Năm 2007 là năm đầu tiên triển khai các văn bản hướng dẫn pháp luật đầu tư và doanh nghiệp, cũng là năm đầu tiên các địa phương triển khai thực hiện nhiệm vụ mới theo cơ chế phân cấp đầu tư quy định tại Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư. Trong năm 2007, Việt Nam bắt đầu triển khai các cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trên các lĩnh vực đầu tư, thương mại…
Trong bối cảnh đổi mới sâu sắc về thể chế, môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, công tác quản lý nhà nước KCN, KKT cũng như bản thân hoạt động của các KCN, KKT đã có những điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, năng lực, chương trình và trọng tâm công tác để thích nghi với điều kiện mới. Nhờ đó, các KCN, KKT trong năm 2007, một mặt, tiếp tục đà tăng trưởng những năm trước, mặt khác, có những nét phát triển mới mang tính đột phá.
Trong năm 2007, công tác xây dựng và phát triển hệ thống các KCN, KKT đã đạt được một số kết quả nổi bật sau đây:
Một là: số lượng các KCN được thành lập mới và mở rộng tăng mạnh.
Trong năm 2007, có 45 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thành lập mới 33 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 9024 ha và mở rộng 12 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 1.992 ha. Năm 2007 là năm có số lượng KCN được thành lập mới và mở rộng nhiều nhất trong gần 16 năm xây dựng và phát triển KCN. Kết quả này xuất phát từ nhu cầu phát triển KCN của các địa phương nhằm tận dụng cơ hội thu hút đầu tư hiện đang tăng cao trên cả nước. Mặt khác, do nhiệm vụ cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho Dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN đã được phân cấp về địa phương, nên đã tạo điều kiện cho các địa phương chủ động và đẩy nhanh quá trình thực hiện thủ tục đầu tư.
Tính đến cuối tháng 12/2007, cả nước đã có 183 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên là 43.687 ha, phân bố trên 54 tỉnh, thành phố trên cả nước. Trong đó, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê theo quy hoạch đạt 29.179 ha, chiếm 66,8%.
Qua kết quả thành lập mới và mở rộng KCN trong năm 2007, có thể thấy rằng mặc dù sự phân bố KCN đã được điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện cho một số địa bàn đặc biệt khó khăn ở Tây Bắc (Yên Bái, Tuyên Quang, Hòa Bình), Tây Nguyên (Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng), Tây Nam Bộ (Hậu Giang, An Giang, Sóc Trăng…) phát triển KCN để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, song các KCN vẫn tập trung ở các địa phương thuộc ba Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Đến cuối tháng 12/2007, với 133 KCN và tổng diện tích đất tự nhiên 35.346 ha, ba Vùng kinh tế trọng điểm chiếm tới 72,7% tổng số KCN và 80,9% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước, trong đó Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ có 87 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 24.198 ha.
Trong năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập và ban hành quy chế hoạt động cho 3 KKT: Vân Đồn (Quảng Ninh), Đông Nam Nghệ An (Nghệ An), Đình Vũ – Cát Hải (Hải Phòng), nâng tổng số KKT được thành lập lên 11 KKT với tổng diện tích cả mặt đất và mặt nước là 562.673 ha.
Hai là: đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN, KKT tăng đột biến trong năm 2007.
Năm 2007, vốn đầu tư tăng thêm trong các KCN đạt được mức cao nhất từ trước tới nay xét cả khu vực đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
Trong năm 2007, chưa kể tới vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN, các KCN trên cả nước đã thu hút được 7.270 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó vốn của các dự án cấp mới đạt 4.805 triệu USD với 605 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và 2.465 triệu USD vốn tăng thêm với 459 lượt điều chỉnh dự án.
Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh là những địa phương thu hút vốn đầu tư vào KCN nhiều nhất với 4.519,3 triệu USD, chiếm 62% vốn đầu tư tăng thêm vào các KCN cả nước. Trong đó, Đồng Nai tiếp tục dẫn đầu và có sự vượt trội với tổng vốn đầu tư thu hút được trong năm qua đạt 1.745 triệu USD.
Cơ cấu vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm cho thấy trong năm 2007, nhiều nhà đầu tư mới, lần đầu đầu tư vào Việt Nam triển khai các dự án mới làm cho vốn đầu tư cấp mới tăng cao gần gấp đôi so với vốn đầu tư mở rộng.
Trong năm 2007, các KCN đã thu hút 468 dự án và điều chỉnh 128 lượt dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tăng thêm đạt 41.629 tỷ đồng. Một số địa phương dẫn đầu về thu hút đầu tư trong nước là Bà Rịa – Vũng Tàu (trên 5.000 tỷ đồng), thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng (trên 3.000 tỷ đồng), Hải Dương (2.800 tỷ đồng), Long An (2.100 tỷ đồng).
Trong năm 2007, cả nước đã thu hút được 14 dự án FDI và 31 dự án đầu tư trong nước trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư trên 870 triệu USD và 20.200 tỷ đồng.
Như vậy, nếu tính cả vốn đầu tư tăng thêm vào các KKT trong năm 2007 (450 triệu USD và trên 10.000 tỷ đồng) thì tổng vốn đầu tư nước ngoài vào KCN, KKT trong năm 2007 đạt 8.590 triệu USD, chiếm 42,3% tổng vốn đầu tư nước ngoài thu hút được trên cả nước trong năm 2007, gấp 1,5 lần so với năm 2006; tổng vốn đầu tư trong nước thu hút được trong KCN, KKT là 71.800 tỷ đồng.
Tính đến cuối tháng 12/2007, các KCN cả nước thu hút được trên 3020 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư 29.872 triệu USD và 3070 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký 197.382 tỷ đồng, chưa kể 31 dự án FDI và 152 dự án đầu tư trong nước đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 1.872 triệu USD và 57.600 tỷ đồng.
Các KKT trên cả nước đã thu hút được 238 dự án đầu tư trong nước và nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 9,9 tỷ USD, trong đó có 62 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký 3,1 tỷ USD.
Ba là: các KCN, KKT tiếp tục tăng trưởng nhanh và ổn định về sản xuất kinh doanh và thực hiện vốn đầu tư.
Mặc dù gặp phải nhiều khó khăn do sự biến động tiêu cực của thị trường thế giới, song các dự án trong KCN, KKT vẫn triển khai với tốc độ khá cao. Trong năm 2007, các dự án đầu tư nước ngoài trong KCN, KKT đã thực hiện thêm được 2.600 triệu USD, bằng 56% tổng số vốn đầu tư nước ngoài giải ngân được trong năm nay. Tỷ trọng vốn giải ngân này cho thấy các KCN, KKT đã đóng góp đáng kể vào hiệu quả thực hiện vốn đầu tư nước ngoài trên cả nước.
Tính đến cuối tháng 12/2007, các KCN cả nước đã có 2012 dự án FDI và 1.930 dự án trong nước đã đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 14.046 triệu USD và 104.261 tỷ đồng, chiếm tương ứng 47% và 53% tổng vốn đầu tư nước ngoài và trong nước đăng ký vào KCN.
Các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các KCN trong năm 2007 đã đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp KCN đã đạt tổng doanh thu 22,4 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt 10,8 tỷ USD, tăng 31,7% so với năm 2006 và chiếm 22% giá trị xuất khẩu của cả nước.
Bốn là: có thêm nhiều KCN hoàn thành cơ bản hạ tầng kỹ thuật, nhanh chóng thu hút đầu tư, góp phần nâng cao lấp đầy diện tích đất công nghiệp và hiệu quả sử dụng đất.
Một trong những điểm nổi bật trong năm 2007 là số lượng các KCN triển khai xong công tác xây dựng hạ tầng và có mặt bằng cho nhà đầu tư thuê khá nhiều, trong đó phải kể đến một số KCN ở Đồng Nai, Bình Dương như Nhơn Trạch II-Lộc Khang, Bàu Xéo, Thạnh Phú. Đặc biệt là một số KCN ở địa bàn có điều kiện khó khăn như Gia Lai, Vĩnh Long, Bến Tre, Quảng Bình, Quảng Trị đã thu hút đầu tư và lấp đầy diện tích đất công nghiệp tương đối tốt.
Trong số 183 KCN cả nước có 111 KCN đã đi vào hoạt động. 72 KCN đang xây dựng cơ bản chủ yếu là các KCN mới thành lập trong hai năm gần đây (2006, 2007). Tổng diện tích đất đã cho thuê của các KCN đã đi vào hoạt động 13.120 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp 73,7%. Tính chung các KCN cả nước thì tỷ lệ lấp đầy đạt 50% với 14.382 ha đất công nghiệp đã cho thuê. Như vậy, mặc dù số lượng KCN bắt đầu có đất hoàn chỉnh hạ tầng cho thuê trong năm 2007 lớn, tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp của nhóm các KCN đã vận hành vẫn tiếp tục tăng so với năm 2006. Giá trị sản xuất kinh doanh trên 1 ha diện tích đất công nghiệp đã cho thuê đạt 1,5 triệu USD/ha.
KCN tiếp tục góp phần vào giải quyết việc làm và thu ngân sách. Tại thời điểm 31/12/2007, các KCN đã thu hút trên 1 triệu lao động trực tiếp. Tính bình quân 1 ha đất công nghiệp đã cho thuê thu hút 72 lao động.
Các doanh nghiệp KCN năm 2007 đã nộp ngân sách khoảng 1,1 tỷ USD.
Năm là: công tác xây dựng, hướng dẫn cơ chế, chính sách và thanh tra, kiểm tra KCN, KKT được triển khai tích cực.
Trong năm 2007, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức nhiều đợt tập huấn cho các Ban quản lý KCN, KKT, các cơ quan, doanh nghiệp về pháp luật đầu tư và doanh nghiệp, đồng thời hướng dẫn các địa phương trong quá trình triển khai. Một số văn bản hướng dẫn Luật Đầu tư và Doanh nghiệp đã được ban hành nhằm khắc phục những quy định còn chồng chéo, không hợp lý trong pháp luật hiện hành. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Nghị định quy định về KCN, KCX và KKT, trong đó quy định thống nhất hoạt động của KCN, KCX, KKT trên các lĩnh vực theo hướng đẩy mạnh phân cấp cho Ban quản lý KCN, KKT.
Trong năm qua, cùng với cơ chế phân cấp, công tác thanh tra, kiểm tra KCN, KKT đã được các cơ quan quản lý nhà nước về KCN, KKT xác định là nhiệm vụ trọng tâm cần đẩy mạnh. ở địa phương, Ban quản lý KCN, KKT đã tích cực phối hợp với các sở, ngành tiến hành thanh, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là, vấn đề xây dựng và môi trường. ở cấp trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ, ngành đã triển khai thanh tra một số KCN tại Hưng Yên, Hà Tĩnh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Vĩnh Phúc và kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch KCN tại Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ. Nhờ đó, các thiếu sót cũng như các vướng mắc của các địa phương đã được mổ xẻ, giải quyết kịp thời, tạo điều kiện nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của KCN, KKT.
Thông qua các chuyến đi xúc tiến đầu tư nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức, phối hợp với các địa phương, môi trường đầu tư vào KCN, KKT nói riêng và Việt Nam nói chung được quảng bá, giới thiệu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chương trình xúc tiến đầu tư đã được xây dựng và điều chỉnh theo hướng tập trung, có trọng điểm, đồng thời Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức hỗ trợ các địa phương xúc tiến các dự án của các tập đoàn lớn như Hồng Hải, Compal…
Sáu là: môi trường KCN đã dần được cải thiện.
Với những biện pháp kiên quyết và thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở của các bộ, ngành trung ương và địa phương, công tác xử lý chất thải trong KCN, KKT đã được cải thiện. Trong năm 2007, 15 dự án xử lý nước thải tập trung trong KCN đã đi vào vận hành, nâng tổng số nhà máy xử lý nước thải tập trung lên 50 nhà máy, đạt gần 1/2 mục tiêu kế hoạch đến năm 2010 các KCN đã vận hành có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Ngoài ra, 20 KCN đang xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung và dự kiến hoàn thành trong năm 2008.
Trong năm 2007, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự thảo Quy chế bảo vệ môi trường KCN, KKT. Dự kiến Quy chế sẽ được ban hành trong năm 2008 và sẽ là cơ sở quan trọng trong triển khai công tác bảo vệ môi trường KCN, KKT.
Bên cạnh những kết quả khả quan cả về khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường, trong năm 2008, các KCN, KKT đặt ra một số vấn đề cần giải quyết như sau:
Một là: còn xuất hiện tình trạng các địa phương chưa tuân thủ chặt chẽ các điều kiện và tiêu chí thành lập và mở rộng KCN. Một số địa phương thành lập nhiều KCN khi chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện tỷ lệ lấp đầy và xử lý nước thải quy định tại Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN của Việt Nam đến năm 2015 định hướng đến 2020.
Hai là: điều kiện về nhà ở và đời sống của người lao động trong KCN vẫn còn nhiều bất cập, chưa được giải quyết triệt để. Chưa có cơ chế khuyến khích đầu tư phù hợp đối với xây dựng nhà ở cho người lao động KCN.
Ba là: trong số các KCN đang vận hành, có trên 40 KCN chưa xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung.
Bốn là: diện tích đất sạch để phục vụ các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào các KCN, KKT còn hạn chế. Nhiều KCN, KKT phải mất 3-6 tháng mới giao đất được cho nhà đầu tư.
Để giải quyết các vấn đề trên, cần sự nỗ lực của các bộ ngành và sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan địa phương. Trong năm 2008, cần triển khai một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phối hợp với các địa phương xây dựng Đề án quy hoạch KCN trên địa bàn theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và tổ chức rà soát, xây dựng phương án tổng thể điều chỉnh quy hoạch KCN cả nước đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.
Thứ hai, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các địa phương trong công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động KCN, KKT.
Thứ ba, tổ chức các Đoàn xúc tiến đầu tư tại một số quốc gia có nhiều tiềm năng đầu tư vào Việt Nam.
Thứ tư, tiếp tục tổ chức tập huấn pháp luật đầu tư và doanh nghiệp, đặc biệt là tổ chức hướng dẫn, tập huấn cho các Ban quản lý KCN, KKT và các cơ quan liên quan sau khi dự thảo Nghị định quy định về KCN, KCX và KKT được ban hành.
Thứ năm, đôn đốc các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN, KKT chủ động xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng KCN, KKT, luôn có quỹ đất sạch sẵn sàng phục vụ cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào KCN, KKT.
Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm soát môi trường trong các KCN, KKT, phấn đấu đến hết năm 2008, 60% các KCN đã đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đi vào vận hành.
(TS. Trần Ngọc Hưng - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý KCN&KCX)
|