Tuần -12 - Ngày 10/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Góp phần bàn về cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam
06/02/2010

Cải cách giáo dục đại học có ý nghĩa quan trọng, quyết định tới toàn bộ hệ thống giáo dục cũng như chiến lược phát triển quốc gia. Trong những năm qua, ngành giáo dục và đào tạo (GD và ĐT) Việt Nam đã có nhiều cải cách, đổi mới mang tính đột phá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học nước nhà. Trong “hành trình này”, ngành GD và ĐT đã “không đơn thương độc mã” mà kéo được “cả xã hội” vào cuộc, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà giáo dục và đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, phát triển giáo dục đại học Việt Nam cần tiếp tục có những đổi mới, cải cách nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu xã hội, đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế.

1 - Đổi mới hệ thống quản trị trong các trường đại học có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam

Mô hình quản trị đại học Việt Nam hiện nay, mặc dầu đã có những cải tiến, điều chỉnh nhất định, nhưng vẫn là mô hình quản trị đại học mang dáng dấp của thời kỳ bao cấp trước đây. Mô hình này tập trung vào "quản lý thày và trò", tập trung vào hoạt động "dạy và học" thiếu đi những hoạt động khác cần thiết của một đại học thực thụ trong điều kiện của kinh tế thị trường. Chương trình và nội dung đào tạo chậm thay đổi, nhà trường chậm phản ứng với những thay đổi nhanh chóng của xã hội.

Trong thời kỳ đổi mới, một số mô hình đại học ra đời, như đại học tư thục, đại học dân lập, đại học quốc tế, đại học thuộc các tập đoàn doanh nghiệp hoặc tổng công ty... Nhìn tổng thể, các mô hình đại học này cũng được rập khuôn từ các trường đại học công lập, tuy có những điều chỉnh phù hợp hơn với thị trường(1).

Trong hệ thống quản trị đại học hiện nay, giảng viên thụ động thực hiện trách nhiệm giảng dạy được phân công theo thời khóa biểu - kiểu thụ động theo cách của "thợ giảng". Nội dung giảng dạy về cơ bản tuân thủ theo chương trình giáo dục được quy định. Hệ thống này tập trung quyền lực vào ban giám hiệu của các trường. Các khoa, bộ môn hầu như không có vai trò đáng kể trong xác định nhu cầu đào tạo, hoạch định chiến lược và xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo và phát triển nhân lực, trong các hoạt động đối ngoại của nhà trường. Trong hệ thống này không có đủ các chính sách và quy trình hợp lý để khuyến khích và tạo động lực cho đội ngũ giảng viên, không khuyến khích sự tương tác giữa các khoa, bộ môn, giảng viên với đối tượng đào tạo của họ là các sinh viên. Sau 20 năm đổi mới, kênh tương tác giữa giảng viên với sinh viên vẫn chỉ tập trung ở các giờ giảng trực tiếp.

Trong những năm gần đây, Bộ GD và ĐT đã có những chương trình và những bước đi đột phá trong cải cách giáo dục đại học, quản trị đại học theo hướng phân quyền, tăng quyền tự chủ cho các trường đại học. Mặc dầu còn nhiều khó khăn, nhưng về lâu dài đây là định hướng đúng đắn và cần tiếp tục thúc đẩy để các trường đại học tự chủ trong tuyển sinh, xây dựng chương trình đào tạo, quản trị nhân sự, tài chính. Hiện nay, Bộ GD và ĐT đang tiếp tục có những thay đổi mạnh mẽ ở tầm quản lý vĩ mô hệ thống giáo dục đại học nước nhà. Trong khi đó, nhìn từ phía các trường đại học, có thể thấy rằng cách thức tổ chức, quản trị đại học còn lạc hậu, không theo kịp với chính những cải cách trong ngành GD và ĐT. Nhiều trường đại học chậm thích ứng, thậm chí còn hiện tượng trì trệ trong cải cách bộ máy tổ chức, quản lý đào tạo.

Trong hệ thống đại học cũng như trong từng trường đại học khi bước vào công cuộc đổi mới, mâu thuẫn giữa cái mới tiến bộ với cái cũ lạc hậu, bảo thủ trì trệ, ngại thay đổi đang diễn ra hằng ngày. Mâu thuẫn này nếu không được giải quyết một cách ổn thỏa, sẽ làm nản lòng những người cấp tiến, nhất là đối với lực lượng giảng viên, cán bộ quản lý trẻ có trình độ.

Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, khuyến khích tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các trường đại học là cần thiết để định hướng và tạo sức ép cải cách hệ thống quản trị đại học, hệ thống tổ chức quản lý đào tạo của các trường đại học. Bộ GD và ĐT cần định hướng và hỗ trợ cho các trường đại học trong một số vấn đề sau:

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và quản trị của trường đại học Việt Nam trong bối cảnh mới. Có thể nghiên cứu đưa ra mô hình mẫu làm cơ sở cho các trường đại học xây dựng và hoàn thiện lại mô hình tổ chức và quản trị của mình.

Thứ hai, điều chỉnh các quy định pháp lý, thể chế để đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đến các khoa, bộ môn tạo cho các đơn vị này có vị trí tương đối độc lập trong cơ cấu tổ chức của các trường. Cần có nhìn nhận đầy đủ hơn về vai trò, vị trí của giảng viên trong các trường để từ đó đưa ra các quy định hợp lý đối với đội ngũ giảng viên nhằm khuyến khích tạo động lực cho đội ngũ này trong giảng dạy, nghiên cứu.

Thứ ba, nghiên cứu thay đổi quy trình giảng dạy theo hướng phát huy sự trao đổi học thuật giữa sinh viên với giảng viên, nếu cần, có thể tiến tới thể chế hóa quy trình đào tạo đại học, trong đó yêu cầu giảng viên phải có số giờ gặp gỡ sinh viên theo một tỷ lệ nhất định của thời lượng môn học.

Thứ tư, hỗ trợ các đại học áp dụng công nghệ thông tin trong tổ chức, quản lý đào tạo. Hạ tầng công nghệ hiện nay của Việt Nam cho phép các trường đại học có thể áp dụng mô hình ứng dụng công nghệ thông tin của các nước tiên tiến: thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu điện tử (gồm cả dữ liệu quản lý và dữ liệu học thuật); sử dụng hệ thống ICT và dữ liệu điện tử làm phương tiện chủ yếu cho giao tiếp (ngoài giờ giảng) giữa các đối tượng liên quan.

2 - Phát triển đội ngũ giảng viên ngang tầm khu vực và thế giới là chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của giáo dục đại học

Chiến lược phát triển đội ngũ giảng viên ngang tầm khu vực và thế giới có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của giáo dục đại học Việt Nam trong quá trình hội nhập. Chiến lược này có thể bao gồm những ưu tiên chính là: (1) Tích cực đào tạo đội ngũ giảng viên thông qua cử đi học ở nước ngoài, (2) Khuyến khích và tạo điều kiện để các giảng viên tham gia các chương trình liên kết đào tạo và nghiên cứu với các trường đại học nước ngoài, (3) Thu hút và sử dụng người tài làm việc cho các trường đại học, cơ quan nghiên cứu.

Cử cán bộ đi đào tạo tại các cơ sở nước ngoài là chiến lược lâu dài, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc phát triển giáo dục đại học Việt Nam. Trong thời gian tới, thực hiện chiến lược này chúng ta cần cân nhắc một số vấn đề sau: (1) Để có được đội ngũ giảng viên đạt trình độ quốc tế, cần giới hạn phạm vi đào tạo tại các trường trong Top 200 của thế giới; (2) Đối với các đề án đào tạo cán bộ ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, cần giải quyết tốt hơn khâu tuyển chọn, nhất là đối với đối tượng đào tạo tiến sĩ và chú ý đưa ra những chính sách hợp lý hơn trong việc bảo đảm điều kiện học tập, nghiên cứu cho lưu học sinh; (3) Cho phép và khuyến khích các nghiên cứu sinh tự tìm kiếm cơ hội tự phát triển thêm thông qua các cơ hội nghiên cứu, giảng dạy sau tiến sĩ tại các trường hàng đầu ở trên. Đội ngũ giảng viên này sẽ là cầu nối các cơ sở đào tạo trong nước với các cơ sở đào tạo có uy tín trên thế giới, từ đó sẽ phát triển thêm các chương trình liên kết quốc tế.

Đào tạo đội ngũ giảng viên thông qua sự tham gia của họ (theo nhiều cách khác nhau) vào những chương trình đạo tạo, nghiên cứu có sự tham gia, hỗ trợ của đối tác nước ngoài (sau đây gọi chung là các chương trình liên kết quốc tế). Hình thức này còn được gọi là "học qua công việc" (Learning by doing). Mặc dầu tác động của hình thức này có thể lớn nhưng không phải trường đại học nào cũng có đủ vị thế, uy tín và năng lực để có nhiều chương trình liên kết, thông qua đó thực hiện nâng cao năng lực đội ngũ. Thực tiễn thực hiện các chương trình liên kết quốc tế ở một số trường đại học lớn ở Việt Nam vừa qua cho thấy: (1) Mục tiêu đào tạo đội ngũ giảng viên thông qua "Learning by doing" trong các chương trình liên kết quốc tế đòi hỏi phải có sự chủ động, tích cực của các trường đại học Việt Nam và của bản thân những cán bộ, giảng viên tham gia những chương trình này; (2) Phải có sự đầu tư nguồn nhân lực và tài chính cho thực hiện mục tiêu này; (3) Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để đội ngũ giảng viên "có đất dụng võ" sau quá trình đào tạo hay sau khi những chương trình liên kết quốc tế này kết thúc. Bộ GD và ĐT có thể tác động đến quá trình này thông qua định hướng khuyến khích hợp tác quốc tế giữa các trường đại học của Việt Nam với các đối tác nước ngoài. Đồng thời khuyến khích các trường đại học Việt Nam nghiên cứu tiếp nhận chuyển giao công nghệ đào tạo từ các trường đại học nước ngoài.

Việc thu hút và sử dụng nhân tài, từ góc độ quản lý nhà nước, không thể có sự ưu đãi đặc biệt dành cho những người có trình độ cao vì ưu đãi đó sẽ tạo ra sự phân biệt trong đãi ngộ, dễ có nguy cơ phản tác dụng đối với phát triển học thuật. Bộ GD và ĐT có thể chỉ đạo thực hiện thí điểm, tiến tới thể chế hóa việc thành lập và vận hành một mạng lưới trung tâm nghiên cứu xuất sắc (center of excellence) thuộc các trường đại học. Mạng lưới trung tâm này được đầu tư tốt về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, chính sách nhân sự, cơ chế quản lý và là nơi quy tụ những cán bộ khoa học có trình độ cao, thực hiện các hoạt động nghiên cứu có chất lượng, thúc đẩy hợp tác học thuật quốc tế với nước ngoài. Những trung tâm này sẽ có ảnh hưởng lan tỏa tích cực đối với các bộ phận khác trong các trường đại học.

3 - Đẩy mạnh hỗ trợ quốc tế có thể giúp huy động nguồn lực cần thiết để tạo ra một số khâu đột phá trong cải cách giáo dục đại học Việt Nam

Làm thế nào để huy động nguồn lực đầu tư cho giáo dục đại học là một vấn đề lớn. Mặc dầu, ngân sách đầu tư cho giáo dục đại học tăng liên tục trong thời gian qua. Tuy nhiên, về lâu dài, kinh phí từ ngân sách nhà nước sẽ giảm và có thể chỉ chiếm 1/3 tổng nguồn thu của các trường đại học công lập ở Việt Nam. Nguồn thu này chủ yếu từ học phí không thể đáp ứng được nhu cầu phát triển, nhất là nhu cầu về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, cơ sở dữ liệu học thuật. Vì thế, tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật và tài chính quốc tế vẫn là hướng đi quan trọng, có thể giúp tạo ra những bước đột phá quan trọng trong giáo dục đại học Việt Nam.

Bộ GD và ĐT tiếp tục đóng vai trò tích cực trong xây dựng và đàm phán các dự án hỗ trợ kỹ thuật, tài chính quy mô lớn. Dự án Giáo dục đại học của Ngân hàng Thế giới (WB) là một ví dụ tiêu biểu trong việc tranh thủ hỗ trợ quốc tế ở quy mô lớn cho cải cách giáo dục đại học Việt Nam. Bên cạnh WB, Việt Nam có thể tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật, tài chính của nhiều nhà tài trợ khác như SIDA, JICA, ADB, EU và các quỹ thúc đẩy văn hóa giáo dục của các nước. Một điều chắc chắn là các động thái huy động tài trợ để đầu tư cho giáo dục sẽ được các tổ chức quốc tế và các nước ủng hộ vì phát triển giáo dục đã trở thành một trong những ưu tiên trong chính sách hỗ trợ phát triển của nhiều nước.

Vì thế, Bộ GD và ĐT đóng vai trò quan trọng và cần chủ động hơn trong: (1) Xác định ưu tiên hợp tác; (2) Tiếp xúc và xây dựng quan hệ với các nhà tài trợ; (3) Xây dựng và đàm phán các dự án khả thi quy mô lớn, tập trung vào một số ưu tiên phát triển quan trọng. Dù tiềm năng huy động hỗ trợ quốc tế lớn nhưng các tổ chức tài trợ sẽ không tự đến với Việt Nam. Vị thế của Bộ GD và ĐT với tư cách là cơ quan quản lý vĩ mô và hoạch định chính sách phát triển giáo dục Việt Nam cho phép Bộ tiếp cận với các nhà tài trợ lớn, xúc tiến đàm phán các dự án có quy mô lớn, tạo ra một số đột phá cho phát triển giáo dục đại học.

Về phía các trường đại học, nghiên cứu tiếp nhận chuyển giao công nghệ đào tạo từ các trường đại học của các nước có nền giáo dục tiên tiến là một trong những hướng đi quan trọng giúp nâng cao năng lực của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam. Trong thời gian qua, việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ đào tạo (bao gồm nội dung chương trình đào tạo, tổ chức quản lý đào tạo, bảo đảm chất lượng đào tạo, phương pháp đào tạo...) đã được thực hiện qua nhiều hình thức khác nhau như: (1) Thông qua các chương trình liên kết với nước ngoài; (2) Thực hiện chương trình đào tạo tiên tiến theo Đề án của Chính phủ; (3) Khảo sát, trao đổi, học tập kinh nghiệm... Đối với hình thức thứ nhất, việc thực hiện chuyển giao công nghệ đào tạo có thể được diễn ra dưới hình thức tự giác và tự phát. Trong các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, mặc dầu, mục tiêu chuyển giao công nghệ về đào tạo luôn được đặt ra nhưng trên thực tế mục tiêu này không được quan tâm đúng mức. Việc chuyển giao công nghệ về đào tạo dù có mục tiêu nhưng thiếu kế hoạch và các nguồn lực (nhất là nguồn nhân lực) để thực hiện. Đối với hình thức thứ hai, có thể nói chương trình đào tạo tiên tiến là hướng đi đúng của Chính phủ trong thời gian qua nhằm hỗ trợ các trường đại học nâng cao năng lực đào tạo theo chuẩn của các trường đại học của các nước tiên tiến. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ đào tạo cũng còn nhiều hạn chế do năng lực nội tại của các trường đại học và thiện chí của phía các trường đối tác nước ngoài. Mặt khác, các trường mới quan tâm đến tiếp nhận nội dung chương trình đào tạo mà chưa quan tâm đến tiếp nhận công nghệ tổ chức quản lý đào tạo, đây lại là điểm yếu của hệ thống giáo dục đại học. Đã đến thời điểm Bộ GD và ĐT cần có nghiên cứu đánh giá một cách khách quan về các chương trình liên kết đào tạo với các trường đại học nước ngoài ở Việt Nam, nghiên cứu đánh giá đầy đủ về chương trình tiên tiến để có điều chỉnh hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả của các chương trình này, nhất là trong việc chuyển giao công nghệ đào tạo, trong việc chia sẻ nguồn lực giữa các trường.

4 - Đào tạo đáp ứng yêu cầu của xã hội là một chiến lược quan trọng

Yêu cầu về nguồn nhân lực hết sức đa dạng và thay đổi theo thời gian. Vì vậy, hệ thống giáo dục đại học chỉ có thể bảo đảm tạo ra những sản phẩm đào tạo đáp ứng tốt những yêu cầu chủ yếu, cốt lõi. Sinh viên tốt nghiệp đại học sẽ phải trải qua một thời gian nhất định để chuyển đổi từ những kiến thức, kỹ năng cơ bản đã được trang bị thành những kinh nghiệm, kỹ năng tác nghiệp cụ thể. Quá trình chuyển đổi này thường được hỗ trợ bởi các nỗ lực đào tạo bổ sung tại các cơ sở sử dụng nhân lực. Điều quan trọng là, nếu sinh viên được đào tạo để đáp ứng tốt được những yêu cầu cốt lõi thì họ sẽ có khả năng thích nghi nhanh chóng với yêu cầu của công việc cụ thể. Không có trường đại học nào trên thế giới có thể trang bị cho sinh viên mọi thứ mà nơi sử dụng lao động yêu cầu. Yêu cầu xã hội nên được làm rõ không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp. Tùy theo đối tượng và chuyên ngành đạo tạo, đáp ứng yêu cầu xã hội ở đây gồm cả yêu cầu về sử dụng và phát triển nguồn nhân lực trong các tổ chức chính trị xã hội, cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp...

Một khó khăn cơ bản của đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội xuất phát từ thực tế là cầu về đào tạo đại học nhiều hơn khả năng cung của các trường. Bên cạnh đó, dù có sự dư thừa cục bộ ở một số địa bàn trọng điểm, nguồn cung của các trường nhỏ hơn nhiều cầu của thị trường lao động. Do đó, một số trường đại học đào tạo không đáp ứng được yêu cầu nhưng vẫn có thể tồn tại, phát triển mà không bị đào thải như thực tế ở nhiều nước tiên tiến.

Vì "sức ép thị trường" không đủ mạnh, do cầu lớn hơn cung nên các cơ sở đào tạo không chịu áp lực thay đổi, cải cách. Khi sức ép thị trường không đủ mạnh - một dạng của thất bại thị trường - thì cần có sức ép hành chính đủ mạnh từ phía cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Điều đó đặt ra câu hỏi lớn là làm thế nào để tăng "sức ép hành chính" trong vấn đề này nhưng vẫn bảo đảm tiếp tục chủ trương tăng cường tự chủ đại học?

Với cách đặt vấn đề như trên, xây dựng và cải thiện thông tin thị trường lao động có thể coi là một trọng tâm chiến lược phát triển. Về phía các trường đại học, thực hiện điều tra sinh viên tốt nghiệp trong vòng 1 năm khi ra trường, công bố kết quả điều tra rộng rãi, đưa kết quả điều tra vào thông tin tuyển sinh là những bước đi cần thiết. Thông tin này sẽ giúp thí sinh chọn lựa trường đại học để tham gia thi tuyển/dự tuyển. Đồng thời, kết quả này cũng sẽ là đầu vào trực tiếp để các trường đại học tự đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu xã hội của trường. Về phía Bộ GD và ĐT, có thể cân nhắc một số hỗ trợ sau:

Thứ nhất, thể chế hóa điều tra sinh viên tốt nghiệp, coi đây là yêu cầu bắt buộc cho tất cả các trường; quy định chung về khung phiếu điều tra (có thể 60% do Bộ GD và ĐT quy định; 40% câu hỏi do các trường xây dựng); quy định thời gian, quy trình điều tra; quy định về cách thức thu thập thông tin, xử lý kết quả; quy định về các biểu mẫu cần tổng hợp; quy định về cách thức công bố thông tin.

Thứ hai, trọng tâm điều tra nhấn mạnh vào thời gian tìm việc; mức độ phù hợp của công việc với chuyên ngành đào tạo; mức độ đáp ứng các yêu cầu cụ thể của công việc. Có thể đi sâu hơn bằng việc đưa ra một số "giới hạn sàn" cho một số chỉ tiêu cơ bản, trường đại học nào không vượt qua được những "giới hạn sàn" này sẽ phải chịu cắt giảm ngân sách, thậm chí sáp nhập, giải thể.

Thứ ba, trên cơ sở điều tra của các trường, Bộ GD và ĐT sẽ tiến hành tổng hợp để tạo cơ sở dữ liệu quốc gia về điều tra sinh viên tốt nghiệp. Hệ cơ sở dữ liệu này sẽ cung cấp thông tin quan trọng cho thị trường lao động, là nguồn tham khảo cho thí sinh (trong quyết định chọn trường), cho các trường (trong tự đánh giá), cho Bộ GD và ĐT (trong hoạch định chính sách).

Xây dựng công tác dự báo nhu cầu nhân lực sẽ là ưu tiên chiến lược. Về nguyên tắc, việc dự báo nhu cầu nhân lực vẫn được thực hiện theo nhiều cách khác nhau trong thời gian qua. Tuy nhiên, công tác nghiên cứu dự báo này chưa phát huy được tác dụng cần thiết, chưa bảo đảm được vai trò cung cấp thông tin cho thị trường lao động. Việc xây dựng trung tâm nghiên cứu dự báo nhân lực quốc gia phù hợp với định hướng chiến lược này. Việc nghiên cứu và dự báo nhu cầu nhân lực cần được thực hiện trong cả nước, cho các khu vực, vùng địa lý, và địa phương (có thể dừng lại ở cấp tỉnh). Nhiệm vụ nghiên cứu, cung cấp thông tin ở cấp địa phương theo yêu cầu của trung tâm nên được giao cho các sở, các phòng giáo dục tại địa phương. Để bảo đảm thống nhất, trung tâm này cũng nên là nơi phụ trách công tác quản lý nhà nước về điều tra sinh viên tốt nghiệp của các trường đại học.

Cải cách giáo dục đại học trong điều kiện cụ thể của Việt Nam là quá trình đấu tranh trong mâu thuẫn giữa "cái mới tiến bộ" và "cái cũ lạc hậu". Từ góc độ quản lý, sẽ không thể hy vọng ngay lập tức thay đổi để cho "cái mới tiến bộ" chiếm vị trí tuyệt đối. Điều quan trọng là tạo điều kiện để cho "cái mới tiến bộ" được phát triển, được lan tỏa, dần dần thay thế "cái cũ lạc hậu".

Quá trình cải cách cần có những đột phá, những "cú hích" tạo đà cho sự phát triển. Quá trình này đòi hỏi tăng cường vai trò quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo cách tiếp cận mới của kinh tế thị trường. Quá trình này cũng đòi hỏi có những con người dám nghĩ, dám làm và tâm huyết./.

PGS. TS. Bùi Anh Tuấn (theo tapchicongsan.org.vn)

 
------------------------------------

(1) Luật Giáo dục hiện nay chưa bao quát hết được các loại hình trường đại học trên thực tế, do vậy cần có sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn

Cập nhật ( 26/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.”

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 2" (2023-2024) chuyên ngành Kiến trúc Công nghệ K65
+ Kế hoạch "Thực tập cán bộ kĩ thuật đợt 3" (2023-2024) ngành Kiến trúc K65
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 2" (2023-2024) ngành Kiến trúc K65
+ Danh sách lớp nguyện vọng - Học kì 2 (2023-2024)
+ Nhiệm vụ thiết kế "Đồ án Kiến trúc 5 - K66" (2023-2024)
+ Phân công giảng dạy Bộ môn KTCN, Học kỳ 2, Năm học 2023 – 2024
+ Phân công giảng dạy HK3 (2023 - 2024)
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 3" (2023-2024) chuyên ngành Kiến trúc Công nghệ K64
+ Kế hoạch thực hiện "Đồ án tốt nghiệp đợt 3" (2023-2024) ngành Kiến trúc K64

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com