Để thực hiện mục tiêu phấn đấu đưa Việt Nam “trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển”, bên cạnh việc lựa chọn các lĩnh vực kinh tế biển có nhiều tiềm năng, thế mạnh để tập trung nguồn lực phát triển thì việc lựa chọn các hình thức tổ chức và địa bàn triển khai theo một lộ trình được khảo cứu kỹ lưỡng cũng là những yêu cầu không thể thiếu.
Nhằm mục tiêu trên, Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã xác định năm lĩnh vực được lựa chọn ưu tiên chiến lược là: (1) Khai thác, chế biến dầu, khí; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác và chế biến hải sản; (4) Du lịch biển và kinh tế hải đảo; (5) Xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển.
Việc xây dựng Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu tổng quát “đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển” là sự tiếp tục đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế trong tình hình mới.
Thật vậy, kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương phát triển các loại hình khu chế xuất, khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu và khu kinh tế ven biển như một trong những giải pháp quan trọng thúc đẩy sự nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Năm 1997, tại Hội nghị TW 4 (khoá VIII) của BCHTƯ Đảng Cộng sản Việt Nam, ý tưởng về việc xây dựng các khu kinh tế ở Việt Nam đã được đề xuất: theo hướng nghiên cứu xây dựng thí điểm một vài đặc khu kinh tế, khu mậu dịch tự do ở những địa bàn ven biển có đủ điều kiện. Từ đó đến nay, chúng ta đã xây dựng và có quyết định thành lập hơn 100 khu công nghiệp và khu chế xuất, hơn 60 khu kinh tế cửa khẩu.
Đối với các khu kinh tế ven biển, Nghị quyết Số 09-NQ/TW ngày 09 tháng 02 năm 2007 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã xác định, để góp phần thực hiện mục tiêu cụ thể về kinh tế là “Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53% - 55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển. Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước”; sẽ triển khai “xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh… Xây dựng một số khu kinh tế mạnh ở ven biển; xây dựng cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp, thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả; mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển”. Như vậy, việc “xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển” là một trong năm lĩnh vực ưu tiên mang tính chiến lược để tạo đột phá cho sự phát triển kinh tế biển thời kỳ đến năm 2020 và xa hơn.
Ngày 23 tháng 9 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1353/QĐ-TTg Về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các Khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định rõ phương hướng chung hình thành hệ thống 15 khu kinh tế ven biển, gồm:
1. Khu kinh tế Vân Đồn (Quảng Ninh);
2. Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải (Hải Phòng);
3. Khu kinh tế Nghi Sơn (Thanh Hóa);
4. Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An (Nghệ An);
5. Khu kinh tế Vũng áng (Hà Tĩnh);
6. Khu kinh tế Hòn La (Quảng Bình);
7. Khu kinh tế Chân Mây - Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế);
8. Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam)
9. Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi);
10. Khu kinh tế Nhơn Hội (Bình Định);
11. Khu kinh tế Nam Phú Yên (Phú Yên);
12. Khu kinh tế Vân Phong (Khánh Hòa);
13. Khu kinh tế Phú Quốc (Kiên Giang);
14. Khu kinh tế Định An (Trà Vinh);
15. Khu kinh tế Năm Căn (Cà Mau).
Ngoài các khu kinh tế ven biển này, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án phát triển thị xã Móng Cái (Quảng Ninh) thành thành phố cửa khẩu quốc tế Móng Cái (Quyết định số 99/2009/QĐ-TTg ngày 29 tháng 7 năm 2009) và việc Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện đảo Côn Đảo đến năm 2020 (Bà Rịa-Vũng Tàu) đang được triển khai.
Các khu kinh tế ven biển này sẽ là những hạt nhân để góp phần hình thành các khu kinh tế năng động, thúc đẩy sự phát triển chung, nhất là đối với các vùng nghèo trên các vùng ven biển của Việt Nam; đồng thời tạo tiền đề thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế biển. Như vậy, sứ mệnh của các khu kinh tế ven biển này chủ yếu là cùng với các thành phố lớn ven biển hiện có tạo thành những trung tâm kinh tế biển mạnh, vươn ra biển xa. Để làm được điều này, các khu kinh tế ven biển phải đảm bảo tuân thủ các yêu cầu cơ bản là:
- Đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao, sử dụng hiệu quả quỹ đất, mặt nước và không gian của khu kinh tế ven biển; phát triển bền vững.
- Có tầm nhìn xa, phát triển theo hướng hiện đại.
- Đảm bảo yêu cầu an ninh, quốc phòng.
- Có cơ chế, chính sách và mô hình quản lý phát triển cho phép huy động được tối đa mọi nguồn lực cho phát triển.
- Triển khai theo lộ trình phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng và cả nước.
Cách đặt vấn đề xây dựng các khu kinh tế ven biển như trên là hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của thế giới hiện nay cũng như yêu cầu phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới.
Đối với từng vùng, trước mắt cần tập trung các nguồn lực để tạo ra những đột phá lớn. Cụ thể là, ở khu vực ven biển Miền Bắc, tập trung xây dựng khu kinh tế Vân Đồn (Quảng Ninh) trở thành cửa mở hướng ra biển, phát triển theo hướng hội nhập kinh tế với khu vực Đông Bắc á, trong hợp tác của hai hành lang, một vành đai kinh tế ven biển vịnh Bắc Bộ. ở khu vực ven biển Miền Trung, trước hết xây dựng Khu kinh tế Vũng áng (Hà Tĩnh) và Khu kinh tế Vân Phong (Khánh Hòa) trở thành cửa mở hướng ra biển và theo hướng hợp tác phát triển hành lang kinh tế Đông - Tây và Bắc - Nam. ở khu vực ven biển Miền Nam, trước hết xây dựng khu kinh tế Phú Quốc (Kiên Giang) trở thành cửa mở hướng ra biển, hội nhập kinh tế khu vực ASEAN.
Đáng chú ý là, xây dựng các khu kinh tế ven biển đã và đang được triển khai theo hướng nhất quán, đồng bộ với việc thực hiện các nhiệm vụ khác của Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020. Đặc biệt, năm 2009 có thể coi như một dấu mốc rất quan trọng trong việc thực hiện những nhiệm vụ được xác định tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành TW khóa X về Chiến lược Biển Việt Nam. Theo tinh thần của Chiến lược biển Việt Nam, việc phát triển kinh tế biển phải được tiến hành một cách bài bản, hệ thống và được xây dựng trên cơ sở các luận chứng khoa học vững chắc, trong đó công tác quy hoạch, trước hết là đối với một số lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng then chốt, phải được ưu tiên. Đến nay, hai trong số đó là quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển và quy hoạch phát triển hệ thống đường bộ ven biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đánh dấu bước chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt trong tư duy kinh tế biển và quyết tâm chính sách phát triển kinh tế biển của Đảng và Chính phủ.
Tháng 10 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã phát lệnh khởi công xây dựng cảng Vân Phong, cảng trung chuyển quốc tế đầu tiên của Việt Nam. Đây là dự án đầu tư lớn, khi hoàn thành sẽ là điểm nhấn đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Theo dự kiến, công trình có tổng mức đầu tư hơn 3,6 tỉ USD, có chiều dài hơn 12.500m, bao gồm 42 bến cảng, đảm bảo khả năng thông quan trên 200 triệu tấn hàng hóa mỗi năm và tiếp nhận tàu container có trọng tải đến 15.000 TEU. Quyết định xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong không những chỉ đơn thuần là tăng thêm nguồn vốn đầu tư, tạo ra một số việc làm và khi hoàn thành, Việt Nam có thêm một hải cảng mới ở khu vực huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, giống như việc xây dựng và nâng cấp các cảng như đã làm trong nhiều năm qua. Điều có ý nghĩa chuyển biến trong tư duy phát triển kinh tế biển mà việc khởi công xây dựng cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong là một ví dụ cụ thể là ở chỗ “đây là lần đầu tiên Việt Nam xây dựng cảng trung chuyển container quốc tế lớn, có tầm cỡ khu vực, có sức cạnh tranh mạnh mẽ trong tương lai”, như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh tại lễ khởi công, và đánh dấu bước khởi đầu đi đến chấm dứt tình trạng manh mún, thừa cảng nhỏ, thiếu cảng lớn, không có cảng trung chuyển trong việc xây dựng và kinh doanh hệ thống cảng biển Việt Nam. Tuy đây là giai đoạn khởi động với các hạng mục gồm khu bến cảng, luồng tàu và vũng quay trở, đường giao thông ngoài cảng, trong đó diện tích cảng là 41,5 ha có khả năng tiếp nhận tàu container sức chở tới 9.000 TEU, công suất thiết kế là 710.000 TEU/năm, có tổng kinh phí đầu tư gần 6.000 tỷ đồng, nhưng ngay từ đầu, đã hình thành hệ thống thiết bị hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế và dự kiến hoàn thành vào năm 2013. Theo kế hoạch, đến năm 2020, cảng Vân Phong sẽ có tổng diện tích 750 ha, gấp hơn 1,5 lần cảng container Singapore hiện nay, với tổng chiều dài bến gần 12,6 km, gồm 25 bến cho tàu container có khả năng tiếp nhận tàu có sức chở đến 15.000 TEU và 12 bến cho tàu chở tổng hợp. Tổng vốn đầu tư cho công trình khi hoàn thành có thể lên tới 3,6 tỷ USD. Cùng với cảng trung chuyển quốc tế, Khu kinh tế Vân Phong chỉ sau một thời gian ngắn thành lập đã thu hút được 84 dự án đầu tư, với tổng vốn khoảng 15,3 tỷ USD.
Ngoài cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, hai dự án phát triển kinh tế biển đáng ghi nhận trong năm qua phải kể đến là sự vận hành của Nhà máy lọc dầu Dung Quất và tuyến cáp điện 110 KV xuyên biển Hà Tiên - Phú Quốc. Tháng 02 năm 2009, Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã cho ra dòng sản phẩm đầu tiên. Đây là sự kiện đặc biệt quan trọng, không chỉ đánh dấu bước ngoặt của ngành công nghiệp lọc hóa dầu Việt Nam mà còn góp phần định hình cơ cấu kinh tế biển của khu vực biển Miền Trung. Nhà máy lọc dầu Dung Quất có công nghệ - kỹ thuật hiện đại, công suất 6,5 triệu tấn dầu thô/năm, vốn đầu tư trên 2,5 tỉ USD, khi đi vào vận hành sẽ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu xăng dầu trong nước, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn cung sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài. Cùng với Khu kinh tế Dung Quất là sự hình thành đô thị Vạn Tường trên địa phận tỉnh Quảng Ngãi. Đối với tuyến cáp xuyên biển Hà Tiên - Phú Quốc, Tập đoàn điện lực Việt Nam đã tiến hành khảo sát để triển khai thực hiện dự án có chiều dài 56 km với tổng vốn đầu tư dự kiến khoảng trên 1.300 tỷ đồng, sẽ khởi công vào quý 4/2010 và hoàn thành vào năm 2012.
Cùng với chuyển động trong xây dựng cảng biển, việc xây dựng các tuyến giao thông huyết mạch, trong đó có các con đường nối liền cảng biển với các trung tâm kinh tế phía trong cũng như các trung tâm kinh tế biển cũng được triển khai như hướng ưu tiên của năm 2009. Đó là các tuyến đường như đường 5 mới (Hà Nội - Hải Phòng), quốc lộ 51, các tuyến đường hành lang Đông - Tây… Điều đặc biệt là, Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng đường bộ ven biển Việt Nam (Quyết định số 129/QĐ-TTg ngày 18/01/2010 về Việc phê duyệt quy hoạch chi tiết đường bộ ven biển Việt Nam).. Tuyến đường này bắt đầu tại cảng Núi Đỏ, Mũi Ngọc (xã Bình Ngọc, TP. Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) tới cửa khẩu Hà Tiên (thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) với chiều dài khoảng 3.041 km.
Đây là tuyến đường bộ đi sát biển, nối liền các đô thị ven biển, các khu kinh tế ven biển thành một dải, nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên biển và vùng ven biển, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương có biển, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền của đất nước. Tuyến đường bộ ven biển có thể kết hợp với hệ thống đê biển và hệ thống đường phòng thủ ven biển nhằm tạo thuận lợi trong xử lý các tình huống ứng phó với thiên tai và tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh khu vực. Theo quy hoạch, việc đầu tư xây dựng tuyến đường bộ ven biển được phân kỳ thành 2 giai đoạn. Giai đoạn I (từ nay đến năm 2020) sẽ tập trung xây dựng các đoạn tuyến tại các vùng kinh tế trọng điểm và 15 khu kinh tế ven biển đã được xác định trong Đề án Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020. Giai đoạn II (sau năm 2020) sẽ xây dựng mới các đoạn chưa có đường để hình thành tuyến đường bộ ven biển trên toàn quốc và nâng cấp, cải tạo các đoạn tuyến theo quy mô đã được xác định trong quy hoạch nhằm hoàn chỉnh toàn tuyến đường bộ ven biển quốc gia.
Tóm lại, hệ thống các KKT ven biển có vị trí đặc biệt trong chiến lược biển Việt Nam trong tiến trình đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển. Để thực hiện mục tiêu chiến lược đó, ngoài chủ trương đường lối chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển các KKT ven biển nêu trên, cần tiếp tục nghiên cứu để hình thành và thực hiện những cơ chế chính sách cụ thể cùng những biện pháp đồng bộ khả thi, đặc biệt coi trọng các bài học tổng kết từ thực tiễn phát triển các KKT này.
PGS.TS. Bùi Tất Thắng - Phó viện trưởng, Viện Chiến lược phát triển |