Năm 1998 đã được Liên Hiệp quốc chọn là năm quốc tế đại dương, mấy năm gần đây các nước lớn, các nước phát triển lại điều chỉnh chiến lược biển. Điều đó phản ánh sự quan tâm đến biển của các quốc gia. Các nhà nghiên cứu cho rằng biển ngày càng trở nên quan trọng bao nhiêu thì sự lo ngại của loài người cũng tăng lên bấy nhiêu, vì biển sẽ mang lại những nguồn lợi khổng lồ cho nhiều quốc gia, nhưng biển cũng chứa đựng những nguy cơ mất an ninh, nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp trong quan hệ quốc tế: khủng hoảng năng lượng, nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường biển, tranh chấp chủ quyền, an toàn hàng hải...
Việt Nam là một quốc gia ven bờ Biển Đông, có các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán rộng khoảng 1 triệu km2, có đường ven biển dài hàng nghìn km, có hàng nghìn đảo lớn nhỏ ven bờ, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa án ngữ trên tuyến đường hàng hải quốc tế, có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế - xã hội. Vùng biển Việt Nam còn là cửa ngõ giao lưu giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Theo Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, Việt Nam có chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển thuộc lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với chế độ pháp lý khác nhau. Lợi ích quốc gia trên biển ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Do đó, vấn đề bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc trên biển ngày càng trở nên cấp thiết.
1. Cần nhận rõ các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội của biển
Việt Nam với diện tích lãnh thổ là: 330.000 km2, có bờ biển dài hơn 3.260 km. Diện tích biển thuộc chủ quyền, quyền tài phán quốc gia bao gồm: vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa gấp hơn 3 lần lãnh thổ trên đất liền với diện tích khoảng một triệu km2; có trên 3.000 hòn đảo ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm giữa Biển Đông; tính từ Bắc xuống Nam có 12 quần đảo. Các vùng biển, đảo nằm trên địa giới hành chính thuộc 28 tỉnh, 125 huyện ven biển, trong đó có 12 huyện đảo.
Tính riêng các hải đảo, quần đảo thì Việt Nam có hơn 1.656 km2, trong đó có 66 đảo thường xuyên có dân làm ăn sinh sống, với hơn 155.000 người, đang được Nhà nước quan tâm hỗ trợ phát triển kinh tế biển, đảo. Các hải đảo và quần đảo đã tạo thành một bộ phận thống nhất của lãnh thổ Việt Nam có vai trò quan trọng trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Năm 1977 Chính phủ Việt Nam đã ra tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam (12/5/1977) và tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam (12/11/1982). Từ đó Việt Nam không chỉ là một quốc gia lục địa hình chữ S, mà còn bao gồm: nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng gấp 3 lần diện tích lục địa.
Biển Đông là một trong những khu vực biển có chứa nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhất là dầu khí, nên được các phát triển rất quan tâm. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, thăm dò dầu mỏ thì Biển Đông có trữ lượng lớn khoảng 7,5 tỷ thùng và khả năng khai thác hiện nay có thể đạt 1,3 triệu thùng/ngày. Riêng vùng thềm lục địa Việt Nam theo dự báo có khoảng gần 10 tỷ tấn dầu, 300 tỷ m3 khí đồng hành và 1.000 tỷ m3 khí thiên nhiên.
Ngoài dầu khí còn có nhiều tài nguyên khác như: trữ lượng cá trên vùng biển của Việt Nam được đánh giá khoảng 3 triệu tấn, hàng năm có thể khai thác từ 1,2- 1,4 triệu tấn. Dọc bờ biển nước ta còn có khoảng 125 bãi biển nghỉ mát, phát triển du lịch, trong đó có khoảng 20 bãi biển đạt tiêu chuẩn quốc tế, có khả năng thu hút 5-6 triệu khách quốc tế/năm. Tài nguyên khoáng sản như: than, sắt, titan, cát thuỷ tinh, đá vôi xi măng, đá xây dựng, muối và hoá phẩm từ nước biển... tuy chưa đánh giá được trữ lượng nhưng cũng nói lên tính phong phú, đa dạng của tài nguyên biển, đảo của Việt Nam.
2. Nhận thức đúng vai trò quốc phòng - an ninh trên biển
Đảng, Nhà nước Việt Nam đã sớm quan tâm đến các vùng biển đảo và khẳng định phấn đấu “Trở thành một nước mạnh về biển là một mục tiêu chiến lược xuất phát từ các yêu cầu và điều kiện khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam”(1). Năm 1990- 1992 đã đề ra chương trình Biển Đông- Hải đảo; tiếp sau là các chủ trương của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế biển, đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển, về ngân sách của chương trình Biển Đông- Hải đảo đã mở rộng phạm vi đầu tư cho các ngành, các địa phương, các dự án trọng điểm nên đã đưa nhanh công trình vào sử dụng, đáp ứng những nhu cầu quan trọng, cấp bách.
Chúng ta đã chủ động xây dựng và từng bước hoàn thiện thế trận quốc phòng - an ninh trên biển. Thông qua nhiều biện pháp tổ chức giáo dục cho toàn dân về giá trị của biển, đảo trong quá trình thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thành lập “Ban chỉ đạo Nhà nước về Biển Đông và Hải đảo”; triển khai chương trình Biển Đông- Hải đảo; ban hành 7 luật, 6 pháp lệnh, 2 bản tuyên bố, 19 nghị định và 6 quyết định liên quan đến quản lý và bảo vệ vùng biển, đảo Việt Nam.
Chúng ta cũng đã đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo thế đứng chân ổn định, vững chắc, sẵn sàng đối phó với các tình huống phức tạp xẩy ra trên biển. Xây dựng hệ thống nhà ở, tường, kè chống sói lở trên các đảo thuộc quần đảo; đã đầu tư hàng chục tỷ đồng cho xây dựng các công trình bảo đảm đời sống cho bộ đội và nhân dân huyện đảo Trường Sa; đã xây dựng các lực lượng chuyên trách để từng bước thực hiện quản lý Nhà nước trên các vùng biển thông qua việc xây dựng các lực lượng và phương tiện để chỉ huy điều hành cứu hộ, cứu nạn trên biển như: hệ thống quan sát, trinh sát, cảnh giới từ xa, thông tin liên lạc hàng hải; thành lập đội tàu tuần tra biên phòng, kiểm ngư, hải quan; tổ chức xây dựng và trang bị cho lực lượng cảnh sát biển; xây dựng hệ thống đèn biển cho các đảo; mới đây lại bổ nhiệm chức Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện đảo Trường Sa; đã đầu tư hỗ trợ phát triển nghề đánh cá xa bờ, nhằm vừa nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ngành thuỷ sản vừa góp phần khẳng định và bảo vệ chủ quyền trên biển đảo của Tổ quốc; đã hỗ trợ nhiều tỷ đồng đầu tư cho các hoạt động tuyên truyền về chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc trên biển đảo; đấu tranh quốc phòng - an ninh, ngoại giao; nghiên cứu và điều tra cơ bản, đặc biệt là đã từng bước hoàn chỉnh bộ hồ sơ cơ bản về quản lý, bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển...
3. Đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn với quốc phòng - an ninh trên biển
Ba phần tư lãnh thổ nước ta là biển, đảo, về lâu dài nước ta phải trở thành quốc gia biển, có tỷ trọng thu nhập quốc dân (GDP) từ kinh tế biển cao. Nếu ta không phát triển được kinh tế biển thì nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh là khó tránh khỏi; đồng thời cũng khó giữ được chủ quyền và các quyền lợi quốc gia trên biển, đảo. Vì vậy, mục tiêu của chiến lược biển, đảo của nước ta đến năm 2020 là: “Bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển, đảo của Tổ quốc, ngăn chặn và làm thất bại mọi ý đồ, hành động xâm phạm vùng biển, đảo nước ta dưới mọi hình thức, mọi quy mô và lực lượng của các thế lực thù địch”.
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng đã khảng định: “Sớm đưa nước ta thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực”(2). Bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, ngăn chặn và làm thất bại mọi hoạt động tiến công, uy hiếp, xâm phạm lợi ích quốc gia trên toàn bộ vùng biển, đảo của Việt Nam trong mọi tình huống để phát triển kinh tế biển.
Trong những năm sắp tới chủ quyền quốc gia trên biển, đảo của nước ta vẫn trong tình trạng bị đe doạ xâm phạm nghiêm trọng; quần đảo Hoàng Sa và một phần của quần đảo Trường Sa vẫn bị một số nước chiếm giữ; các vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa tiếp tục bị uy hiếp xâm phạm... Do đó việc đấu tranh ngoại giao bằng các cơ sở pháp lý, thực hiện tốt Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông là rất cần thiết để khẳng định sự toàn vẹn quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển, đảo của Việt Nam được quốc tế công nhận.
Chúng ta cần phát triển kinh tế biển, nâng cao hiệu quả kinh tế biển để tạo điều kiện nâng cao khả năng quốc phòng - an ninh đáp ứng nhu cầu bảo vệ biển, đo thực hiện cả mục tiêu trước mắt và mục tiêu cơ bản, lâu dài: Ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lấn chiếm, xâm phạm chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển, đảo; đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang trên biển, duy trì hoà bình, ổn định và phát triển; đẩy mạnh phát triển kinh tế kết hợp với bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển, đảo, góp phần tích cực của kinh tế biển, đảo vào quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh là: Giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải; phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý bảo vệ vùng biển; phát triển kinh tế biển phải gắn liền với bảo vệ biển; kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh bảo vệ biển.
Từ năm 2010- 2020, đặt trọng tâm vào đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, đảo, đưa tỷ trọng kinh tế biển, đảo trong thu nhập quốc dân (GDP) tăng lên đáng kể. Xây dựng quốc phòng - an ninh trên biển, đảo vững mạnh, có bước phát triển nhảy vọt về tiềm lực và sức mạnh, nhất là lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân trên biển, đủ sức bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh hải quốc gia trên biển, đảo bao gồm cả vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.
Đây là bước cực kỳ quan trọng có quan hệ đến chiến lược biển của một số nước trong khu vực, nhất là vào thời kỳ một số tài nguyên khoáng sản như dầu khí, các tài nguyên quý hiếm trên đất liền và ở nhiều nơi khác có nguy cơ cạn kiệt. Thực hiện chiến lược tiến ra biển, khai thác biển của nhiều nước, nhất là các nước lớn có nguy cơ nảy sinh khủng hoảng nhiên liệu, năng lượng. Do đó, cuộc đấu tranh giành quyền làm chủ và quyền khai thác biển sẽ diễn ra rất quyết liệt.
Đối với Việt Nam, giai đoạn 2010- 2020 cũng là thời kỳ kinh tế tiếp tục phát triển thuộc loại trung bình trong khu vực, nhu cầu phát triển sẽ đòi hỏi phải tăng cường khai thác nguồn lợi trên biển. Do vậy, tiến ra biển, phấn đấu trở thành quốc gia biển sẽ trở thành nhu cầu khách quan, bức thiết. Qua đó, yêu cầu làm chủ vùng biển đảo, bảo đảm quốc phòng - an ninh trên biển sẽ ngày càng đòi hỏi phải có bước đột phá về phát triển mạnh tiềm lực quốc phòng - an ninh trên biển để đủ khả năng bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh hải bao gồm cả quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông. Để bảo đảm quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế biển, đảo nhanh và bền vững, chúng ta có thể và cần phải quan tâm đến hàng loạt các giải pháp đồng bộ và thiết thực.
4. Một số giải pháp chủ yếu
Một là Điều chỉnh Chiến lược phát triển kinh tế biển kết hợp với tăng cường quốc phòng - an ninh trên biển phù hợp với tư duy mới về biển và đại dương; cụ thể hoá các nội dung chiến lược bằng quy hoạch, kế hoạch, các dự án và bằng pháp luật, chính sách phù hợp với tình hình thực tế; xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thực hiện đối với mọi cấp, mọi ngành từ trung ương đến địa phương.
Hai là tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục quốc phòng - an ninh, đưa các nội dung liên quan vào chương trình bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng, coi trọng bồi dưỡng các lực lượng trực tiếp hoạt động trên biển, đảo. Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về chiến lược trên biển của các nước trong khu vực và thế giới để đề ra các chính sách phù hợp nhằm bảo vệ hữu hiệu chủ quyền quốc gia trên biển, đảo.
Ba là chỉ đạo điều hành chặt chẽ việc xây dựng các dự án quy hoạch, kế hoạch chiến lược thăm dò khai thác kinh tế biển, đảo gắn liền với bảo bảo vệ biển, đảo trong thời kỳ mới; bổ sung hoàn thiện cơ chế, quy chế phối hợp, hiệp đồng các lực lượng trong quá trình triển khai chuẩn bị và thực hành dự án phát triển kinh tế và bảo vệ biển.
Bốn là tích cực hoạt động ngoại giao để bảo đảm tính nghiêm minh và hiệu quả của Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông có lợi cho hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực. Chủ động đề xuất và tham gia khai thác tài nguyên biển trên các vùng chồng lấn.
Năm là tiếp tục xây dựng và tăng cường thế trận quốc phòng - an ninh trên vùng biển, đảo; xây dựng các lực lượng bảo vệ vùng biển, đảo; kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh trên vùng biển, đảo; xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách và bổ sung cơ chế lãnh đạo, quản lý, điều hành công tác quốc phòng - an ninh trên biển, đảo./.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội Đại đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị quốc gia, HN 2006, tr 93
2. Nghị quyết 03/ NQ-TW, ngày 06/ 05/ 1993.
3. Ban biên giới: Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của luật biển ở Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia. HN 2004.
4. Tuần Viennet: Tranh chấp Biển Đông: Dựa vào dân để tránh thế yếu. 31/3/2010
5. Xuân Linh: Giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Vietnamnet. 26/11/2009
6. Blog Autums: Quan điểm của Hoa Kỳ về tranh chấp ở Biển Đông. 17/7/2009
7. Viện Khoa học & Công nghệ Việt Nam: Phát triển bền vững vùng biển Việt Nam. 2009
Nguyễn Nhâm – (Theo Tạp chí KCNVN) |