Tuần 9 - Ngày 06/10/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Nghiên cứu sinh
Xu hướng mới trong đào tạo tiến sĩ trên thế giới: Tái định hình khái niệm
30/01/2015


Trong mấy năm gần đây, có ba hiện tượng nổi bật trong vấn đề đào tạo tiến sĩ trên phạm vi toàn thế giới: một là vai trò chủ động của chính phủ nhiều nước trong việc xác lập những kế hoạch và mục tiêu đầy tham vọng nhằm tạo ra một số lượng lớn người có bằng tiến sĩ; hai là hiện tượng ngày càng nhiều tiến sĩ làm việc ngoài khu vực hàn lâm; và cuối cùng là hiện tượng “lạm phát bằng tiến sĩ” hay nói cách khác, sự “mất giá” của bằng tiến sĩ trong mắt công chúng, nhất là ở những nước đang phát triển như Việt Nam, nơi mặc dù thiếu thốn nguồn nhân lực chất lượng cao, những người có bằng tiến sĩ không còn được kính trọng như xưa. Một câu hỏi đập vào mắt tất cả mọi người: Chúng ta đang có quá ít, hay quá nhiều tiến sĩ? Đàng sau câu hỏi này là một vấn đề quan trọng hơn nhiều: chúng ta quan niệm thế nào là tiến sĩ? Khái niệm “tiến sĩ” chứa đựng những giá trị, chuẩn mực, kỳ vọng gì và nó đã diễn tiến như thế nào qua thời gian? Liệu cái cách mà chúng ta đang đào tạo tiến sĩ có đáp ứng được những gì xã hội thực sự cần, và nếu như phải thay đổi, chúng ta có những lựa chọn như thế nào?  Đó là những vấn đề được thảo luận trong Hội thảo về Đào tạo Tiến sĩ: Vấn đề Chính sách, Sư phạm, và Thực tế, do Khoa Sau ĐH, trường ĐH RMIT (Australia) tổ chức tại Melbourne ngày 11 và 12.12.2014, với sự tham dự của các học giả Australia, UK, New Zealand, Ethiopia, Malaysia và Việt Nam. Bài viết này là ghi nhận và suy nghĩ về một số vấn đề đã được nêu ra và thảo luận tại Hội thảo.


Sứ mạng của tiến sỹ là tìm kiếm tri thức nhằm phát triển học thuật  

Quan niệm về tiến sĩ và mô hình đào tạo tiến sĩ

Trước hết là một bức tranh toàn cảnh, những điểm hội tụ và phân kỳ trong vấn đề đào tạo tiến sĩ trên toàn cầu, do giáo sư Denise Cuthbert, Trưởng khoa Sau Đại học của trường ĐH RMIT (Australia) trình bày. Sự trỗi dậy và lan rộng mọi nơi của nền kinh tế tri thức từ giữa những năm 90 đã dẫn đến việc định vị lại GDĐH như một thành tố quan trọng của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, là điều có ý nghĩa to lớn đối với sự hiểu biết của chúng ta về đào tạo tiến sĩ cũng như việc quản lý quá trình này. Kinh tế tri thức cũng khiến cho năng lực nghiên cứu của các trường ĐH trở thành đối tượng quan tâm của chính sách ở mọi cấp: cấp quốc gia, cấp khu vực và cấp độ toàn cầu; hay nói cách khác, vấn đề đào tạo tiến sĩ đã trở thành một vấn đề chính trị trên toàn cầu.

Bởi vậy, từ những năm 90 trở lại đây, chúng ta đã chứng kiến mối quan tâm có ý nghĩa chính trị to lớn chưa từng có tiền lệ trước đó đối với việc đào tạo tiến sĩ, đặc biệt là ở những nền kinh tế mới nổi hay các nước đang phát triển như khu vực châu Á và tiểu vùng châu Phi. Cuthbert đã thu thập hơn 200 văn bản chính sách của các nước về vấn đề đào tạo tiến sĩ từ 1996 đến nay. Ở Australia, đã có ít nhất 30 văn bản chính sách chủ yếu có liên quan vấn đề này từ năm 1998 đến nay. Các tổ chức châu Âu như LERU, EUA cũng có những hành động chính sách mạnh mẽ về đào tạo tiến sĩ. Châu Á càng nổi bật hơn với những chính sách tăng cường tiến sĩ: Chương trình Trí tuệ Hàn Quốc dự định đào tạo 1300 tiến sĩ mỗi năm trong thời gian 1998-2005; Malaysia nhắm tới 60.000 tiến sĩ từ nay đến năm 2023, Ấn Độ đặt mục tiêu 20.000 tiến sĩ trước năm 2020, Zimbabue đòi hỏi tất cả giảng viên của mình phải có bằng tiến sĩ trước năm 2015. South Africa cũng cho thấy sự quan tâm mạnh mẽ của chính sách đào tạo tiến sĩ và coi đó như một động lực của nền kinh tế (Tebeje Molla, Deakin University, Australia).

Đồng thời, câu hỏi về việc những người có bằng tiến sĩ đã phục vụ cho nhu cầu của nền kinh tế tri thức như thế nào và cuộc thảo luận gần đây về khả năng được sử dụng, khả năng tìm được việc làm phù hợp của các tiến sĩ cũng ngày càng trở nên nổi bật. Khái niệm truyền thống về học vị tiến sĩ coi họ như những người nghiên cứu chuyên nghiệp và sứ mạng của họ là tìm kiếm tri thức nhằm phát triển học thuật, coi tri thức là mục tiêu tối hậu, không nhất thiết là tri thức đó phải tạo ra một lợi ích vật chất cụ thể nào, “research for its own sake”, nghiên cứu vì lợi ích của chính nó, chứ không nhằm vào một mục đích cụ thể, quan niệm này đã từng thống trị giới hàn lâm trong nhiều thế kỷ đến mức thậm chí có học giả cho rằng những người hướng nghiên cứu của mình vào việc phục vụ cho những người đương thời là những kẻ “đánh đĩ tri thức” (“intellectual prostitutes”, Dugatkin, 1999), tức bán linh hồn cho những mục tiêu ngắn hạn trước mắt.

Quan niệm cực đoan như thế của trường phái “tháp ngà” ngày nay hầu như không còn chỗ đứng. Tuy nhiên, nó đã phản ánh một thực tại là trong nhiều thế kỷ qua, chỗ làm của các tiến sĩ chủ yếu là ở các trường ĐH và viện nghiên cứu. Ngày nay, kinh tế tri thức đòi hỏi một lực lượng lao động có kỹ năng cao trong việc nghiên cứu, đổi mới, sáng tạo, ứng dụng và chuyển giao tri thức. Dường như khu vực sản xuất kinh doanh bên ngoài nhà trường ngày càng cần những người được đào tạo kỹ năng nghiên cứu bậc cao như các tiến sĩ. Lối đào tạo tiến sĩ theo kiểu hàn lâm truyền thống đã không chú ý đến việc đào tạo những kỹ năng đa dạng và linh hoạt để đáp ứng những đòi hỏi của thế giới việc làm bên ngoài trường ĐH, thậm chí ngay cả những kỹ năng cơ bản để thực hiện nhiệm vụ truyền thống của các tiến sĩ như kỹ năng giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu, họ cũng không được đào tạo bài bản. Bởi vậy, đang có một khoảng cách giữa mô hình đào tạo tiến sĩ hiện nay và những gì các tiến sĩ có thể mang lại cho thế giới việc làm ngoài nhà trường.

Ở châu Âu, đào tạo tiến sĩ cũng không còn đơn thuần là một vấn đề học thuật, mà là một mục tiêu trong việc quản lý trường ĐH và của chính sách quốc gia. Số người có bằng tiến sĩ đang được coi là chỉ báo hoạt động của các trường ĐH cũng như cho năng lực nghiên cứu của quốc gia. Barbara Kehm (University of Glasgow, UK) cho rằng, trong bối cảnh của Tiến trình Bologna, ngày càng nhiều ý kiến phê phán lối đào tạo tiến sĩ theo kiểu truyền thống: quá hẹp, quá nhấn mạnh đến luận án thay vì phải chú trọng đến quá trình đào tạo. Kehm cho rằng ở châu Âu, đào tạo tiến sĩ đang trở nên rất đa dạng về mục đích và mô hình: có đến 9 loại tiến sĩ khác nhau đã được nêu ra: loại tiến sĩ nghiên cứu hàn lâm kiểu truyền thống, loại tiến sĩ được đào tạo để dạy học, loại tiến sĩ được cấp bằng dựa trên số bài báo khoa học đã tích lũy được, loại tiến sĩ chuyên ngành (trong những lĩnh vực chuyên nghiệp rất hẹp và rất đặc thù, ví dụ tiến sĩ y khoa), loại tiến sĩ trên nền tảng hoạt động thực tiễn (trong các ngành nghệ thuật và thiết kế), loại tiến sĩ “tốc hành”, và loại tiến sĩ của các chương trình liên kết, loại tiến sĩ hợp tác, và tiến sĩ trong khu vực doanh nghiệp. Sự đa dạng này là một dấu hiệu của phân tầng về chức năng, và cho thấy hoạt động đào tạo tiến sĩ ngày nay không còn đơn thuần là tái sản xuất lực lượng lao động chỉ cho nghề nghiệp hàn lâm như xưa nữa. Tuy nhiên, hầu như tất cả các loại tiến sĩ trừ loại truyền thống đều bị phê phán dữ dội về việc thiếu sự nghiêm ngặt trong tiêu chuẩn và quá trình đào tạo. Sự phê phán này rút cuộc dẫn đến câu hỏi: thế nào là tiến sĩ?

Có một xu hướng khác ở một vài nước đang phát triển là một quan niệm ngày càng phổ biến coi bằng tiến sĩ là một thứ trang sức sang trọng (Ly Phạm, ĐHQG-HCM, Việt Nam). Thêm vào đó, những diễn tiến trong thái độ xã hội đối với người có bằng tiến sĩ; hiện tượng một phần ba tiến sĩ du học ngoài nước bằng tiền ngân sách đã không trở về, hoặc trở về nhưng không được sử dụng đầy đủ; và chỉ hơn một phần ba người có bằng tiến sĩ làm việc trong khu vực hàn lâm, số còn lại chủ yếu trong khu vực hành chính công, những sự kiện này ở Việt Nam cũng đòi hỏi sự xem xét lại một cách nghiêm túc quan niệm về bằng tiến sĩ.

“Tiến sĩ” gắn chặt với hoạt động nghiên cứu. Nhưng thế nào là nghiên cứu? Giáo sư Ross Gibson (University of Canberra, Australia) dẫn ra hai định nghĩa về nghiên cứu: một là định nghĩa khá nghiêm ngặt của Nhóm Công tác Tài trợ Nghiên cứu Khoa học dựa trên kết quả hoạt động của các trường ĐH New Zealand nêu ra năm 2002:  “Nghiên cứu là những điều tra nguyên thủy được thực hiện nhằm đạt được kiến thức và sự hiểu biết. Hoạt động nghiên cứu thường gắn với đòi hỏi thực nghiệm hoặc có bản chất phê phán, được dẫn dắt bởi những giả thuyết hay bởi những cương vị của trí tuệ có thể đưa ra một sự đánh giá nghiêm ngặt. Nó là một hoạt động sáng tạo, độc lập, tích lũy lâu dài và được thực hiện bởi những người có kiến thức sâu trong chuyên ngành, am hiểu lý thuyết, phương pháp, và có nhiều thông tin trong lĩnh vực mà họ đang tìm kiếm tri thức. Kết quả nghiên cứu phải được mở ra cho sự sàng lọc và đánh giá chính thức của những người khác trong cùng lĩnh vực, và điều này có thể thực hiện thông qua công bố khoa học hoặc trình bày trước công chúng. Trong một số lĩnh vực, kết quả khảo sát có thể nằm trong hình thức tác phẩm nghệ thuật, thiết kế hay trình diễn. Hoạt động nghiên cứu bao hàm cả những đóng góp cho hạ tầng trí tuệ của chuyên ngành (ví dụ như từ điển hay những sách được dùng như công cụ tra cứu). Nó cũng bao gồm những thiết kế thực nghiệm, những giải pháp xây dựng, và cả những điều tra khảo sát dẫn đến những vật liệu mới hay cải thiện nó một cách đáng kể, những bộ phận mới, những sản phẩm hay quy trình mới”.

Định nghĩa thứ hai là của Bộ Nghiên cứu Khoa học, Công nghệ và Sáng tạo Liên bang Úc, đưa ra năm 2011: “Nghiên cứu được định nghĩa là sự sáng tạo ra tri thức mới, và/hoặc sử dụng những tri thức hiện có theo một cách mới và có tính sáng tạo để tạo ra những khái niệm mới, phương pháp mới, và những hiểu biết mới. Nó có thể bao gồm tổng hợp và phân tích những kiến thức đã có trước đó ở mức độ dẫn tới những kết quả mới và có tính chất sáng tạo”.

Dựa trên những định nghĩa này, hoàn toàn có thể định hình lại quan niệm về bằng tiến sĩ cũng như về quy trình, phương pháp sư phạm, tiêu chuẩn đánh giá, mô hình đào tạo phù hợp với những mục đích khác nhau.

Denise Curbert nêu lên một hình dung mới về tiến sĩ trong nền kinh tế tri thức như một hình thức đối lập với tiến sĩ hàn lâm theo truyền thống. Sự khác biệt này được bà nêu ra như sau:


Ý tưởng về việc cần có những loại tiến sĩ khác nhau, những con đường sự nghiệp khác nhau cho họ là một ý tưởng được nhiều người chia sẻ. Barbara Kehm (University of Glasgow, UK), Morshidi Sirat (Viện Nghiên cứu GDĐH Quốc gia Malaysia), Ly Phạm (ĐHQG-HCM, Việt Nam) và Tebeje Molla (Deakin University, Australia) đều nói về nhu cầu đa dạng hóa đào tạo tiến sĩ trong bối cảnh phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế tri thức.  Trong bối cảnh Việt Nam, quả là lãng phí nếu người học phải theo đuổi một chương trình tiến sĩ chỉ để có một tấm bằng, trong lúc những gì được đào luyện thì không có mấy liên quan đến những gì họ thực sự cần cho con đường mà họ thực sự theo đuổi. Thay vào đó, cần có những lối đi khác, cách tiếp cận khác, phương pháp sư phạm khác, có ý nghĩa thiết yếu hơn cho chính họ và cho tiến bộ xã hội. Trong bối cảnh của Malaysia và các nước tiểu vùng châu Phi, sự đa dạng nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ giữa trường ĐH và giới doanh nghiệp, giữa nghiên cứu và ứng dụng, đổi mới, sáng tạo trong khu vực sản xuất kinh doanh, còn trong bối cảnh Việt Nam, sự đa dạng này cần nhấn mạnh nhiều hơn đến quan hệ giữa trường ĐH với cộng đồng xã hội nói chung, trước một thực tế là một số lớn những người có bằng tiến sĩ đã không làm việc trong khu vực hàn lâm, cũng không làm việc trong khu vực sản xuất kinh doanh, mà là trong khu vực hành chính công.

Hình dung về tiến sĩ từ góc nhìn sư phạm và thực tiễn

Hội thảo cũng bàn đến những giá trị và kỳ vọng, những chuẩn mực mà xã hội và giới hàn lâm đặt ra với học vị tiến sĩ, chương trình và quy trình đào tạo tiến sĩ.

Trước hết là vấn đề động lực. Robyn Barnacle và Denise Cuthbert (RMIT University, Australia) thực hiện một nghiên cứu với 403 nhà nghiên cứu xuất sắc nhất ở khoảng giữa sự nghiệp, gần một nửa dưới 40 tuổi, và một nửa tuổi từ 41-50, thuộc mọi lãnh vực ở Australia. Kết quả cho thấy, động lực của các nhà nghiên cứu khá đa dạng, từ chỗ thỏa mãn nhu cầu tri thức hay khẳng định bản thân, cho đến ý thức về sự cống hiến tất yếu, trong đó cái thứ nhất được nhấn mạnh hơn. Có ba xu hướng động lực chính: động lực bản thân, động lực quá trình, và động lực kết quả. Kết quả này đặt ra câu hỏi là động lực nào được xem là đáng mong muốn trong việc đào tạo những người nghiên cứu, và chương trình đào tạo nghiên cứu có vai trò gì trong việc nuôi dưỡng những động lực ấy.

Từ góc nhìn của nghiên cứu sinh, họ đã đặt những niềm tin và hy vọng gì, và trải nghiệm của họ trong quá trình theo đuổi bằng tiến sĩ gợi ra cho chúng ta điều gì? Cat Mitchell (University of Auckland, New Zealand) nói về những hy vọng mà nghiên cứu sinh ấp ủ, đặc biệt với những nghiên cứu sinh là người đầu tiên trong gia đình vào đại học, bằng tiến sĩ chẳng những là hy vọng của chính họ, mà còn là kỳ vọng và mong đợi của cả gia đình và có khi cả dòng họ, quê hương. Đối với nhiều người, theo đuổi bằng tiến sĩ là một giấc mơ, và giấc mơ thầm kín ấy đã đóng vai trò là động lực giúp họ vượt qua trở ngại khó khăn. Nghiên cứu của Mitchelle cho thấy nhiều nghiên cứu sinh đã chọn theo đuổi bằng tiến sĩ vì họ tin rằng đó là cây cầu dẫn đến một nghề nghiệp vẻ vang, được xã hội tôn trọng, được bù đắp xứng đáng về lương bổng. Những hình dung về tiến sĩ ấy hình thành trong bối cảnh trường ĐH (định hình bởi các chính sách, cách tuyển sinh, điều lệ nhà trường, v.v.) lẫn một bối cảnh văn hóa xã hội lớn hơn (tiểu thuyết, phim ảnh, các phương tiện truyền thông đại chúng, v.v.) đã tạo ra một quan niệm về việc thế nào là tiến sĩ trong công chúng (Frances Kelly, University of Auckland, New Zealand).

Trong việc hướng dẫn nghiên cứu sinh, Catherin Manathunga (Victoria University, Australia) đề xuất một cách tiếp cận liên văn hóa, nhấn mạnh rằng toàn cầu hóa đã khiến cho nghiên cứu sinh quốc tế chiếm một số lượng ngày càng lớn. Ngày càng nhiều giáo sư hướng dẫn làm việc với các nghiên cứu sinh có một nền tảng văn hóa hoàn toàn khác biệt, vì vậy cần hiểu biết đầy đủ hơn những yếu tố liên đới: thời gian, nơi chốn, và kiến thức. Tác giả khích lệ các học giả phương Tây có một thái độ thách thức với niềm tin về những kiến thức được cho rằng đó là chân lý phổ quát cho mọi nơi và mọi thời đại. Một thực tế khác tương tự cũng được nêu lên, là hiện tượng “nô dịch hóa” trong nghiên cứu (Robin Barnacle, RMIT, Australia), “thực dân hóa” (Barbara Grant, University of Auckland, New Zealand), hay là coi nghiên cứu sinh như những “nô lệ”. Các nước có nền GDĐH tiên tiến như Hoa Kỳ, UK, Australia đang dựa vào nghiên cứu sinh quốc tế để thực hiện những nghiên cứu cải tiến công nghệ dưới nhiều hình thức khác nhau, và có khi xem họ như những lao động bậc cao rẻ tiền. Quan hệ giữa giáo sư hướng dẫn và nghiên cứu sinh có thể khác nhau khá nhiều, từ cực này đến cực khác. Vì nghiên cứu sinh được xem là phải thực hiện những nghiên cứu độc lập, có những giáo sư mặc dù có vai trò rất quan trọng trong công trình nghiên cứu của học trò, hầu như không được nhắc đến. Ngược lại, có những người “cướp công” của nghiên cứu sinh. Có những giáo sư hầu như không hướng dẫn gì, có người ngược lại rất tận tình chỉ dạy và truyền đạt kinh nghiệm. Bởi vậy, chất lượng của việc hướng dẫn nghiên cứu sinh đang là mối lo ngại của nhiều trường ĐH. Từ năm 1985, University of Auckland ở New Zealand đã có Sổ tay Hướng dẫn Nghiên cứu sinh do Hội đồng Giảng viên của trường phê duyệt. Văn bản này được bổ sung sửa chữa nhiều lần từ năm 1992 đến 2014, vốn dài 1 trang nay lên đến 5 trang! Danh sách những thứ “phải là” dành cho giáo sư hướng dẫn tăng từ 8 lên đến 22, qua 5 lần sửa đổi (Barbara Grant, University of Auckland).

Thực tế trên đây cho chúng ta thấy, bức tranh về đào tạo tiến sĩ trên toàn thế giới đã khác rất nhiều so với cách đây vài thập niên, nhưng không phải ai cũng nhận thức rõ được điều này. Trong hai mươi năm qua chính sách nhiều nước đã đồng quy ở một điểm, đó là nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo tiến sĩ, coi đó là một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế quốc gia. Kinh tế tri thức như một đặc điểm của thời đại là yếu tố trọng yếu đã thúc đẩy việc đào tạo tiến sĩ và đặt ra cho nó những đòi hỏi to lớn trong việc nghiên cứu khoa học, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, dẫn dắt các hoạt động sáng tạo và đổi mới nhằm nâng cao năng suất. Điều này kích thích chúng ta xem xét lại những hình dung, kỳ vọng và giá trị mà xã hội đã và đang đặt vào học vị tiến sĩ như một đỉnh cao của kiến thức học thuật. Thật đáng ngạc nhiên là hiện nay có rất ít nghiên cứu về chủ đề trên. Hội thảo này là một diễn đàn nhỏ của các nhà chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực đa ngành, có am hiểu về giáo dục quốc tế, có sự gắn bó mạnh mẽ với sự nghiệp nghiên cứu, là một nỗ lực tìm kiếm câu trả lời cho những vấn đề chưa được biết rõ, những vấn đề có thể dẫn tới sự đổi thay phù hợp hơn trong chính sách, trong quan niệm về học vị tiến sĩ, trong quá trình đào tạo tiến sĩ và sử dụng những người có bằng tiến sĩ như thế nào để đáp ứng với những đòi hỏi, kỳ vọng và thay đổi của xã hội.

Phạm Thị Ly
Nguồn:
http://www.her.ntt.edu.vn/vn/?p=461#more-461


Cập nhật ( 30/01/2015 )
 
Tin đã đưa:

“ Lãnh đạo phải cụ thể, phải kịp thời, phải thiết thực, phải có trọng điểm và nắm điển hình. Phải chống tư tưởng ngại khó khăn, tư tưởng ý lại. Phải tuyên truyền rộng khắp các chính sách khuyến khích sản xuất. Cán bộ phải xem lãnh đạo sản xuất là công tác trung tâm bậc nhất”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com