Thay vì đào tạo tiến sĩ khi chưa có thực lực, Việt Nam nên dùng tinh hoa của thế giới và lo đào tạo số kỹ sư có năng lực thực chất.
Những kỹ sư rất cần thiết vì họ là người chuyển từ lý thuyết ra ứng dụng. Nếu không có họ, những lý thuyết kia trở thành vô dụng. Những nước chậm tiến như Việt Nam lại cần nhiều kỹ sư hơn là tiến sĩ trong giai đoạn xây dựng. Hơn nữa, đào tạo một kỹ sư lại rẻ, nhanh và thực dụng hơn.
Đào tạo gắn với nhu cầu kinh tế thị trường
Ông Hervé Bolot, Đại sứ Pháp tại Việt Nam cho rằng, vấn đề chính của ĐH đẳng cấp quốc tế là phải có sự liên kết giữa đào tạo, nghiên cứu với các ngành công nghiệp17. Bộ trưởng GD Nguyễn Thiện Nhân cũng cho rằng các chương trình nghiên cứu cần phải có sự liên kết, dựa vào khoa học và xuất phát từ nhu cầu thị trường. Thế nhu cầu thị trường phát sinh ra từ đâu? Đấy là từ các hãng xưởng công nghiệp địa phương.
Một viện nghiên cứu, trường ĐH lập ra để phụng sự đất nước phải tuỳ thuộc vào công nghiệp điạ phương, thay đổi cho hợp từng vùng. Thử hỏi những ngành công nghiệp chính của Việt Nam là gì?
Dựa trên trang điện tử của Tổng cục Thống kê18, thuộc Chính phủ, Việt Nam có 3 ngành công nghiệp, đó là khai thác, chế biến và sản xuất/ phân phối điện nước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến là lớn nhất (chiếm 85%), gồm phần đông là những ngành tiểu công nghệ. Phân loại ra thì ngành sản xuất thực phẩm và đồ uống dẫn đầu (đồ thị 3) với ngành khai thác dầu thô và khí đốt chiếm vị trí thứ nhì.
Đồ thị 3: Sáu nhóm ngành công nghiệp lớn nhất của Việt Nam |
|
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành công nghiệp. Nguồn Tổng cục Thống kê
|
Đồ thị 3 cho thấy rằng ngành dầu mỏ chiếm vị trí thứ hai tính trên giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân ngành đã trên 10 năm qua, thế mà Việt Nam thật sự chưa có một cơ sở giáo dục tốt để đào tạo những kỹ sư dầu khí chuyên ngành. Đấy là chưa nói đến cơ sở nghiên cứu, dùng để nghiên cứu phương pháp khai thác và sản xuất dầu thô có hiệu quả hơn từ những mỏ dầu đặc biệt, ít nơi nào sản xuất. Ấy là loại mỏ dầu "đá móng nứt" (Fractured Basement Reservoirs).
Thử đưa ra một vài công nghệ khác mà Việt Nam cần nên để tâm vào. Theo bảng thống kê, kỹ nghệ đóng tàu không có tên. Đây là một điều đáng ngạc nhiên vì Việt Nam có một bờ biển dài trên 3.500 cây số, nhiều đảo, dân sống về nghề biển và đi lại bằng thuyền bè. Có phải đây là một sự thiếu sót?
Đồ thị 4: Những Vùng Công nghiệp tại Việt Nam |
|
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo địa phương |
Vấn đề thứ ba về nhu cầu thị trường cần nghiên cứu là thủy động học. Đề tài cho ngành công nghệ này gồm có: Thoát nước đọng sau mỗi cơn mưa ở những đô thị lớn, phương án chống nước mặn xâm lấn đồng bằng sông Cửu Long, tính chất của tầng gậm nước (aquifer) ảnh hưởng đến mỏ dầu, v.v...
Ý tưởng về kết hợp các viện nghiên cứu với các trường ĐH là điều nên làm. Không những thế, những viện này và nhất là những ĐH chuyên khoa nên thiết lập gần vùng công nghiệp liên hệ hội tụ thì sẽ đưa đến những kết quả tốt đẹp hơn.
Trên 53% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước dựa theo số liệu của năm 2007 tụ hợp ở vùng Đông Nam Bộ, gồm Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh như trong đồ thị 4.
Đào tạo qua sự hợp tác và trao đổi
Trong một hệ thống ĐH, nếu chăm sóc đúng cách cũng có nghĩa là nhận sự hợp tác, hỗ trợ cũng như liên hệ và trao đổi với những cơ sở ĐH, viện nghiên cứu khác cùng lĩnh vực trên thế giới.
Sự liên hệ này rất quan trọng trong việc xây dựng một viện ĐH đẳng cấp quốc tế. Chính thế, cách xếp hạng của nhóm THES như đã giới thiệu ở trên, coi trọng sự liên đới này, họ đã dùng đến 40% số điểm khảo sát để xếp hạng các trường ĐH và cao đẳng của thế giới. Khảo sát này được dựa trên kết quả của một cuộc thẩm định và đánh giá từ các cơ sở giáo dục trên thế giới, từ giảng viên đến viện trưởng, về các tổ chức mà họ xem là tốt nhất trong cùng lĩnh vực giáo dục hay nghiên cứu.
Với một viện nghiên cứu ĐH, cần nên vận động để có được sự hợp tác hay hỗ trợ đến từ những cơ sở giáo dục có tên tuổi trong cùng lĩnh vực, tham gia những chương trình giao lưu quốc tế. Cơ sở giáo dục cũng nên bỏ kinh phí để mời những giảng viên, các nhà khoa học, nghiên cứu có tên tuổi trong lĩnh vực đến giảng dạy, dự hội thảo, thuyết trình...
Lấy ví dụ, trong ngành thủy động học dẫn ở trên, viện ĐH Waterloo thuộc Canada là một trong những trường dẫn đầu về ngành này. Đây cũng nơi tiên phong đưa ra chương trình thực tập (co-op education) hơn 50 năm về trước, rất thịnh hành cho giới sinh viên Việt du học trước năm 1975.
Trường ĐH Waterloo có đến 3 loại thỏa thuận trao đổi. Loại 1 là chương trình giao lưu quốc tế (International Exchange Opportunities), giữa những phân khoa kỹ thuật ứng dụng của viện với phân khoa khác trên toàn thế giới. Trường trao đổi với tất cả 60 trường, thuộc 20 nước và ở khắp châu Á, Úc, Âu, Bắc Mỹ, và vùng Thái Bình Dương.
Loại 2 là thỏa thuận trao đổi liên trường, bao gồm tất cả khoa, giữa ĐH Waterloo và các ĐH khác.
Loại 3 là sự thỏa thuận trao đổi giữa Chính phủ các nước.
Cần đào tạo kỹ sư chuyên môn trước
Việc Việt Nam xây dựng một hay nhiều viện ĐH đẳng cấp quốc tế để phát triển kinh tế, xã hội trong tương lai là cần thiết. Nhưng đồng thời, Chính phủ Việt Nam phải xây dựng một nền móng giáo dục trung và tiểu học vững chắc.
Không phải Singapore một sớm một chiều mà trở thành nước phát triển giàu mạnh. Singapore đã có cuộc cải cách giáo dục cách nay trên 50 năm. Họ đã phát triển kinh tế và xã hội bằng cách đào tạo một số lượng kỹ sư ứng dụng, ước chừng 1% của dân số vào đầu thập niên 70 của thế kỷ trước. Viện NUS lại mời một huấn luyện viên từ Mỹ, là người sinh ra và lớn lên tại Singapore, mang sự học hỏi và kinh nghiệm về dẫn dắt. Ông đã hoà hợp đông- tây để đưa NUS lên đỉnh cao.
Đồ thị 5: Thống kê tiền lương cho kỹ sư dầu gốc Mỹ ở Mỹ |
|
Nguồn: spe.org
|
Nhà nước nên tạm thời tuyển dụng trong và ngoài nước những ứng viên với học vị giảng viên có chất lượng nghiên cứu để làm những nhà dẫn dắt trong giai đoạn đầu. Nếu nhà nước cần hai vạn giảng viên, giáo sư ĐH để giảng dạy cho niên khóa tới, trên lý thuyết thì nhà nước cũng có thể thực hành ngay không phải chờ, chứ nói gì đến vài trăm. Đây là những nhà dẫn dắt hay những nhà huấn luyện viên trong giai đoạn xây dựng.
Tuy nhiên, nhà nước không thể mướn ngay được vài trăm ngàn kỹ sư trên thị trường chỉ vì chi phí quá lớn để công nghiệp hóa đất nước.
Theo thị trường việc làm ở Bắc Mỹ thì chi phí để thuê một kỹ sư với bằng cử nhân có khi còn tốn kém hơn nhiều so với một giảng viên ĐH trong cùng lĩnh vực.
Đấy là một thực tế. Những kỹ sư rất cần thiết vì họ là người chuyển từ lý thuyết ra ứng dụng. Nếu không có họ, những lý thuyết kia trở thành vô dụng. Những nước chậm tiến như Việt Nam lại cần nhiều kỹ sư hơn là tiến sĩ trong giai đoạn xây dựng.
Hơn nữa, đào tạo một kỹ sư lại rẻ, nhanh và thực dụng hơn. Singapore, Đài Loan và Hàn Quốc đã sớm nhận ra điều này trong những thập niên về trước.
Đồ thị 6: Thống kê trình độ học vấn trong giới kỹ sư Dầu theo vùng |
|
Nguồn: spe.org
|
Việt Nam hiện giờ thiếu những nhà dẫn dắt có chất lượng, kinh nghiệm ứng dụng và thành tích.
Người viết bài này đã từng làm công việc dẫn dắt cho không biết bao nhiêu kỹ sư mới ra trường đến thực tập từ nhiều quốc gia, nơi mà hãng của tác giả đang công tác có đặt trụ sở như Bắc Mỹ, Anh, Norway, Nam Dương, Trung Quốc, v.v...
Tuy nhiên, tác giả cũng chưa từng thấy hay nghe đến một kỹ sư Việt nào cùng ngành gửi đến từ Việt Nam mặc dù Việt Nam cũng có trụ sở của hãng. Điều này không mấy ngạc nhiên khi duyệt qua chương trình giảng dạy của khoa kỹ thuật thuộc ĐHQG Tp. HCM. Bộ môn kỹ thuật có một chỗ đứng rất khiêm nhường với đội ngũ giảng viên nghèo nàn, không ai được đào tạo hay có kinh nghiệm từ Bắc Mỹ.
Cần lựa chọn mô hình phát triển mới
Việt Nam phải lựa chọn chiều hướng của những ngành công nghiệp trong tương lai, những ngành mà mình có thể đạt được trong vòng 10 đến 20 năm đến.
Ví dụ, Hàn Quốc ban đầu vào những thập niên 60, 70 đã vạch ra đường lối để tiến tới công nghiệp nặng như sản xuất ô tô, tàu thuỷ. Họ đã gửi những sinh viên sang học ngành đóng tàu và kỹ thuật hàng hải, tại các viện ĐH dẫn đầu về lãnh vực ấy.Vào cuối thế kỷ 20, họ lại thêm những ngành công nghiệp mới như robot, vi điện tử, chíp bộ nhớ (computer memory chips), siêu vi hóa (fine chemistry), y sinh vật (bioengineering) và hàng không vũ trụ.
Singapore thì gồm có công nghệ dịch vụ tài chính, phân phối hàng hóa (entrepôt trade), sinh học, điện tử, hóa chất, thiết bị khoan dầu, tinh chế xăng dầu, chế biến cao su, sửa chữa tàu ... Phần đông những công nghệ ấy rất thích hợp với địa thế của Singapore.
Theo đồ thị 4, những ngành công nghiệp chính hiện nay tại Việt Nam gồm thực phẩm, đồ uống, sản xuất dầu khí, sản phẩm dệt may, v.v... Đây không phải là những công nghiệp mới của thế kỷ 21.
Nếu Việt Nam muốn trở thành một nước công nghệ hóa, các quan chức Chính phủ, học giả, nghiên cứu, các nhà lãnh đạo kinh doanh và kế hoạch phải ngồi lại với nhau để định hướng cho những công nghiệp mới. Ví dụ, những công nghiệp mới liên hệ đến nền công nghệ xanh sẽ có nhiều triển vọng trong thập niên tới.
Vài kiến nghị
Việt Nam cần cải cách nền giáo dục không những chỉ giáo dục ĐH, CĐ mà còn cả trung và tiểu học. Để trong vòng 10 năm tới, tất cả học sinh sau bậc trung học đều có khả năng và cơ hội để tiến thân trên đường học vấn và học nghề. Lúc đó, văn bằng trung bình để vào thị trường nghề nghiệp là có ít nhất từ 2 đến 4 năm huấn luyện sau trung học.
Riêng về cải cách ĐH, nhà nước nên cải cách và chuyển hướng những ĐH đã có, dựa trên những phương pháp đã được áp dụng thành công từ các nước trong vùng Đông Á như Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc và đầu tư chất xám đến từ khắp mọi nơi, đặc biệt ưu tiên cho chuyên viên gốc Việt.
Nhà nước không nên vội vàng đào tạo 2 vạn tiến sĩ trong lúc này vì VN chưa có thực chất để đào tạo những tiến sĩ thực sự, mà nên dùng tinh hoa của thế giới để làm việc ấy như những nhà huấn luyện viên, dẫn dắt, giảng dạy, nghiên cứu, tư vấn trong giai đoạn đầu. Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là đào tạo số kỹ sư, cán sự có năng lực thực chất để đem những lý thuyết, phương pháp sẵn có của thế giới ra ứng dụng vào đời sống.
Những viện ĐH đẳng cấp hay viện nghiên cứu tương lai nên đặt trọng tâm vào nghiên cứu trong những ngành công nghệ mới mà Việt Nam muốn hướng đến và những công nghệ hiện nay đang gặp khó khăn. Chính vì thế, Việt Nam phải xác định rõ những công nghệ mới là những công nghệ nào nếu việc ấy chưa thực hiện.
Sau đây là những đề nghị để bổ sung:
1. Những viện ĐH nên có những phân khoa liên hệ đến những công nghệ chính của điạ phương để cho tiện việc đi lại, hội họp, viếng thăm cơ sở và sinh viên thực tập.
2. Thành lập Chương trình Kỹ thuật hợp tác (Engineering Associates Program). Các vị lãnh đạo từ các ngành công nghiệp cũng như từ nhóm giảng dạy ngồi lại cùng nhau để soạn thảo một sự hợp tác, phác họa chương trình phát triển mới về những khía cạnh quan trọng trong giáo dục kỹ thuật và nghiên cứu mà các ngành công nghiệp đang cần.
3. Áp dụng "chương trình cô-ốp", vừa học vừa làm (hay nghiên cứu), vào chương trình học của các viện CĐ (bậc cán sự) và ĐH (bậc cử nhân, thạc sĩ).
4. Coi trọng vấn đề ngoại ngữ nhất là Anh văn để sinh viên có thể lấy những môn dạy bằng ngoại ngữ, nghe và thuyết trình, làm thực tập với những công ty ngoại quốc,.v.v...
5. Nhà nước nên tuyển dụng những sinh viên xuất sắc để đưa đi học các ngành liên hệ đến những công nghệ cần thiết tại các trường dẫn đầu trên thế giới. Để bảo đảm sự trở về của các sinh viên đã thành đạt, nhà nước nên ký một hiệp đồng trước khi gửi đi.
6. ĐHQG Hà Nội và ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh vẫn có nhiều triển vọng nhất, nếu có một sự cải tổ đúng đắn được ứng dụng, để vào được danh sách top 500 của các viện đại học và cao đẳng thế giới. Nói cho cùng, những ĐH Á châu đã được vào danh sách Top 20 như ĐH Bắc Kinh, ĐH Tokyo và ĐHQG Singapore cũng có một phần nào nhờ đã có tiếng lâu đời vậy.
Dương N. Anh (Canada) - (Theo Tuanvietnam.net)
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả
17 2025, Việt Nam sẽ có 5 trường ĐH đẳng cấp quốc tế- http://vietnamnet.vn/giaoduc/2009/09/868263/
18 Tổng cục Thống kê http://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=217
19 Thống kê Tiền Lương từ Hội Kỹ Sư Dầu Khí - http://www.spe.org/spe-site/spe/spe/career/salary_survey/08SalarySurveyHighlights.pdf |