Hàn Quốc bắt đầu xây dựng và phát triển mô hình khu kinh tế tự do (free economic zone) từ năm 2003. Mặc dù thời gian phát triển chưa lâu (cùng thời gian Việt Nam hình thành KKT đầu tiên KKT mở Chu Lai), nhưng mô hình quản lý, cơ chế, chính sách phát triển các KKT tự do tại Hàn Quốc trong thời gian qua là những kinh nghiệm tốt để tham khảo.
Quá trình hình thành và phát triển các KKT tự do ở Hàn Quốc
Hàn Quốc mới phát triển mô hình KKT tự do từ năm 2003 với việc hình thành 3 KKT đầu tiên là Incheon, Busan-Jinhae và Gwangyang. Sau 5 năm từ khi hình thành KKT đầu tiên, Chính phủ Hàn Quốc quyết định thành lập thêm 3 KKT tự do mới là Yellow Sea, Saemangeum-Gunsan và Daegu-Gyeongbuk.
Chính phủ Hàn Quốc xác định mục tiêu phát triển các KKT của mình là xây dựng các KKT trở thành các trung tâm kinh doanh quốc tế, tạo môi trường kinh doanh, môi trường sống mang chuẩn mực quốc tế nước ngoài nhằm tập trung thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Tầm nhìn của việc phát triển các KKT tự do tại Hàn Quốc là biến các KKT thành đầu mối của thế giới về mặt kinh doanh (ngành công nghệ cao, giáo dục, y tế tiêu chuẩn toàn cầu), hạ tầng và dịch vụ logistics, công nghiệp công nghệ cao (hình thành clusters, thu hút các tập đoàn đa quốc gia).
Một điểm quan trọng trong chính sách phát triển các KKT tự do ở Hàn Quốc là để tránh cạnh tranh giữa các KKT và tận dụng lợi thế so sánh của từng KKT tự do, Chính phủ xác định các lĩnh vực ưu tiên phát triển của từng KKT trên cơ sở điều kiện, tiềm năng của từng KKT.
STT
|
Khu kinh tế
|
Năm thành lập
|
Diện tích (km2)
|
Ngành nghề thu hút đầu tư
|
1
|
Incheon
|
2003
|
290,4
|
Phát triển lĩnh vực logistics, kinh doanh dịch vụ (global business service), du lịch nghỉ dưỡng và giải trí, công nghệ cao
|
2
|
Busan-Jinhae
|
2003
|
104,8
|
Phát triển lĩnh vực vận tải biển, công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao, du lịch và dịch vụ gắn với biển
|
3
|
Gwangyang
|
2003
|
90,5
|
Phát triển lĩnh vực vận tải biển, sản phẩm thép và hóa chất, du lịch và dịch vụ
|
4
|
Yellow Sea
|
2008
|
55
|
Phát triển lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ sinh học và vận tải biển
|
5
|
Saemangeum-Gunsan
|
2008
|
66,9
|
Phát triển lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới, tái tạo, du lịch và dịch vụ cho khách Trung Quốc
|
6
|
Daegu-Gyeongbuk
|
2008
|
39,5
|
Phát triển lĩnh vực giáo dục, y tế, công nghiệp thời trang, công nghệ thông tin
|
Nguồn: Bộ Kinh tế tri thức Hàn Quốc
Để đảm bảo khả năng cân đối các nguồn lực đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật các KKT, kế hoạch đầu tư, phát triển các KKT cũng được xây dựng theo từng giai đoạn cụ thể. Theo đó, 3 KKT thành lập năm 2003 sẽ hoàn thành các dự án hạ tầng cơ bản và triển khai thu hút FDI trong giai đoạn 2015 – 2020, 3 KKT còn lại sẽ hoàn thành các công việc này trong giai đoạn 2020-2030.
Một số vấn đề cụ thể trong phát triển các KKT tự do tại Hàn Quốc
Tổ chức bộ máy quản lý KKT
Ở cấp trung ương, Chính phủ Hàn Quốc thành lập ủy ban Phát triển KKT (Free economic zone Committe) trực thuộc trực tiếp Thủ tướng Chính phủ gồm có các thành viên là lãnh đạo nhiều Bộ ngành của Hàn Quốc và đại diện một số nhà nghiên cứu, nhà kinh tế cao cấp do Bộ trưởng Bộ Kinh tế Tri thức làm Trưởng ủy ban. ủy ban có nhiệm vụ xây dựng quy hoạch, chính sách, kế hoạch phát triển các KKT tự do, quyết định những vấn đề lớn ngoài thẩm quyền của chính quyền tỉnh. Giúp việc cho ủy ban có Văn phòng Xây dựng Kế hoạch KKT tự do (free economic zone planning office), gồm các cán bộ của các bộ, ngành và địa phương. Văn phòng này có trách nhiệm giúp ủy ban thực hiện các nhiệm vụ và điều phối hoạt động của 6 KKT tự do.
Ở cấp địa phương, Ban quản lý KKT tự do được thành lập tại các địa phương có KKT tự do, trực thuộc chính quyền cấp tỉnh. Trưởng ban quản lý KKT tự do được tuyển chọn theo một quy trình rất chặt chẽ (không nhất thiết phải là công chức Nhà nước mà có thể tuyển chọn từ khu vực tư nhân), là người có kinh nghiệm và trình độ cao trong lĩnh vực quản lý đầu tư, xây dựng, am hiểu về phát triển kinh tế. Ban quản lý KKT là cơ quan thực thi các chính sách về KKT, quản lý đầu tư, xây dựng KKT tự do theo quy hoạch. Một số Ban quản lý KKT có thẩm quyền rộng, được thực hiện các quyền hạn trong phạm vi quyền hạn của chính quyền tỉnh.
Trong quá trình điều hành, các vấn đề liên quan đến KKT được xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng trên cơ sở tham khảo ý kiến của Hội đồng tư vấn bao gồm đại diện các bộ, ngành, các doanh nghiệp, các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực.
Để tạo thực hiện cơ chế hành chính thông thoáng “một cửa, tại chỗ”, Chính phủ quy định thẩm quyền rất lớn cho Ban quản lý KKT cấp tỉnh và được quy định trong một đạo Luật riêng về KKT. Ban quản lý KKT có các quyền hạn tương đương với chủ tịch tỉnh, tự xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển, quyết định cấp phép đầu tư, xây dựng KKT. Chỉ có những dự án lớn đầu tư vào KKT trong những ngành quan trọng, dẫn dắt, định hướng cho toàn ngành mới cần xin ý kiến của cấp Trung ương (ủy ban Phát triển KKT).
Chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư
Chính phủ Hàn Quốc xác định việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài là mục tiêu chính do vậy các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các KKT tự do được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đặc biệt. Cụ thể:
- Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào KKT tự do được miễn tối đa 100% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 5 năm đầu, giảm 50% cho 2 năm tiếp theo. Để được hưởng ưu đãi thuế TNDN trên, nhà đầu tư cần đầu tư lớn hơn số vốn yêu cầu tối thiểu theo các ngành lĩnh vực (ví dụ: lĩnh vực sản xuất 30 triệu USD; du lịch 20 triệu USD; logistics: 10 triệu USD và R&D 2 triệu USD). Tại Hàn Quốc chỉ riêng các KKT đặc biệt mới được ưu đãi thuế, đầu tư ngoài KKT đặc biệt, kể cả đầu tư vào KCN cũng không được hưởng ưu đãi thuế.
- Đầu tư vào KKT được miễn các loại thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân, thuế tài sản…) từ 5-7 năm và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo.
- Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ một phần vốn đầu tư hạ tầng cơ bản của các KKT, phần còn lại sẽ do ngân sách của địa phương thực hiện hoặc lựa chọn doanh nghiệp và thỏa thuận với doanh nghiệp các hạng mục đầu tư hạ tầng.
- Các lĩnh vực ưu tiên đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao, giáo dục, bệnh viện đều được Chính phủ Hàn Quốc hỗ trợ đầu tư.
- Chính phủ cũng quy định các thủ tục được đơn giản hoá trong các lĩnh vực lao động, y tế, nhà ở tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài thuận lợi trong giao dịch, làm việc và sinh sống tại các KKT.
Vấn đề đất đai
- Về đất đai: địa phương đề xuất quy hoạch, trình cấp Trung ương (ủy ban phát triển KKT do Bộ Kinh tế Tri thức chủ trì) quyết định. Sau khi được đồng ý về quy hoạch, doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh tiến hành thu hồi đất đai, giải phóng mặt bằng.
- Việc đầu tư bất động sản tại Hàn Quốc được quản lý rất nghiêm ngặt. Chính phủ có chính sách quản lý nguồn lãi của doanh nghiệp để đảm bảo đầu tư đúng mục đích.
- Các KKT tự do của Hàn Quốc chủ yếu được phát triển trên đất nông nghiệp, ngư nghiệp. Tuy nhiên, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất không gặp khó khăn do chính sách nh t quán của Chính phủ ưu tiên sử dụng đất vào phát triển công nghiệp.
- Giá đất được Chính phủ và chính quyền địa phương kiểm soát, được tính toán trên cơ sở lợi ích mà KKT tự do đem lại nên thường ở mức cao so với mức trung bình. Vì vậy, việc đền bù được tiến hành thỏa đáng và thuận lợi.
Một số nhận xét, đánh giá từ kinh nghiệm của Hàn Quốc trong phát triển KKT và khả năng vận dụng tại Việt Nam
Hàn Quốc có một số kinh nghiệm trong phát triển KKT phù hợp với điều kiện của Việt Nam, có thể nghiên cứu, áp dụng để phát triển KKT tại Việt Nam, cụ thể là:
Thứ nhất, tại Hàn Quốc, tầm quan trọng của các KKT tự do được xác định rõ ràng; KKT tự do rất được quan tâm, coi trọng ở cả cấp Trung ương và địa phương. Chính phủ Hàn Quốc phát triển các KKT cùng thời điểm với Việt nam (năm 2003) nhưng với những bước đi rất thận trọng và ý đồ kinh tế rất rõ ràng. Hàn Quốc hiện mới phát triển 6 KKT tự do trong đó tập trung nguồn lực trước cho 3 KKT thành lập năm 2003, các KKT còn lại được tập trung phát triển cho giai đoạn 2020-2030. Mỗi KKT đều có định hướng, mục tiêu thu hút đầu tư phát triển riêng trên cơ sở điều kiện, lợi thế so sánh của từng vùng. Trong thời gian tới, các KKT ven biển tại Việt Nam cũng cần được cân nhắc, điều chỉnh định hướng, mục tiêu thu hút đầu tư trên cơ sở lợi thế so sánh của từng KKT nhằm đảo bảo hiệu quả đầu tư, tránh lãng phí đất đai và cạnh tranh giữa các KKT.
Thứ hai, định hướng chuyên môn hóa, phát triển chiều sâu trong các KKT tự do và thu hút đầu tư trên những lĩnh vực công nghệ cao, hiện đại của thế giới và hình thành clusters thể hiện rõ ở cả chính sách phát triển KKT tự do cũng như phát triển các KCN tại Hàn Quốc. Trong thời gian tới tại Việt Nam cần xem xét thực hiện thí điểm hình thành một số KCN theo mô hình clusters, trong đó cho phép áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù về quản lý và ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi cho doanh nghiệp FDI.
Thứ ba, Bộ máy quản lý Nhà nước của Hàn Quốc có một số vấn đề cần hoàn thiện thêm về vai trò của ủy ban phát triển KKT cũng như thẩm quyền của Ban quản lý KKT. Tuy nhiên, việc tổ chức bộ máy quản lý KKT tự do ở Hàn Quốc cho th y nhận thức thống nhất của Chính phủ về tầm quan trong của KKT tự do của Hàn Quốc trong việc xây dựng động lực mới để phát triển kinh tế Hàn Quốc. Việc tổ chức ủy ban phát triển KKT gồm Bộ trưởng nhiều Bộ, ngành và các chuyên gia kinh tế cao cấp và có vai trò ngang nhau có ưu điểm là các chính sách áp dụng cho các KKT đều dựa trên hiệu quả kinh tế, được cập nhật với kiến thức hiện đại, hạn chế ý chí chủ quan chính trị. Mặc dù, mô hình tại Hàn Quốc còn có một số điểm chưa thực sự phù hợp với Việt Nam, tuy nhiên, mô hình này đặt ra một yêu cầu đối với Việt Nam là cần hình thành một cơ quan đủ thẩm quyền, nguồn lực để thực hiện vai trò tham mưu cho Chính phủ Việt Nam quản lý Nhà nước về KKT ở cấp Trung ương và đầu mối phối hợp với các bộ ngành Trung ương thực hiện quản lý KKT. Thẩm quyền rộng của các Ban quản lý KKT tại Hàn Quốc về cơ bản có nét tương đồng với các Ban quản lý KKT của Việt Nam hiện đã được phân cấp, ủy quyền trên nhiều lĩnh vực.
Thứ tư, Hàn Quốc đã ban hành một Luật riêng cho các KKT tự do, hoạt động của các KKT được thực hiện thống nhất theo Luật nên hạn chế được tình trạng chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Trong giai đoạn tới, hoạt động của các KKT tại Việt Nam cũng nên cân nhắc quy định thống nhất tại văn bản Luật để tránh tình trạng chồng chéo giữa Nghị định về KCN, KKT với các văn bản pháp luật chuyên ngành trên một số lĩnh vực như hiện nay. Việc ban hành Luật riêng của KKT tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước có thể áp dụng thí điểm các chính sách mới và mở, rút kinh nghiệm nhân rộng đối với các khu vực khác. Đồng thời, Luật KKT riêng với các cơ chế, chính sách ưu đãi, quản lý đặc thù không bị hạn chế bởi các pháp luật chuyên ngành liên quan sẽ tạo thuận lợi cho KKT phát triển đột phá, tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực đối với các vùng lân cận.
Thứ năm, tại Hàn Quốc, các KKT tự do cũng được hỗ trợ từ Chính phủ để xây dựng một số công trình hạ tầng kỹ thuật cơ bản. Hàn Quốc chỉ phát triển 6 KKT để tập trung nguồn lực của Nhà nước để phát triển các KKT này, trong đó có phân chia giai đoạn hết sức cụ thể, phù hợp khả năng huy động nguồn lực, trong đó ưu tiên tập trung đầu tư cho 3 KKT thành lập năm 2003, các KKT còn lại sẽ được phát triển trong trong giai đoạn 2020-2030. Thực tế nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ Hàn Quốc và chính quyền địa phương chiếm tỷ lệ chủ yếu trong vốn đầu tư các công trình hạ tầng cơ bản trong KKT. Tuy nhiên, vẫn xảy ra tình trạng khả năng tài chính hạn chế nên tiến độ công trình không được đảm bảo. ở Việt Nam, việc phát triển KKT về số lượng, quy mô cũng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, có bước đi thận trọng vừa triển khai vừa nghiên cứu, rút kinh nghiệm để điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các KKT ven biển; ưu tiên tập trung phát triển các KKT ở những vùng thực sự có nhiều tiềm năng. trong điều kiện huy động các nguồn lực tư nhân vào KKT còn khó khăn, việc hỗ trợ ngân sách Trung ương cho các KKT là cần thiết để tạo cơ sở ban đầu thúc đẩy sự phát triển các KKT ven biển nhưng ngân sách hiện nay còn hạn chế do đó cần phải tập trung ưu tiên hơn cho các KKT có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển.
(Ths. Trần Duy Đông - Phó Vụ trưởng Vụ quản lý các KKT, Bộ KH&Đ – Theo TC KCNVN) |