Quá trình xây dựng và phát triển KCN, KKT gắn với các cơ chế, chính sách đối với KCN theo từng giai đoạn đã đem lại những kết quả đáng kể trong phát triển KCN, KKT
1. Những chuyển biến trong quá trình xây dựng cơ chế chính sách phát triển KCN, KCX, KKT
Quá trình xây dựng và hoàn thiện luật pháp, chính sách về KCN, KCX, KKT đã được trải qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1 từ 1991 đến 1997: giai đoạn đầu xây dựng và triển khai một số cơ chế, chính sách KCN, KCX, KKT;
- Giai đoạn 2 từ 1997 đến 2006: cơ chế, chính sách KCN, KCX, KKT được quy định có hệ thống tại Nghị định số 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ và là giai đoạn ủy quyền cho một số ban quản lý KCN, KCX trong lĩnh vực đầu tư và một số lĩnh vực với mức ủy quyền hạn chế.
- Giai đoạn 3 từ 2006 đến 2008: Luật Đầu tư 2005, Nghị định 108/2006/NĐ-CP đã ban hành những quy định mới theo hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý đầu tư từ trung ương tới địa phương, tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của UBND cấp tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ban quản lý các KCN, KKT trong cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư và quản lý các dự án đầu tư vào KCN, KKT.
Tuy nhiên, Nghị định 108/2006/NĐ-CP đã thay thế Nghị định 36/CP trong khi các quy định về quản lý KCN, KKT trên các lĩnh vực khác ngoài lĩnh vực đầu tư lại chưa được ban hành kịp thời, đã tạo sự thiếu hụt về cơ sở pháp lý và gây khó khăn cho địa phương và doanh nghiệp triển khai quản lý hoạt động của KCN, KKT.
- Giai đoạn 4: Từ sau năm 2008, sau khi Nghị định 29/2008/NĐ-CP được ban hành đã bổ sung kịp thời các quy định về hoạt động của KCN, KKT trên nhiều lĩnh vực, đưa cơ chế quản lý KCN, KKT chuyển biến theo hướng mới: đẩy mạnh ủy quyền sang phân quyền và mở rộng phân cấp quản lý KCN, KCX, KKT về cả quy mô vốn và lĩnh vực quản lý.
Qua các giai đoạn phát triển đó, những quy định chủ yếu của luật pháp, chính sách có liên quan đến KCN, KCX, KKT bao gồm các lĩnh vực quy hoạch, thành lập, mở rộng, đầu tư, chính sách hỗ trợ đầu tư, tổ chức bộ máy, quản lý nhà nước theo từng lĩnh vực đã ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho các KCN, KCX, KKT hoạt động, thể hiện rõ xu hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính theo hướng “một cửa, một đầu mối”. Bộ máy quản lý nhà nước KCN, KKT ở cấp địa phương mà đầu mối là Ban quản lý KCN, KKT dần được kiện toàn để đáp ứng chức năng, nhiệm vụ mới.
2. Kết quả phát triển KCN, KCX, KKT
Quá trình xây dựng và phát triển KCN, KKT gắn với các cơ chế, chính sách đối với KCN theo từng giai đoạn đã đem lại những kết quả đáng kể trong phát triển KCN, KKT:
- Về kết quả phát triển KCN: kể từ khi KCX đầu tiên của Việt Nam được thành lập năm 1991, qua gần 20 năm xây dựng và phát triển (1991 – 2010), đến nay, trên cả nước có hơn 250 KCN, KCX được thành lập ở 57 tỉnh, thành phố với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 68.000 ha, trong đó có hơn 45.000 ha đất công nghiệp có thể cho thuê. Các KCN cả nước đã thu hút được hơn 8.500 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư 70 tỷ USD, trong đó có gần 52 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Các KCN, KCX đã giải quyết việc làm cho gần 1,5 triệu lao động và tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp mỗi năm từ 20-25 tỷ USD.
Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng lên đáng kể từ mức 17% năm 2001 lên khoảng 30% năm 2010. Hiện tại, khoảng 1,5 triệu lao động đang làm việc tại các KCN, KCX. Với các kết quả đạt được như nêu trên các KCN, KCX đã có những đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương cũng như cả nước nói chung.
- Về kết quả phát triển KKT: Kể từ khi KKT ven biển đầu tiên là KKTM Chu Lai được thành lập vào năm 2003 đến nay đã có 15 KKT được thành lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước biển của 15 KKT ven biển là 662.249 ha.
Các KKT ven biển đã thu hút được 600 dự án trong nước và nước ngoài với tổng vốn đầu tư gần 40 tỷ USD. Trong đó, có một số dự án lớn và quan trọng tại các KKT như: các nhà máy lọc dầu ở các KKT Nghi Sơn, Dung Quất; các nhà máy đóng tàu ở các KKT Nghi Sơn, Dung Quất; các nhà máy thép ở KKT Dung Quất, Vũng áng; các nhà máy nhiệt điện tại các KKT Nghi Sơn, Vũng áng, Dung Quất...
Đối với các KKT cửa khẩu: đến nay đã có 28 KKT cửa khẩu được thành lập. Một số KKT cửa khẩu đã được đầu tư cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư và phát triển quan hệ thương mại như: KKT cửa khẩu tỉnh Lạng Sơn, KKT cửa khẩu Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, KKT cửa khẩu tỉnh Lào Cai và Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị, KKT cửa khẩu Mộc Bài, tỉnh Tây Ninh. Sự phát triển của các KKT cửa khẩu trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh quan hệ thương mại và đầu tư với các nước láng giềng.
3. Đóng góp của Nghị định 29/2008/NĐ-CP
Sau một thời gian triển khai, Nghị định 29/2008/NĐ-CP đã có những đóng góp đáng kể vào việc hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX, KKT, thể hiện ở những mặt chủ yếu sau:
- Nghị định 29/2008/NĐ-CP được ban hành là thực sự cần thiết, đáp ứng yêu cầu xây dựng và triển khai cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX, KKT. Nghị định đã quy định khá đầy đủ về công tác quản lý Nhà nước KCN, KCX, KKT trên nhiều lĩnh vực: quy hoạch, đầu tư, xây dựng, đất đai, môi trường, lao động, thương mại, hải quan… Vấn đề tổ chức bộ máy, biên chế, chức năng nhiệm vụ của các bộ, ngành, UBND cấp tỉnh và các Ban quản lý KCN, KKT trên từng lĩnh vực quản lý KCN, KCX, KKT cũng được quy định tương đối rõ ràng. Nghị định thể hiện rõ chủ trương tăng cường phân cấp, ủy quyền trên các lĩnh vực quản lý của các cơ quan Trung ương, UBND cấp tỉnh cho Ban quản lý KCN, KKT; chuẩn hóa và hoàn thiện mô hình quản lý KCN, KCX, KKT theo nguyên tắc một cửa, tại chỗ thông qua vai trò đầu mối tại Ban quản lý KCN, KKT trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ đã được phân cấp, ủy quyền trên nhiều lĩnh vực.
- Nhìn chung, các bộ, ngành đã triển khai khá khẩn trương, nghiêm túc các quyền hạn, trách nhiệm được giao tại Nghị định số 29/2008/NĐ-CP. Các bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Xây dựng, Nội vụ, Tài chính, Lao động-Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật hoặc trực tiếp ban hành Thông tư, Quyết định hoặc văn bản hướng dẫn các địa phương triển khai các chức năng, nhiệm vụ được phân cấp, ủy quyền.
Các bộ, ngành đã triển khai các công việc cụ thể sau:
- Vấn đề bảo vệ môi trường KCN, KCX, KKT: Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quy chế quản lý và bảo vệ môi trường KKT, KCNC, KCN và cụm công nghiệp (Thông tư 08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009) trong đó quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị liên quan trong bảo vệ môi trường đối với từng giai đoạn phát triển KCN, KKT.
- Vấn đề cấp ủy quyền cấp Giấy phép kinh doanh hoạt động mua bán hàng hóa đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa form D, Giấy phép thành lập văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài đã được hướng dẫn tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Công Thương chủ trì xây dựng, công văn hướng dẫn hoặc quyết định ủy quyền trực tiếp của Bộ Công Thương.
- Vấn đề cấp thẩm định phê duyệt quy hoạch chi tiết KCN, thiết kế cơ sở các dự án nhóm B, C trong KCN, chứng chỉ quy hoạch các dự án trong KCN đã được Bộ Xây dựng hướng dẫn tại Thông tư số 19/2008/TT-BXD ngày 20/11/2008.
- Việc kiện toàn bộ máy Ban quản lý KCN, KKT đã được Bộ Nội vụ nghiên cứu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các Quyết định thành lập Ban quản lý KCN, KKT trên cơ sở hợp nhất các cơ quan quản lý KCN, KKT ven biển, KKT cửa khẩu ở địa phương.
- Vấn đề quản lý lao động KCN, KKT: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 13/2009/TT-BLĐTBXH ngày 06/5/2009 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về lao động trong các KCN, KCX, KKT và KCNC.
3. Tình hình thực hiện nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
* Về công tác quy hoạch:
- Đã phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương có liên quan triển khai xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KKT cửa khẩu và KKT ven biển. Tại Quyết định số 52/2008/QĐ-TTg ngày 25/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam đến năm 2020” và Quyết định số 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020”.
- Về Quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các Đề án quy hoạch tổng thể phát triển KCN của các địa phương.
- Hiện tại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang chủ trì xây dựng Quy hoạch phát triển các KCN cả nước đến năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ ban hành. Quy hoạch các KCN cả nước được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các Đề án quy hoạch KCN của các địa phương đã được phê duyệt hoặc đang trong quá trình trình duyệt.
* Về công tác kế hoạch hóa:
- Xây dựng phương án hỗ trợ từ ngân sách trung ương đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và phương án hỗ trợ từ ngân sách trung ương đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật KKT trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình Chính phủ.
- Xây dựng và triển khai kế hoạch xúc tiến đầu tư vào KCN, KKT trong Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia. Hàng năm Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các địa phương tổ chức các chương trình xúc tiến đầu tư vào KCN ở trong và ngoài nước.
- Xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của các KCN, KKT nhằm phát hiện kịp thời những thiếu sót trong việc tuân thủ pháp luật về KCN, KKT, tổng hợp vướng mắc, khó khăn của địa phương, doanh nghiệp để có biện pháp giải quyết, hướng dẫn, đôn đốc nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng và phát triển KCN, KKT.
* Về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật:
- Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các Quyết định mới thay thế cho các Quyết định trước đây về quy chế hoạt động của 13 KKT ven biển (Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi; Chu Lai, tỉnh Quảng Nam; Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Đông Nam Nghệ An, tỉnh Nghệ An; Hòn La, tỉnh Quảng Bình; Chân Mây – Lăng Cô, tỉnh Thừa Thiên Huế; Định An, tỉnh Trà Vinh, đảo Phú Quốc và cụm đảo Nam An Thới, tỉnh Kiên Giang; Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh; Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa; Vũng áng, tỉnh Hà Tĩnh; Nam Phú Yên, tỉnh Phú Yên; Nhơn Hôị, tỉnh Bình Định) và Quyết định 66/2010/QĐ-TTg ngày 27/10/2010 thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của KKT Năm Căn, tỉnh Cà Mau.
- Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN tại các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày 19/3/2009) và cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương cho xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật KKT ven biển (Quyết định số 126/2009/QĐ-TTg ngày 26/10/2009).
4. Một số vấn đề vướng mắc, khó khăn khi triển khai cơ chế chính sách KCN, KKT
Theo phản ánh của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp thì cơ chế, chính sách phát triển KCN, KKT mặc dù đã được hoàn thiện về cơ bản, song vẫn còn những điểm vướng mắc, chưa hợp lý. Có thể khái quát những điểm chưa hợp lý thành một số vấn đề chính sau:
- Các quy định của Nghị định 29/2008/NĐ-CP và các văn bản pháp luật khác còn chưa thực sự thống nhất, hợp lý.
- Các bộ ngành chưa hướng dẫn đầy đủ các địa phương triển khai cơ chế phân cấp, ủy quyền.
- Các địa phương do chưa có hướng dẫn thống nhất từ trung ương nên quy định chức năng nhiệm vụ của Ban quản lý KCN, KKT cũng như cơ chế phối hợp công tác quản lý Nhà nước KCN, KKT ở địa phương còn chưa thống nhất, chưa thực hiện phân cấp, ủy quyền đầy đủ theo quy định.
- Một số điểm chồng chéo giữa các văn bản pháp luật chưa được giải quyết cũng như một số yêu cầu mới đặt ra cần phải giải quyết, như:
+ Vấn đề ủy quyền cấp, cấp lại, gia hạn giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài, vấn đề đăng ký nội quy lao động, hệ thống thang bảng lương, đăng ký đưa lao động đi đào tạo...
+ Vấn đề đăng ký nội quy an toàn vệ sinh, an toàn lao động.
+ Vấn đề thẩm quyền của Ban quản lý KCN, KKT trong công tác thanh tra, xử phạt vi phạm hành chính.
+ Thẩm quyền của Ban quản lý KCN trong một số nhiệm vụ quản lý môi trường như xác nhận bản cam kết bảo vệ môi trường, cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình đối với công trình xây dựng trong KCN.
Tổ chức bộ máy BQL KCN, KKT đáp ứng yêu cầu thực tiễn và chức năng, nhiệm vụ mới.
Kiện toàn bộ máy quản lý KCN, KKT ở cấp Trung ương để tương xứng với sự phát triển KCN, KKT và chức năng, nhiệm vụ của các BQL KCN, KKT
+ Vấn đề bổ sung, thành lập mới các KCN, KKT.
+ Vấn đề ưu đãi đầu tư vào các KCN (Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ số quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp)
+ Vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng các dự án trong KCN, KKT (Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư).
5. Vấn đề sửa đổi Nghị định 29/2008/NĐ-CP
Những điểm bất hợp lý, khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai Nghị định 29/2008/NĐ-CP đã đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu, sửa đổi Nghị định để phù hợp hơn với yêu cầu thực tiễn phát triển KCN, KKT. Việc sửa đổi Nghị định 29/2008/NĐ-CP nên được thực hiện theo hướng:
- Điều chỉnh, bổ sung một số quy định về quy hoạch, thành lập KCN, KCX, KKT; hoạt động của KKT ven biển, KKT cửa khẩu; quyền và nghĩa vụ của công ty phát triển hạ tầng KCN, KCX, KKT cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Quy định rõ hơn cơ chế phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý KCN, KKT trên các ngành lĩnh vực theo hướng tiếp tục chuyển dần từ cơ chế ủy quyền sang cơ chế giao quyền trực tiếp của các bộ, ngành trung ương, UBND cấp tỉnh cho Ban quản lý KCN, KKT; quy định bổ sung cơ chế phối hợp giữa Ban quản lý KCN, KKT với các bộ, ngành trung ương, các sở ngành địa phương trong công tác quản lý hoạt động KCN, KCX, KKT.
- Giải quyết một số vướng mắc liên quan đến các quy định về thẩm quyền của Ban quản lý KCN, KKT trong công tác thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính; lĩnh vực lao động; môi trường… theo hướng tạo điều kiện cho Ban quản lý KCN, KKT thực hiện đầy đủ vai trò đầu mối quản lý KCN, KCX, KKT ở địa phương theo cơ chế ”một cửa, tại chỗ”.
- Bổ sung, làm rõ các quy định về vị trí, vai trò, tổ chức bộ máy, biên chế của Ban quản lý KCN, KKT nhằm tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở pháp lý, nguồn lực để các BQL KCN, KKT triển khai nhiệm vụ.
- Kiện toàn cơ quan quản lý nhà nước về KCN, KCX, KKT ở cấp Trung ương cho tương xứng với sự phát triển và đóng góp ngày càng cao của hệ thống các KCN, KCX, KKT trong phát triển kinh tế địa phương và cả nước, cũng như yêu cầu của việc thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát, chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn đối với hệ thống BQL KCN, KKT ở địa phương.