Kích cầu để tăng tiêu dùng cho nhóm sản phẩm nông - lâm - thuỷ sản sẽ tạo ra tác động lớn tới tăng trưởng kinh tế quốc gia và tạo việc làm cho xã hội với yêu cầu về vốn ít nhất.
Ba nhóm kịch bản
Để thấy rõ hơn tác động đến toàn nền kinh tế khi kích cầu cho từng ngành riêng lẻ, thử mô phỏng trường hợp tăng cầu cho một ngành và xem xét tác động lan tỏa sẽ làm tăng sản lượng của các ngành khác và thu nhập các thành phần trong toàn nền kinh tế như thế nào.
Mọi kịch bản ở phần này đều có cùng cú sốc là tăng cầu của một lĩnh vực với giá trị tương đương 1% GDP (tính theo giá sản xuất của năm 2005), làm tròn thành 7000 tỷ đồng. Việc phân phối tăng cầu cho các ngành nhỏ trong mỗi khu vực tính theo tỷ lệ cấu trúc chi tiêu của các “tài khoản ngoại sinh” trong từng khu vực[1]. Các tính toán này dựa trên tỷ lệ sử dụng lao động và vốn cho một đơn vị sản lượng năm 2005.
- Kịch bản 1: lần lượt tăng cầu từng khu vực nông nghiệp (nông lâm ngư nghiệp), công nghiệp (công nghiệp và xây dựng) và dịch vụ nhằm ước lượng tác động tăng trưởng của từng khu vực về GDP, mức độ đồng đều của tăng trưởng và thu nhập theo lao động, theo vốn của từng khu vực, tác động tới thu nhập hộ thành thị và nông thôn, tác động tạo việc làm, việc làm ở nông thôn và đô thị.
|
Ảnh: vietnamnet.vn
|
- Kịch bản 2: lần lượt tăng cầu cho ba hướng chi tiêu chính: chi tiêu chính phủ, chi tiêu cho đầu tư và cho xuất khẩu để ước lượng tầm quan trọng từng hướng chi tiêu đối với tăng trưởng GDP chung và tăng trưởng GDP của từng khu vực, đến thu nhập và lao động của nông thôn và đô thị, đến hiệu quả sự dụng vốn và lao động.
- Kịch bản 3: lần lượt mô phỏng phương án kích cầu bằng cách mua sản phẩm của bốn ngành sản xuất tiêu biểu cho nông nghiệp và công nghiệp là lúa, phân bón - thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng và sắt thép nhằm xem xét các tác động đối với tăng trưởng GDP chung và tăng trưởng GDP của từng khu vực, đến thu nhập và lao động của nông thôn và đô thị, đến hiệu quả sử dụng vốn và lao động, đến khả năng tạo việc làm cho xã hội.
Nếu nông nghiệp được kích cầu sẽ có thêm 1 triệu việc làm
Nếu kích cầu tập trung vào khu vực nông nghiệp sẽ tạo ra tác động mạnh nhất đến tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế. Tăng cầu với giá trị 1% GDP cho ngành nông nghiệp sẽ tăng GDP cả nước 1,2%. Rõ ràng, khu vực nông nghiệp có mức liên kết kinh tế rất mạnh và có hệ số nhân khá lớn.
Kích cầu vào khu vực này sẽ tạo ra hiệu ứng khuếch đại mạnh đến các ngành khác. Trong khi đó, nếu tập trung kích cầu vào khu vực công nghiệp thì tác động tổng hợp lên chính khu vực này cũng không cao, chỉ tăng GDP công nghiệp lên 0,94%. Đây là lĩnh vực nếu được kích cầu sẽ đem lại tác động tăng trưởng thấp nhất cho toàn nền kinh tế khi tổng GDP chỉ tăng trưởng 0,64%.
Xét về thu nhập của các nhân tố, kích cầu vào khu vực nông nghiệp sẽ tạo ra tác động mạnh đến tăng trưởng thu nhập trên lao động, trong khi kích cầu vào công nghiệp sẽ thúc đẩy tăng trưởng thu nhập trên vốn nhiều hơn.
Tập trung kích cầu vào khu vực nông nghiệp thì lao động nông thôn có mức tăng trưởng thu nhập cao hơn so với lao động thành thị và làm tăng thu nhập hộ gia đình nông thôn hiện chiếm trên 70% tổng số hộ cả nước.
Nếu tập trung kích cầu cho khu vực dịch vụ thì thu nhập của lao động trong khu vực thành thị sẽ tăng trưởng cao hơn so với lao động nông thôn, góp phần làm tăng thu nhập các hộ gia đình thành thị. Nếu tập trung kích cầu vào khu vực công nghiệp, tăng trưởng thu nhập của lao động giữa nông thôn và đô thị ít khác biệt hơn và có tác động tăng thu nhập tương đối đồng đều cho cả hộ gia đình nông thôn và đô thị.
Xét về việc làm, tập trung kích cầu cho sản phẩm khu vực nông nghiệp sẽ tạo việc làm nhiều nhất, vượt hẳn so với kích cầu vào các lĩnh vực khác (khoảng một triệu việc làm so với mức 200 - 370 ngàn lao động trong các tình huống còn lại).
Nguyên nhân chính là do khu vực nông nghiệp hiện có mức độ sử dụng lao động nhiều nhất cho một đơn vị sản phẩm. Tập trung kích cầu vào khu vực nông nghiệp sẽ tạo ra việc làm nhiều nhất cho lao động nông thôn (trong một triệu việc làm được tạo ra thì có 950 ngàn ở nông thôn). Trong khi đó, nếu tập trung kích cầu vào các khu vực công nghiệp và dịch vụ chỉ tạo ra khoảng hơn một trăm ngàn việc làm cho khu vực nông nghiệp.
Kích cầu lần lượt dồn cho chi tiêu chính phủ, cho đầu tư và cho xuất khẩu.
Kích cầu tập trung vào chi tiêu chính phủ sẽ đem lại tác động lớn nhất cho tăng trưởng GDP quốc gia. Kích cầu tập trung vào đầu tư và xuất khẩu đem lại tác động tăng trưởng gần như nhau và có mức tăng thấp hơn so với kích cầu chi tiêu công.
Xét về tăng trưởng của từng khu vực, kích cầu vào chi tiêu chính phủ sẽ thúc đẩy sản xuất khu vực dịch vụ nhiều nhất. Tập trung kích cầu vào chi tiêu đầu tư sẽ tác động mạnh nhất hỗ trợ phát triển khu vực công nghiệp vì hiện nay đầu tư chủ yếu thu hút vào công nghiệp chế biến và xây dựng. Nếu tập trung kích cầu để phát triển xuất khẩu sẽ tác động mạnh nhất tới khu vực nông nghiệp và công nghiệp và tạo ra mức tăng tương đối đồng đều cho cả ba khu vực.
Xét về tác động đối với thu nhập, tập trung kích cầu chi tiêu chính phủ tác động mạnh đến lao động thành thị tạo nên chênh lệch lớn về mức tăng giữa thu nhập của lao động thành thị so với thu nhập của lao động nông thôn (1,45% so với 0,87%). Do đó, thu nhập của gia đình thành thị cũng tăng nhanh hơn so với thu nhập của gia đình nông thôn, nhưng mức chênh lệch không lớn (1,04% so với 0,74%). Kích cầu cho chi tiêu đầu tư và chi tiêu xuất khẩu đem lại tác động cân bằng hơn cho thu nhập giữa nông thôn và đô thị.
Xét về tác động đến hiệu quả sử dụng vốn và lao động thì tập trung kích cầu cho chi tiêu chính phủ đem lại kết quả tốt hơn so với hai phương án còn lại. Tuy nhiên, mức tăng không lớn và tập trung vào tăng hiệu quả của lao động thành thị, tạo ra sự chênh lệch giữa nông thôn và đô thị.
Tác động đối với việc làm cho thấy việc kích cầu tập trung vào khu vực chi tiêu công sẽ tạo ra nhiều việc làm nhất, sau đó là số việc làm tạo ra nhờ kích cầu vào khu vực xuất khẩu, kích cầu đầu tư có tác động tạo việc làm tương đối ít hơn. Nhìn chung, số việc làm được tạo ra dù ở kịch bản nào cũng không nhiều (khoảng 200 - 400 nghìn việc làm). Trường hợp kích cầu cho xuất khẩu tạo nhiều việc làm nông thôn hơn hai kịch bản kia (200 nghìn việc làm, khoảng 60% số việc làm tạo ra).
|
Ảnh: agro.gov.vn
|
Tập trung mua sản phẩm để kích cầu
Bốn ngành sản xuất đại diện cho khu vực nông nghiệp và công nghiệp (lúa, phân bón - thuốc trừ sâu, vật liệu xây dựng, và sắt thép) được lựa chọn để phân tích tác động trong trường hợp được tập trung mua sản phẩm để kích cầu.
Nếu tập trung kích cầu bằng cách thu mua lúa gạo thì tăng trưởng sản xuất lúa tạo nên mức tăng trưởng GDP chung của cả nền kinh tế cao nhất, trong khi tăng cầu sắt thép sẽ đem lại tác động tăng trưởng GDP thấp nhất. Khoảng cách chênh lệch về tăng trưởng kinh tế do hai hướng kích cầu khác nhau này là rất lớn.
Tác động của kịch bản tăng cầu với sản phẩm vật tư nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu) và sản phẩm vật liệu xây dựng xấp xỉ nhau, cao gấp đôi so với trường hợp kích cầu sắt thép nhưng cũng chỉ bằng một nửa so với kích cầu sản xuất lúa gạo.
Ngoài trường hợp kích cầu lúa gạo tạo ra mức tăng trưởng cao (4,38%) cho GDP của khu vực nông nghiệp, không có phương án kích cầu nào tạo nên mức tăng trưởng cao đột biến cho từng lĩnh vực cao như vậy. Việc kích cầu vật liệu xây dựng và vật tư nông nghiệp đóng góp đáng kể cho mức tăng trưởng GDP khu vực công nghiệp (khoảng 1%). Trong khi tăng cầu sắt thép thì không tạo ra sự tăng trưởng đáng kể ngay cả cho khu vực công nghiệp.
Về tác động đối với thu nhập, kích cầu đối sản xuất lúa tác động làm tăng rõ rệt thu nhập của lao động trong thu nhập tính cho nhân tố sản xuất, chủ yếu tăng thu nhập của lao động nông thôn. Do đó, thu nhập của gia đình nông thôn được cải thiện đáng kể. Khi kích cầu sắt thép thì thu nhập tính theo nhân tố vốn và lao động đều tăng lên ít.
Trong hai trường hợp tăng chi tiêu cho sản phẩm các ngành phân bón thuốc trừ sâu và ngành vật liệu xây dựng, hiệu quả tính cho nhân tố sản xuất và về thu nhập có khá hơn so với trường hợp kích cầu sắt thép nhưng không tạo nên sự biến đổi lớn, đồng thời không có sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Nguyên nhân chính tạo nên tình trạng này là do ngành sản xuất lúa gạo có tác động liên kết rất mạnh trong khi hai ngành sản xuất phân bón và vật liệu xây dựng có mức liên kết và số nhân không cao, sản xuất sắt thép có mức liên kết lẫn hiệu ứng số nhân thuộc nhóm thấp nhất.
Xét về tác động tạo việc làm, phương án kích cầu ngành sản xuất lúa sẽ có tác động tạo việc làm mạnh nhất, tạo ra một triệu việc làm mới, phần lớn tập trung vào khu vực nông thôn. Phương án kích cầu sắt thép sẽ tạo số lượng việc làm ít nhất chỉ bằng 1/10 so với phương án kia. Các phương án kích cầu cho ngành công nghiệp sản xuất vật tư nông nghiệp và vật liệu xây dựng cũng không tạo ra nhiều việc làm (gần 200 ngàn việc làm).
Khái quát tác động chung của các kịch bản mô phỏng, đối với các tiêu chí GDP, thu nhập nông thôn và tỉ lệ việc làm mới nông thôn trong tổng việc làm mới, nếu từ 0,9% trở lên thì được đánh giá là cao, nếu trên 0,5% tới 0,9% là trung bình, từ 0,5% trở xuống là thấp. Đối với tổng số việc làm, nếu từ 900 ngàn trở lên là cao, trên 500 ngàn đến 900 ngàn là trung bình và từ 500 ngàn trở xuống là thấp. Với mục tiêu giúp thu hẹp chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, đo bằng hiệu số giữa tăng trưởng thu nhập của hộ gia đình của hai khu vực, nếu chênh lệch này từ 1% trở lên thì xếp loại cao, từ 0,1% trở lên thì xếp loại trung bình, dưới 0,1% là thấp, nếu hiệu số này là âm thì có tác động ngược lại vì lúc này khoảng cách sẽ dãn thêm ra[2].
Tổng hợp kết quả các tác động
|
Tăng trưởng GDP
(%)
|
Tăng thu nhập nông thôn
(%)
|
Thu hẹp chênh lệch
|
Tổng việc làm
(ngàn việc)
|
Việc làm nông thôn/tổng việc làm (%)
|
Tăng cầu khu vực I
|
Cao
1,2%
|
Cao
1,6%
|
Cao
1,25
|
Cao
1,026
|
Cao
90%
|
Tăng cầu khu vực II
|
Trung bình
0,6%
|
Thấp
0,5%
|
Thấp
0,07
|
Thấp
234
|
Trung bình
54%
|
Tăng cầu khu vực III
|
Cao
0,9%
|
Trung bình
0,7%
|
Ngược lại
-0,3
|
Thấp
369
|
Thấp
34%
|
Tăng chi tiêu công
|
Cao
0,9%
|
Trung bình
0,7%
|
Ngược lại
-0,3
|
Thấp
370
|
Thấp
34%
|
Tăng chi tiêu đầu tư
|
Trung bình
0,7%
|
Thấp
0,5%
|
Không
0
|
Thấp
238
|
Thấp
45%
|
Tăng xuất khẩu
|
Trung bình
0,7%
|
Trung bình
0,6%
|
Trung bình
0,11
|
Thấp
312
|
Trung bình
60%
|
Tăng mua lúa
|
Cao
1,4%
|
Cao
2,2%
|
Cao
1,73
|
Cao
1,158
|
Cao
91%
|
Tăng mua phân bón
|
Trung bình
0,6%
|
Thấp
0,5%
|
Không
0
|
Thấp
182
|
Thấp
37%
|
Tăng mua VLXD
|
Trung bình
0,6%
|
Thấp
0,4%
|
Không
0
|
Thấp
171
|
Thấp
40%
|
Tăng mua sắt thép
|
Thấp
0,3%
|
Thấp
0,2%
|
Không
0
|
Thấp
93
|
Thấp
40%
|
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả mô phỏng SAM 2005.
Hai phương án kích cầu sản phẩm khu vực nông nghiệp nói chung, hay kích cầu tiêu dùng lúa nói riêng đều đem lại tác động mạnh phù hợp mục tiêu kinh tế xã hội. Trong kết cấu kinh tế hiện nay, nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng kích thích sự phát triển của nền kinh tế thông qua liên kết với các ngành khác và tiêu dùng của hộ gia đình nông thôn. Thị trường nông thôn thực sự là một nguồn cầu nội địa rất quan trọng hiện nay hầu như chưa được khai thác.
Sự lựa chọn khôn ngoan
Như vậy, để giúp lĩnh vực NLTS phát triển, cần ban hành các chính sách thiết thực tạo động lực khuyến khích nông dân và thu hút đầu tư xã hội phát triển sản xuất kinh doanh. Đây không chỉ là giải pháp chính trị xã hội mà còn là giải pháp đầu tư hiệu quả về kinh tế dài hạn.
Giải pháp cần thiết để duy trì phát triển lĩnh vực NLTS là tăng đầu tư công, đồng thời, phải tiến hành điều chỉnh kết cấu đầu tư, tạo cơ cấu cân đối giữa các nhóm kết cấu hạ tầng chính như thủy lợi và giao thông nông thôn, thủy lợi lớn và nhỏ, phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ tiếp thị; đầu tư đủ mức cho nông nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp theo hướng hỗ trợ kinh tế gia đình và kinh tế tư nhân phát triển. Kết hợp điều chỉnh cơ cấu đầu tư với cải cách thể chế, phát huy tinh thần chủ động của mọi thành phần kinh tế.
Kích cầu để tăng tiêu dùng cho nhóm sản phẩm NLTS sẽ tạo ra tác động lớn tới tăng trưởng kinh tế quốc gia và tạo việc làm cho xã hội với yêu cầu về vốn ít nhất. Tăng tổng cầu thông qua hướng này tác động rất mạnh góp phần thu hẹp khoảng cách về thu nhập giữa lao động và gia đình nông thôn với lao động và hộ thành thị, đảm bảo ổn định chính trị và công bằng xã hội.
Bên cạnh chính sách phát triển thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn, việc hỗ trợ và phát triển xuất khẩu sẽ đem lại tác động cân đối và phù hợp với các mục tiêu phát triển, đồng thời cũng không yêu cầu cao về vốn. Đây là những gợi ý chính sách quan trọng không chỉ có ý nghĩa trong việc khắc phục tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay mà còn có ý nghĩa lâu dài cho chiến lược công nghiệp hóa đất nước.
- TS. Đặng Kim Sơn (Viện trưởng Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn (IPSARD)
[1] Cộng tổng chi tiêu tài khoản ngoại sinh (chính phủ, đầu tư, và xuất khẩu) của từng ngành để có tổng chi tiêu cho cả khu vực, sau đó phân bổ tổng giá trị của cú sốc cho các ngành theo tỷ lệ chi tiêu tài khoản ngoại sinh của từng ngành nhỏ trong khu vực.
[2] Xin lưu ý các tiêu chí xếp hạng này là nhận xét chủ quan phân loại tổng quát các kết quả mô phỏng, chỉ dùng để so sánh giữa các tình huống mô phỏng của nghiên cứu này.
(theo Vietnam.net)