Đây là bài viết trao đổi trong một cuộc hội thảo liên quan đến lập Quy hoạch tỉnh Bến Tre, tháng 3/2019
Các vấn đề liên quan đến lập quy hoạch tỉnh Bến Tre đã được trình bày trong Tài liệu: Điều khoản tham chiếu hỗ trợ thực hiện lập Quy hoạch tỉnh Bến Tre đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Dưới đây chỉ tóm lược và nhấn mạnh một số vấn đề chính có liên quan.
Bối cảnh chung:
Đồng bằng sông Cửu Long
a) Cùng với tình hình chung của cả nước, là một quốc gia thuộc Nhóm nước đang phát triển, vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói chung và tỉnh Bến Tre nói riêng là một khu vực có mức độ đô thị hóa thấp; thuộc vùng nghèo bên cạnh Tây Nguyên, Tây Bắc…; Tiềm năng về cơ bản chưa được khai thác để mang lại hiệu quả tương xứng, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập.
b) Các thách thức hay vấn đề chính phải giải quyết cho phát triển bền vững vùng ĐBSCL gồm:
- Biến động của tài nguyên nước trong điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng;
- Hình thành các định hướng phát triển có tính đột phá liên quan đến: Phát triển nông nghiệp và sinh thái môi trường; công nghiệp hóa, đô thị hoá và hiện đại hóa nông thôn, đầu tư hạ tầng…;
- Xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả phát triển trong vùng và với khu vực xung quanh;
- Thúc đẩy phát triển kinh tế biển;
- Tạo lập môi trường tôn vinh các giá trị văn hóa, tâm linh; kết nối niềm tin giữa chính thể và cộng đồng xã hội…
c) Hiện tại, việc lập Quy hoạch tích hợp vùng ĐBSCL theo Luật Quy hoạch là cơ hội thể hiện khát vọng phát triển, tầm nhìn và giải pháp chiến lược mang tính đột phá. Quy hoạch vùng ĐBSCL là định hướng chung cho việc lập quy hoạch các tỉnh trong vùng.
Tỉnh Bến Tre
a) Bến Tre là tỉnh ven biển, thuộc vùng ĐBSCL, có tổng diện tích tự nhiên là 239.475ha, chiếm 5,9% diện tích vùng, 0,72% diện tích cả nước; dân số năm 2015 là 1.263.710 người, chiếm 7,2% dân số vùng, 1,4% dân số cả nước. Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp. Thu nhập bình quân theo đầu người (GRDP/người), Bến Tre đạt 1.268 USD/người (năm 2015), đứng thứ 13/13 tỉnh/thành vùng ĐBSCL (vùng là 1.745 USD/người) và thấp hơn so với GRDP/người cả nước (2.110 USD/người).
b) Trung tâm của vùng ĐBSCL là thành phố Cần Thơ. Hiện tại, tuyến đường bộ nối Cần Thơ và TP HCM tạo thành dòng chảy kinh tế chính của vùng ĐBSCL (70% lượng hàng hóa của vùng ĐBSCL chuyển về các cảng biển TPHCM và Cái Mép, Bà Rịa - Vũng Tàu bằng đường bộ). Dòng chảy kinh tế (hàng hóa và nhân lực) này không đi qua tỉnh hay nói cách khác, Bến Tre là một địa điểm bị bỏ qua.
c) Trên thế giới, người ta thường nói đến khái niệm về An ninh quốc phòng và tác chiến phi đối xứng giữa các đối thủ không tương đương về nhiều mặt, từ đó tìm ra các điểm mạnh để phát huy, điểm yếu để khắc phục, hạn chế tốn thất và giành chiến thắng. Trong hoạt động kinh tế cũng vậy, tỉnh Bến Tre, xét về tính phi đối xứng trong cạnh tranh, liên kết và hội nhập, có nhiều điểm mạnh và yếu cần được nghiên cứu làm rõ, nhằm tìm ra các giải pháp mang tính đột phá.
Vị trí của tỉnh Bến Tre tại vùng ĐBSCL
Bản đồ tỉnh Bến Tre
Nhận thức và các giải pháp mang tính đột phá
1) Phải hình thành được các triết lý phát triển, là niềm tin lan truyền đến tận người dân
Linh hồn của mỗi quốc gia, mỗi địa phương không phải là các chỉ tiêu kinh tế, mà là triết lý phát triển. Trong giai đoạn phát triển kinh tế là trọng tâm, mỗi người dân Bến Tre phải có tinh thần và hành động như một doanh nhân. Từ đó chuyên cần học tập, đổi mới, sáng tạo để nâng cao năng lực cạnh tranh, hợp tác với nhau và với bên ngoài, cùng "Đồng khởi khởi nghiệp".
Việc đào tạo tinh thần khởi nghiệp hay khởi sự doanh nghiệp phải sớm được triển khai, cho học sinh ngay trong trường phổ thông trung học và cho người lao động.
2) Trong điều kiện nguồn lực hạn chế, cần tận dụng tối đa và có hiệu quả các hỗ trợ từ trung ương trong việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng
Muốn phát triển phải có hệ thống kết cấu hạ tầng tương xứng. Quan trọng hàng đầu là kết cấu hạ tầng môi trường nước, năng lượng và đặc biệt là giao thông.
Ngoài giao thông thủy gắn với cảng sông, biển, cần hình thành các dự án đầu tư xây dựng hệ thống giao thông đường bộ với mặt cắt đủ lớn kiểu giao thông đô thị, nối thành phố Bến Tre với đô thị huyện lỵ và trung tâm tiểu vùng.
Đề xuất triển khai dự án xây dựng đoạn tuyến đường quốc gia ven biển đi qua địa bàn tỉnh, nối trực tiếp tỉnh với TP. HCM.
Các dự án đầu tư xây dựng hệ thống giao thông nêu trên đều cần nguồn đầu tư lớn về tài chính và công nghệ. Song đây lại là việc cần phải làm ngay và kiên trì thuyết phục Chính phủ, Bộ, Ngành có liên quan hỗ trợ để sớm thực hiện.
3) Thúc đẩy quá trình đô thị hóa và hiện đại hóa nông thôn.
Công nghiệp hóa và đô thị hóa có tính phổ quát trên thế giới, không có khu vực nào muốn trở nên thịnh vượng lại không trải qua. Đô thị không chỉ là nơi cư trú mà là còn là điểm nút của các dòng chảy kinh tế (hàng hóa và nhân lực; công nghệ và tài chính; trí thức và văn hóa).
Hiện tại, mức độ đô thị hóa trên địa bàn tỉnh chỉ vào khoảng 10%, vào loại thấp nhất trong cả nước. Để đạt mức độ đô thị hóa vào khoảng 50- 60% phải đòi hỏi nỗ lực rất lớn.
Hệ thống đô thị trên địa bàn tỉnh Bến Tre gồm 3 loại: Đô thị tỉnh lỵ, đô thị huyện lỵ và trung tâm tiểu vùng (cụm xã).
i) Đô thị tỉnh lỵ là thành phố Bến Tre, thể hiện vai trò đầu tàu, điều phối nguồn lực, kết nối với TP HCM, thành phố Cần Thơ và các tỉnh khác trong vùng, là hình mẫu cho các mô hình phát triển tại huyện, xã. Muốn trở thành đầu tầu, ngoài thị trường bất động sản sôi động, nơi đây phải có các tổ chức như: Trung tâm phân tích và dự báo thị trường; Trung tâm tài chính; Trung tâm công nghệ gắn với Hệ thống sẵn sàng về công nghệ; Trung tâm cơ sở dữ liệu hay Chuyển đổi số; Trung tâm đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu KHCN và thúc đẩy Khởi nghiệp...Các trung tâm này có thể tập trung thành một Khu đổi mới và sáng tạo cấp vùng, gắn liền với các KCN, cụm CN và thông qua mạng xã hội lan truyền thông tin đến tận người dân.
ii) 8 thị xã, thị trấn huyện lỵ: Châu Thành, Chợ Lách, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, Giồng Trôm, Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Trong đó trung tâm huyện lỵ 3 huyện giáp biển Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú phải trở thành đô thị biển, gắn liền với việc hình thành tuyến đường quốc gia ven biển.
iii) Trung tâm tiểu vùng hay trung tâm cụm xã được hình thành từ: Trung tâm dịch vụ nông thôn (với đặc trưng là cụm CN chế biến nông sản, kho lạnh, dịch vụ sản xuất và thị trường hóa sản phẩm nông nghiệp); Trung tâm logistics (gắn với cảng sông, cảng biển) và Trung tâm du lịch miệt vườn, du lịch biển và du lịch văn hóa. Mỗi huyện có từ 3- 5 trung tâm tiểu vùng, tương đương với khoảng 4- 5 xã có một trung tâm tiểu vùng.
Đô thị hóa phải cùng lúc với xây dựng nông thôn mới hay phát triển đô thị phải cùng lúc với việc xây dựng trung tâm tiểu vùng.
4) Thúc đẩy chuyển dịch trọng tâm từ kinh tế nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp và dịch vụ gắn với kinh tế đô thị và kinh tế biển
Do chủ yếu quen thuộc với hoạt động nông nghiệp truyền thống (canh tác trên nền lúa) nên quy mô nền kinh tế của tỉnh còn quá nhỏ, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế chưa cao, chủ yếu theo chiều rộng.
Bên cạnh việc nâng cao hiệu quả của kinh tế nông nghiệp từ truyền thống sang nông nghiệp sạch, hữu cơ...cần thúc đẩy việc tiếp cận và sớm triển khai các lĩnh vực mới: Kinh tế công nghiệp và dịch vụ gắn với kinh tế đô thị (bất động sản, dịch vụ thương mại, du lịch...); Kinh tế biển, trước hết là lĩnh vực kinh tế nuôi trồng, khai thác hải sản và kinh tế hàng hải.
Quy hoạch tỉnh phải thể hiện rõ quá trình chuyển dịch trọng tâm này.
5) Phát triển kinh tế trước hết dựa vào doanh nghiệp địa phương và tầng lớp tinh hoa trong xã hội
Bên cạnh việc thu hút các dự án đầu tư quy mô lớn, công nghệ hiện đại và giá trị gia tăng cao, cần tạo điều kiện cho việc hình thành hệ thống các doanh nghiệp địa phương.
Trong thế kỷ 21, phải xóa bỏ quan điểm tách bạch doanh nghiệp với nông dân. Nông dân cũng chính là doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ nông nghiệp. Ban đầu là các doanh nghiệp siêu nhỏ, sau đó liên kết, hợp tác tạo thành các doanh nghiệp nhỏ, trung bình và lớn. Theo Hệ thống các ngành kinh tế Việt Nam, hiện có 734 ngành nghề (thế giới có khoảng 2000 ngành nghề), cần thiết phải khảo sát đánh giá và đề xuất các ngành nghề mới phù hợp với điều kiện của tỉnh, để đào tạo khởi nghiệp hay khởi sự doanh nghiệp.
Thu hút những người có trình độ kiến thức, tay nghề trong và ngoài nước quê hương Bến Tre đóng góp sáng kiến và tham gia vào sự nghiệp phát triển kinh tế và xã hội của địa phương.
6) Bên cạnh mô hình nước với hệ thống kênh rạch là chủ đạo, bổ sung thêm hệ thống hồ chứa nước ngọt.
Hiện tại đã có nhiều tổ chức trong, ngoài nước có uy tín nghiên cứu và đề xuất các giải pháp sử dụng cân bằng nước và đất. Cần tận dụng tối đa các kết quả này, công bố rộng rãi để chính quyền, doanh nghiệp, người dân được biết, vận dụng có hiệu quả trong hoạt động sản xuất, sinh hoạt.
Với điều kiện địa chất hạn chế bổ cập, nên nguồn nước ngầm khan hiếm. Mô hình sông, rạch hiện tại cần được bổ sung hệ thống hồ chứa nước ngọt, là nguồn trữ nước chủ động trong điều kiện xâm nhập mặn và khó kiểm soát thượng nguồn sông Me Kong, cho sản xuất, sinh hoạt và nuôi trồng thủy sản.
7) Dư địa cho phát triển là quỹ đất và thời gian rảnh của người dân
Khi quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa còn chưa đủ mạnh thì thị trường bất động sản (đất ở, sản xuất, dịch vụ) chưa hình thành và thời gian rảnh của người lao động nông nghiệp quá nhiều (chỉ khoảng 2-3 giờ lao động trong ngày).
Quy hoạch đủ quỹ đất KCN để thu hút các doanh nghiệp FDI; Cụm CN chế biến sản phẩm nông nghiệp.... Đây là động lực cho việc hình thành, mở rộng đô thị và tạo dòng người di cư đến đô thị, nơi có mức thu nhập hấp dẫn hơn và sử dụng thời gian hiệu quả hơn so với nông nghiệp. Đô thị cũng là nơi có các cơ hội sinh kế mới và văn hóa mới cho tầng lớp thanh niên.
Khi có thị trường bất động sản thì giá trị đất tăng lên.
8) Bến Tre phải trở thành tỉnh phát triển xanh, là thương hiệu cho sản phẩm hàng hóa và thu hút du lịch
Từ xưa đến nay, nhu cầu và hạnh phúc của con người là gắn với tự nhiên. Đối với vùng ĐBSCL và Bến Tre trước hết là môi trường nước. Hiện tại, xu hướng khai thác quá mức tự nhiên cho sản xuất nông nghiệp và quá trình biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xâm nhập mặn đã dần dẫn đến nỗi sợ hãi và tách khỏi tự nhiên, đặc biệt là thế hệ trẻ (Tại đây, hiện tượng dời bỏ quê hương đến các vùng đất khác thuộc vào mức nghiêm trọng).
Đô thị và điểm dân cư xanh; Sản xuất hàng hóa theo hướng sạch; Môi trường cảnh quan và con người thân thiện...phải trở thành thương hiệu của tỉnh Bến Tre, qua đó góp phần tạo vị thế trên thị trường tiêu thụ hàng hóa và thúc đẩy du lịch sinh thái.
9) Chính thể phải của dân, do dân, vì dân
Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập, dù muôn vàn khó khăn, chính quyền Cách mạng luôn được người dân che chở, giúp đỡ và đã giành thắng lợi. Trong giai đoạn phát triển, cán bộ phải là những người đi tiên phong, thực hành tiết kiệm, dám hy sinh vì quyền lợi chung. Dù còn là một tỉnh nghèo, song Bến Tre hoàn toàn có thể quản lý theo mô hình chính phủ điện tử, từ tỉnh đến xã, để tăng tính minh bạch và khả năng giải trình, tạo niềm tin cho doanh nghiệp, người dân.
Kết luận
Việc lập quy hoạch tỉnh Bến Tre đến năm 2035 tầm nhìn đến năm 2045 theo Luật Quy hoạch là cơ hội to lớn cho việc định hình và luật hóa các giải pháp mang tính đột phá, trong đó có một số vấn đề nêu trên, là điểm khởi đầu cho giai đoạn phát triển mới của tỉnh.
Quy hoạch tỉnh không chỉ đơn giản là việc cộng dồn lại các quy hoạch chuyên ngành với nhiều chủ thể chịu trách nhiệm, mà là một bản quy hoạch mang tính tích hợp gắn với hệ thống cơ sở dữ liệu, phục vụ cho một mục đích chung với một chủ thể chịu trách nhiệm, đó là chính thể, cộng đồng và người dân trong tỉnh. Trong quá trình đó, sự chỉ đạo và điều phối chung của lãnh đạo tỉnh có vai trò mang tính quyết định.
TS. Phạm Đình Tuyển, ĐHXD
|