩy văn học Hán văn diễn biến trở thành văn học liên tưởng, “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” [3], “Tần thời minh nguyệt Hán thời quan” [4] đều là sự liên tưởng đã thăng hoa.

Ý cảnh được hội họa truyền thống Trung Hoa theo đuổi thì hoàn toàn khác với hội họa truyền thống phương Tây, là hình vẽ “quan vật thủ tượng [xem vật lấy hình]” chứ không phải hình vẽ chụp hình; là hình vẽ tinh thần chứ không phải hình vẽ giống nhau; là hình vẽ thiên nhân hợp nhất chứ không phải hình vẽ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên. Tôi cho rằng tinh thần tư duy ấy bắt nguồn từ Kinh Dịch.
Còn nói về ảnh hưởng của Kinh Dịch đối với thư pháp [thư họa] thì càng rõ hơn. Thư pháp có vai trò cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Hoa truyền thống, các nền văn hóa khác không có thư pháp.

Nhưng rõ ràng thư pháp có mối quan hệ trực tiếp với tinh thần cô đọng hóa, ký hiệu hóa, trừu tượng hóa của Kinh Dịch. Ông Hùng Bỉnh Minh bạn tôi, một nhà thư pháp, nhà điêu khắc, nhà văn, nhà bình luận văn học có viết trong sách “Hệ thống lý luận thư pháp Trung Quốc” rằng cốt lõi của văn hóa Trung Quốc là triết học, cốt lõi của cốt lõi văn hóa Trung Quốc là thư pháp. Sở dĩ tôi hoàn toàn đồng ý câu ấy của ông là do thư pháp đã cụ thể hóa, hiện thực hóa tinh thần của Kinh Dịch.

Nguyễn Hải Hoành  lược dịch (tiasang.com,vn)

Ghi chú của người dịch:


[1] Gọi đầy đủ là “Thủ tượng tỉ loại”: một phương pháp tư duy vận dụng các khái niệm trực quan có cảm tính, hình tượng và ký hiệu để diễn tả ý nghĩa trừu tượng của thế giới được nghiên cứu, thông qua phương thức loại suy, tượng trưng. Còn gọi là phương pháp tư duy “ý tượng”. Có lẽ chỉ có ở TQ.
[2] Matteo Ricci (1552-1610), người Ý, nhà truyền đạo Thiên Chúa; 1582 đến TQ, quen nhiều học giả TQ; có công giới thiệu khoa học tự nhiên phương Tây cho TQ.
[3] Là câu đầu tiên trong bài thơ 4 câu Thanh Bình Điệu của Lý Bạch, nhằm tả vẻ đẹp của Dương Quý Phi, ý nói: Nhìn mây mà nghĩ tới xiêm y của Dương; nhìn hoa mà nghĩ tới dung mạo của Dương. Trần Trọng San dịch là : Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây.
[4] Là câu đầu tiên trong 4 câu bài thơ thất ngôn tuyệt cú Xuất Tái (chu sai) của nhà thơ Vương Xương Linh đời Đường, ý nói : Nhìn trăng sáng mà nghĩ tới nơi biên ải (Vẫn là trăng sáng thời nhà Tần, vẫn là biên ải thời nhà Hán, nhưng quan san đã thay đổi, thời Tần Hán đã qua rồi. Câu tiếp sau là: tướng sĩ viễn chinh tới nay vẫn chưa trở về. Bài thơ nói lên sự tàn khốc của chiến tranh và ước vọng hòa bình).

Nguồn:
杨振宁:《易经》对中华文化的影响

 

Cập nhật ( 28/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Lãnh đạo phải cụ thể, phải kịp thời, phải thiết thực, phải có trọng điểm và nắm điển hình. Phải chống tư tưởng ngại khó khăn, tư tưởng ý lại. Phải tuyên truyền rộng khắp các chính sách khuyến khích sản xuất. Cán bộ phải xem lãnh đạo sản xuất là công tác trung tâm bậc nhất”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com