Tuần -13 - Ngày 29/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
XD và phát triển đội ngũ trí thức VN ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới
20/09/2008

 

 

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”. Bài viết sau đây trình bày một số vấn đề chung về vai trò, vị trí, tầm quan trọng và ý nghĩa của việc xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức, góp phần vào việc nhận thức sâu sắc và triển khai thực hiện Nghị quyết quan trọng của Đảng “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

Có thể nói, trí thức là những người không chỉ có trình độ học vấn, chuyên môn cao, mà còn là những người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị - xã hội nóng bỏng của thời cuộc. Đặc điểm cơ bản của trí thức là lao động trí óc và có tính sáng tạo. Đó cũng chính là đặc trưng nổi bật nhất của khái niệm trí thức. Kiểu lao động trí óc và sáng tạo ấy đặt ra đòi hỏi cao về tính độc lập của người trí thức trong tư duy, vận dụng kiến thức và kinh nghiệm đã được tích lũy cũng như năng lực chuyên môn nghề nghiệp để tìm ra biện pháp tối ưu giải quyết công việc.

1 - Trí thức trong lịch sử phát triển của nhân loại

Trong lịch sử vận động cơ cấu xã hội, trí thức chưa bao giờ trở thành một giai cấp mà chỉ tập hợp thành một tầng lớp xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, dấu hiệu quan trọng nhất để xác định giai cấp đó là khả năng đại diện cho một phương thức sản xuất và phải có hệ tư tưởng độc lập. Nhưng trong phân công lao động xã hội, trí thức không có quan hệ sở hữu riêng và trực tiếp đối với tư liệu sản xuất, do đó không có khả năng đại biểu cho phương thức sản xuất nào cả. Do đó, trí thức không phải là giai cấp, mà chỉ "là một tầng lớp đặc biệt" trong xã hội. Do đặc điểm lao động của mình, tầng lớp trí thức luôn phải gắn với những giai cấp nhất định và thường là giai cấp thống trị. Bởi vì, trong mỗi một thể chế chính trị cụ thể, trí thức nói chung là do chính hệ thống giáo dục và đường lối đào tạo của nhà nước của giai cấp thống trị ấy tạo ra nhằm phục vụ cho các mục đích của mình. Tầng lớp này có xu hướng phục vụ cho chế độ và giai cấp thống trị. Ngược lại, việc phục vụ cho chế độ và giai cấp thống trị là điều kiện cần thiết để bảo đảm sự tồn tại và những lợi ích của họ. Tuy nhiên, qua quá trình đấu tranh giai cấp và tác động nhiều mặt, tầng lớp trí thức phân hóa thành những bộ phận khác nhau. Những bộ phận khác nhau đó sẽ ngả theo lực lượng này hay lực lượng khác, giai cấp này hay giai cấp khác trong xã hội.

Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vai trò của trí thức rất lớn. C. Mác - Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin trên cơ sở tổng kết lịch sử xã hội loài người và thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đã đánh giá cao vai trò, vị trí của tầng lớp trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mạng lịch sử toàn thế giới của mình khi liên minh với các giai cấp và tầng lớp lao động khác mà trước hết là với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và lãnh đạo họ tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng.

Trong xu thế phát triển của nhân loại nói chung và của nền kinh tế tri thức nói riêng hiện nay, lao động trí óc đang ngày càng chiếm ưu thế, lao động chân tay đang thu hẹp dần. Nhiều quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội được tự động hóa, tin học hóa, đòi hỏi người sản xuất phải có trình độ tri thức, chuyên môn cao, làm việc theo phương thức sáng tạo. Do vậy, tầng lớp trí thức đang phát triển nhanh chóng và chắc chắn sẽ trở thành bộ phận dân cư lớn, không những về số lượng mà cả vai trò, sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến diễn tiến chính trị, kinh tế, xã hội. Đồng thời, họ sẽ là những người tạo ra phần lớn nhất của cải xã hội.

Mặt khác, trong nền kinh tế tri thức, ranh giới của tầng lớp trí thức với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội cũng không còn tách biệt rõ ràng như trước đây. Đã xuất hiện những bộ phận của giai cấp công nhân, nông dân và của các tầng lớp khác được trí thức hóa, lao động theo những đặc điểm của lao động trí thức. Chính vì thế, quan niệm về trí thức và giới trí thức cũng đã thay đổi, không còn nguyên nghĩa như trước đây, khi mà công nghệ thông tin chưa ra đời.

Cho dù quan niệm về trí thức có thể thay đổi do sự vận động của các điều kiện lịch sử xã hội, thì trong xã hội thời nào cũng vậy, tầng lớp tri thức đều có 5 vai trò chủ yếu là:

- Tiếp thu và truyền bá tri thức;

- Sáng tạo các giá trị mới của tri thức;

- Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương, chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội;

- Dự báo phát triển và định hướng dư luận xã hội;

- Tham gia gián tiếp và trực tiếp vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.

Cùng với những vai trò quan trọng kể trên, tầng lớp trí thức còn là bộ phận người rất nhạy cảm, có uy tín lớn cũng như tầm ảnh hưởng rộng trong xã hội. Những đặc điểm này của trí thức là do những điều kiện khách quan và vị trí của tầng lớp trí thức trong xã hội. Trước hết, đây là bộ phận người có trình độ học vấn cao nhất của xã hội. Họ cũng là những người có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận sớm nhất, nhiều nhất, nhanh nhất những thông tin xã hội. Những lời nói, hành vi của một cá nhân trí thức, đôi khi có thể ảnh hưởng lớn đến dư luận xã hội, thậm chí có thể tạo nên những phản ứng phức tạp liên quan đến an ninh trật tự của một địa phương hoặc cả nước.

Hoạt động của tầng lớp trí thức ngày nay ngày càng gắn bó với thị trường. Kết quả lao động của trí thức, dưới những hình thức khác nhau đều trở thành hàng hóa. Ngay cả chất xám của trí thức cũng dần dần bị chi phối, tác động bởi những quy luật thị trường. Đến lượt nó, sự nảy nở của ý thức thị trường lại kích thích hoạt động sáng tạo của trí thức, góp phần cho sự phát triển của xã hội và giúp cải thiện đời sống của họ.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức và sự tác động của cơ chế thị trường, vai trò chính trị, vị trí xã hội, địa vị kinh tế của tầng lớp trí thức cũng đang thay đổi nhanh chóng. Họ không còn chỉ là người tham mưu, đứng bên lề các tiến trình kinh tế, xã hội, mà đã trực tiếp tham gia và giữ vai trò quan trọng trong các tiến trình đó. Vì thế, quan niệm về giá trị trong tầng lớp trí thức ngày càng đa dạng hóa, giàu tính hiện thực hơn.

Như vậy, xét từ tất cả các bình diện như đặc điểm, vai trò, vị trí xã hội đều có thể thấy rằng, việc xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức không chỉ có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm nguồn lực con người cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mà nó còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong toàn bộ chiến lược xây dựng và phát triển đất nước.

2 - Trí thức ở Việt Nam và sứ mệnh của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Ở Việt Nam, đội ngũ trí thức hiện đại chủ yếu xuất thân là con em nông dân, công nhân, hoặc được hình thành trong quá trình trí thức hoá giai cấp công nhân và nông dân. Đây là một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức Việt Nam so với giới trí thức của nhiều nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Nhìn chung, chỉ có một số rất ít trong số trí thức được thừa hưởng truyền thống của các gia đình trí thức lâu đời. Đặc điểm đó đã tạo cho giới trí thức nước ta một ý thức gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động, thông cảm với người lao động vất vả, cực nhọc, với hoàn cảnh nghèo nàn, lạc hậu của đất nước, thiết tha mong muốn xây dựng nước ta thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có thể sánh vai với các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới. Từ thực tiễn lịch sử cũng có thể thấy, giới trí thức Việt Nam nhận thức rõ rằng: chỉ có sát vai cùng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động nói chung mới có thể giải phóng cho họ, xóa được nghèo nàn, lạc hậu và xây dựng, phát triển đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã nhận thức rõ và đánh giá cao vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước. Ngay từ những ngày đầu của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã từng nói: "Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều". Trả lời các nhà báo nước ngoài về vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức trong nhận thức, chính sách của Chính phủ cũng như trong thực tiễn cách mạng ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định : "Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung một phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngoài"(1).

Bản thân Hồ Chí Minh là một trí thức yêu nước đi làm cách mạng. Người đã hết sức trọng dụng tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc, tạo điều kiện cho họ được cống hiến, được thể hiện đầy đủ nhất tài năng, vai trò và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp chung của toàn dân. Hàng loạt trí thức trẻ - những học sinh, sinh viên yêu nước, giác ngộ cách mạng đã có mặt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo trung kiên, giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy Đảng, Nhà nước trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, v.v.. Nhiều trí thức trưởng thành trong nước hay từ nước ngoài trở về như: Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ, Tạ Quang Bửu, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Nghiêm Xuân Yêm, Trần Đại Nghĩa, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng, Phạm Huy Thông, Trần Duy Hưng, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi, Cù Huy Cận, Xuân Diệu v.v.. đã đi theo cách mạng ngay từ những ngày đầu độc lập, sẵn sàng chịu đựng những thử thách khó khăn, gian khổ, hy sinh trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, đóng góp tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, dành độc lập, tự do cho đất nước. Ngay cả trong Chính phủ lâm thời năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã mời các nhân sĩ trí thức không phải là đảng viên Đảng Cộng sản tham gia và giữ những trọng trách như: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Phan Anh, v.v..

Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước đến nay đều luôn nhấn mạnh quan điểm nhất quán là lấy "liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nòng cốt" của cách mạng. Điều này được thể hiện trong Chính cương, Điều lệ Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và nhiều văn kiện khác.

Thế giới hiện nay đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức con người. Đó là nền kinh tế trong đó sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, việc làm trong tất cả các ngành kinh tế. Sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức là một bước nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất và nền văn minh nhân loại. Tỷ trọng của cải tri thức trong tài sản quốc gia của các nước cũng ngày càng gia tăng. Vai trò cốt lõi là tri thức và công nghệ trong mối quan hệ hữu cơ với đội ngũ trí thức ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.

Nước ta đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình hội nhập với thế giới theo xu thế toàn cầu hóa. Các nước đi trước ta phải mất hàng trăm năm cho quá trình này. Các nước khu vực quanh ta cũng mất hàng nửa thế kỷ. Là người đi sau, chúng ta có nhiều cơ hội rút ngắn quá trình đó.

Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra trước mắt chúng ta nhiều yêu cầu, đòi hỏi, điều kiện, trong đó có yêu cầu đặc biệt quan trọng là phát triển nguồn lực con người - yếu tố vừa giữ vai trò như động lực, phương tiện để đạt được mục đích, vừa đồng thời là mục đích hướng tới của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức là một phần quan trọng, không thể thiếu của yếu tố nguồn lực con người. Yêu cầu đặt ra là phải có chiến lược, quy hoạch, giải pháp thích hợp và tập trung đủ các nguồn lực cần thiết để xây dựng đội ngũ trí thức mạnh cả về số lượng và chất lượng; phải phát huy được những tiềm lực là tinh hoa của đội ngũ đó; phải thông qua đội ngũ trí thức để tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nền kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức; phải giáo dục, rèn luyện để đội ngũ tri thức thực sự yêu nước, yêu chế độ, nhận thức được đầy đủ trách nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3 - Thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức nước ta hiện nay

Nhìn một cách tổng thể, đội ngũ trí thức Việt Nam đã được phát triển lớn mạnh và có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc cũng như trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Với chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước, nhiều con em nhân dân lao động đã được đào tạo trở thành những cán bộ khoa học - kỹ thuật, các nhà giáo, các văn nghệ sỹ. Đặc biệt trong hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới vừa qua, đội ngũ trí thức trẻ đã phát triển từ các nguồn đào tạo phong phú hơn, tiếp nhận được những tri thức, kinh nghiệm từ các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển ở các khu vực trên thế giới. Đây là bộ phận trí thức năng động, có khả năng cập nhật các vấn đề hiện đại về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, có khả năng lớn trong việc phát triển các mối quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước.

Theo số liệu thống kê, hiện nay nước ta có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên, chiếm 4,5% lực lượng lao động, trong đó có 18.000 thạc sỹ, 16.000 tiến sỹ và tiến sỹ khoa học, hơn 6.000 giáo sư và phó giáo sư. Tuy nhiên, có thể thấy đội ngũ trí thức nước ta hiện nay đang còn nhiều hạn chế cả về số lượng, chất lượng và hiệu quả hoạt động. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ - lực lượng chủ yếu của đội ngũ trí thức, chất lượng chưa cao về phương pháp tư duy sáng tạo, năng lực tổ chức, điều hành công việc, trình độ ngoại ngữ, mối quan hệ hợp tác với các đồng nghiệp nước ngoài... Đây chính là những hạn chế sẽ cản trở quá trình hội nhập của trí thức nói riêng và của đất nước nói chung.

Số liệu thống kê sau đây phần nào cho thấy sự hạn chế của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ nước ta. Từ năm 1998 đến năm 2002, toàn thế giới công bố được 35 vạn công trình khoa học và công nghệ, trong đó, Mỹ đóng góp xấp xỉ 1/3 - 119.000 công trình, Xin-ga-po: 6.932 công trình, Thái Lan: 5.210 công trình, Ma-lai-xi-a: 2.088 công trình. Riêng Việt Nam chỉ có 250 công trình, chiếm chưa đến một phần nghìn của thế giới. Trong 5 năm, 2001 đến 2005, nước ta có 11 đơn đăng ký sáng chế gửi Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, trong khi đó số lượng của các nước khác là: In-đô-nê-xi-a 36 đơn, Thái Lan 39 đơn, Phi-lip-pin 85 đơn, Hàn Quốc 15.000 đơn, Nhật Bản 87.620 đơn và Mỹ 206.710 đơn.

Chỉ số phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam mới chiếm 1,9%, tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế do nhân tố trí tuệ chỉ khoảng 16%, tỷ lệ ngành công nghệ cao chiếm 15,7%. Xuất khẩu công nghệ cao năm 2003 mới có 2,5%, khi đó Trung Quốc là 27%, Thái Lan là 30%, Xin-ga-po là 59%.

Có thể nói, sự hạn chế kết quả xây dựng đội ngũ trí thức ở nước ta gắn liền với một số vấn đề sau :

- Thiếu một chiến lược và quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức cơ bản và dài hơi. Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức phải được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, gắn bó hữu cơ và trở thành điều kiện của chiến lược cán bộ. Chiến lược ấy phải bao gồm đầy đủ các phương diện từ đầu tư phát triển hệ thống giáo dục; đào tạo, bồi dưỡng đại học và sau đại học ngang tầm với khu vực, thế giới; phát hiện, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng nhân tài; hệ thống nhất quán các chính sách về lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ trí thức; phát triển khoa học, kỹ thuật và công nghệ gắn với thu hút và phát huy tiềm năng đội ngũ trí thức; chính sách đãi ngộ đối với trí thức, v.v..

- Cùng với hạn chế về chiến lược chung trong xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức là những hạn chế về các chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực như: chưa có chính sách đồng bộ và hợp lý về phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài, lúng túng và thiếu đồng bộ trong chính sách lựa chọn, cử cán bộ trẻ, sinh viên ưu tú đi đào tạo ở nước ngoài và sử dụng họ sau khi đào tạo; các trường đại học trong nước có chất lượng thấp về đào tạo, nghiên cứu khoa học, chưa đạt chuẩn quốc tế; tỷ lệ sinh viên xuất thân công - nông giảm dần trong các trường đại học và cao đẳng v.v..

- Một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa thấy hết vai trò, vị trí của trí thức trong sự phát triển đất nước, phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục và văn hóa, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chưa nhận thức một cách sâu sắc rằng, nếu không xây dựng được đội ngũ trí thức vững vàng về tư tưởng, gắn bó với giai cấp công nhân và nông dân, có tài năng, có trình độ khoa học, công nghệ và văn hóa cao thì dân tộc sẽ tụt hậu về mặt trí tuệ, không thể tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Do quan điểm chưa rõ ràng nên nhiều chủ trương trong các nghị quyết của Đảng chậm được thể chế hóa về mặt Nhà nước để đưa vào cuộc sống nhằm đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tốt đội ngũ trí thức.

- Chính sách đãi ngộ đối với trí thức và những người tài chưa thật rõ ràng, đồng bộ, không hợp lý và không đủ để đáp ứng các yêu cầu về điều kiện làm việc. Bởi vậy, nhiều người có tài lại thường vươn lên rất khó khăn, dẫn đến một bộ phận thoái chí, ít hy vọng thay đổi hoàn cảnh. Một bộ phận trí thức có trình độ chuyên môn cao đã lựa chọn việc phục vụ các cơ quan nghiên cứu khoa học, công nghệ nước ngoài để phát huy tối đa năng lực công tác. Việc đầu tư kinh phí cho nghiên cứu khoa học vừa ít, vừa chia xẻ manh mún, phương thức quản lý lạc hậu, bất cập, quá câu nệ vào những thủ tục rối rắm, không chú ý khuyến khích hiệu quả. Những chính sách và cơ chế quản lý hoạt động khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng đã lạc hậu, chậm đổi mới v.v..

Những hạn chế về chính sách đãi ngộ, sử dụng trí thức dẫn đến: nhiều sinh viên được đào tạo ở nước ngoài sau khi tốt nghiệp không về nước làm việc, sinh viên tốt nghiệp các trường đại học trong nước không muốn trở về phục vụ tại quê hương. Một số người có trình độ chuyên môn cao, có khả năng sử dụng ngoại ngữ đã bỏ việc tại các cơ quan nhà nước để đi tìm việc làm tại các cơ sở nước ngoài hoặc tư nhân, có thu nhập cao và phương thức quản lý hiện đại. Nhiều trí thức làm việc trái ngành nghề đào tạo. Nhiều hoạt động của các viện nghiên cứu xa rời thực tế, ít gắn bó với yêu cầu cụ thể của kinh tế, xã hội và các yêu cầu thực chất của đời sống...

- Cuối cùng, cần phải nói đến giáo dục, đào tạo, lĩnh vực có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao dân trí cho toàn dân, tạo điều kiện đầu tiên và quyết định cho việc hình thành đội ngũ trí thức, nơi thu hút một bộ phận lớn trí thức có trình độ cao làm việc. Chính giáo dục, đào tạo là nền tảng tạo ra nguồn lực quyết định, lớn nhất của đất nước, là nơi chuẩn bị một cách toàn diện về học thức, thể lực, nhân cách, lối sống và những giá trị tinh thần, văn hóa quan trọng nhất cho lớp trẻ trở thành những trí thức, người lao động, chủ nhân ưu tú của dân tộc, của chế độ.

Tuy nhiên, hiện nay nền giáo dục của chúng ta đang có nhiều vấn đề, chưa đáp ứng yêu cầu của đất nước và kỳ vọng của nhân dân. ở khu vực giáo dục phổ thông, chương trình nặng nề, chưa chú ý quan tâm đầy đủ đến các nội dung bồi dưỡng, giáo dục về đạo đức, lối sống, ý thức công dân, tình cảm đối với quê hương đất nước. Tại Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa III, năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhận xét có ý nghĩa báo động đối với chương trình giáo dục: "Tôi xem chương trình giáo dục của 10 lớp, thì từ lớp 1 đến lớp 10, phần đức dục rất thiếu sót, chỉ có 10 dòng". Theo nhiều chuyên gia thì tình trạng ấy hầu như không được cải thiện là bao trong chương trình của 12 lớp hệ giáo dục phổ thông hiện nay. Phương pháp đào tạo trong giáo dục phổ thông chậm đổi mới, chủ yếu là phương thức truyền thụ một chiều từ giáo viên, làm cho học sinh thụ động, ỷ lại, thiếu tính sáng tạo.

Đối với hệ đào tạo đại học, tình trạng cũng không khả quan hơn. Khung chương trình bị bó cứng trong những "niêm luật" từ trên, không phát huy được trình độ và khả năng đặc thù của từng trường. Không ít môn học trùng lặp nhiều về tri thức ở cấp phổ thông. Các môn học Mác - Lê-nin chậm đổi mới về nội dung, phương pháp giảng dạy nên không tạo được sự quan tâm, hứng thú của người học. Hoạt động nghiên cứu khoa học nghèo nàn, chưa thực sự xuất phát từ yêu cầu thực tế. Phương pháp quản lý mang nặng tính bao cấp, quan liêu, không phát huy được sự tự chủ, trách nhiệm và sự sáng tạo của từng nhà trường, từng người thầy, chưa quan tâm thích đáng đến việc kiểm tra, đánh giá chất lượng đầu ra. Chính sách đãi ngộ đối với giáo dục, nhất là với giáo viên không nhất quán, chưa đủ mức cần thiết để động viên, khuyến khích đội ngũ giáo viên nâng cao năng lực, đổi mới phương pháp giảng dạy, v.v..

4 - Một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam đáp ứng đòi hỏi cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế

Từ những phân tích về vai trò, vị trí, yêu cầu, thực trạng và những vấn đề đang đặt ra cho đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng, Đảng và Nhà nước ta cần phải sớm có những quyết sách quan trọng, kịp thời và mạnh mẽ nhằm xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức. Đó là một trong những yêu cầu, điều kiện cần thiết và quan trọng cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của chúng ta. Từ nhận thức sâu sắc về yêu cầu đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" đã đề ra 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp nhằm đổi mới công tác trí thức, xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn mới:

1 - Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức, trong đó chú trọng việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách xã hội nhằm xây dựng một môi trường thực sự dân chủ, tôn trọng và bảo vệ các điều kiện lao động sáng tạo, các chế độ đãi ngộ thích đáng đối với trí thức. Có chính sách và cơ chế để tạo điều kiện phát huy năng lực chuyên môn, khoa học của các chuyên gia, các nhà khoa học và công nghệ trình độ cao, những tài năng lớn trong các lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật... Nhà nước sẽ tiếp tục đầu tư nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật, xây dựng những khu công nghệ, các trường đại học trọng điểm, các cơ sở phục vụ nghiên cứu và thực nghiệm, cũng như mở rộng hợp tác quốc tế, mở ra nhiều khả năng cho đội ngũ trí thức học tập, nâng cao trình độ và cống hiến.

2 - Xây dựng chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, trong đó quy định rõ trách nhiệm và trao quyền tự chủ cho từng cấp, từng ngành, từng vị trí cán bộ lãnh đạo, quản lý trong việc sử dụng, bổ nhiệm và thực thi các chính sách đãi ngộ của Nhà nước với trí thức, đặc biệt là đối với cán bộ đầu ngành, những người có trình độ chuyên môn - kỹ thuật cao. Có cơ chế, chính sách để động viên và sử dụng có hiệu quả những trí thức có sức khỏe, có trình độ, năng lực chuyên môn tốt nhưng đã hết tuổi lao động. Cùng với chế độ ưu đãi về lương, điều kiện làm việc cho trí thức trong nước, Nhà nước xây dựng chính sách để thu hút các trí thức Việt kiều tham gia công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

3 - Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức, bao gồm cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học; đổi mới cơ chế quản lý, vận hành các trường đại học, các viện nghiên cứu; thực hiện tốt việc đưa sinh viên có triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài; bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ và mở ra nhiều hình thức, huy động các nguồn lực xã hội tham gia bồi dưỡng, đào tạo lại để đội ngũ trí thức đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.

4 - Củng cố và phát triển các hội trí thức nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức này trong việc tập hợp, đoàn kết, góp phần phát huy năng lực chuyên môn, khoa học, nâng cao và cập nhật tri thức, giáo dục lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân của đội ngũ trí thức. Tạo điều kiện và cơ chế để các hội trí thức thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia tích cực vào quá trình hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước.

5 - Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với trí thức, trước hết là nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp về vai trò, vị trí của trí thức cũng như của công tác trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Làm tốt công tác tư tưởng để, một mặt, làm cho toàn xã hội mà trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu đúng về vai trò của trí thức; mặt khác, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ trí thức đối với đất nước, với chế độ. Cán bộ, đảng viên, các cơ quan, tổ chức của Đảng có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đánh giá, uốn nắn kịp thời những sai sót, hạn chế trong việc đề ra và thực hiện các chính sách, chế độ đối với trí thức, đồng thời xây dựng và thực hiện cơ chế bảo đảm quyền và trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong góp ý kiến xây dựng, phản biện các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội.

*

Trong mọi thời kỳ lịch sử phát triển của thế giới cũng như của nước ta, đội ngũ trí thức luôn là lực lượng quyết định trong sáng tạo, truyền bá tri thức, có vai trò vô cùng to lớn trong việc sáng tạo ra những giá trị tinh thần cũng như vật chất của nhân loại. Thời đại ngày nay, khi mà khoa học, công nghệ phát triển và phổ biến nhanh chóng, nền kinh tế tri thức không chỉ là một xu thế phát triển mà đã trở thành một thực tế sinh động, khẳng định như một tất yếu phát triển của nhân loại thì vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức càng trở nên to lớn và quan trọng hơn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" đã nhìn thẳng vào những yếu kém, hạn chế trong công tác trí thức, rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết, đề ra hệ thống đồng bộ những nhiệm vụ, giải pháp trong công tác trí thức của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng, phát triển một đội ngũ trí thức Việt Nam hiện đại ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Việc quán triệt và triển khai thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn xã hội và của chính những người trí thức. Đó cũng là một trong những điều kiện bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế của chúng ta./.
Trường Lưu (tạp chí Cộng sản điện tử)
 

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 5, tr 156.
 
Cập nhật ( 28/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
“Đặt ra kế hoạch thật tốt, thật sát là rất cần, nhưng đó chỉ là bước đầu, kế hoạch 10 phần thì biện pháp cụ thể phải 20 phần, chỉ đạo sát sao phải là 30 phần- có như thế mới hoàn thành kế hoạch”
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com