Tuần -13 - Ngày 05/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Kinh tế và KKT biển
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống đê biển Đồng bằng Bắc Bộ
12/10/2007

Mở đầu
Trong ánh bình minh của thế kỷ 21, loài người như dòng chảy của sông đang đổ dồn về đới ven biển. Dự kiến đến năm 2010 sẽ có khoảng 54% dân số thế giới sinh sống trong khu vực từ bờ biển vào sâu trong đất liền 90 km (Charlier & De Meyer, 1998). Để bảo vệ khu vực ven biển, đến nay rất nhiều công trình đã được xây dựng, đặc biệt là đê biển. Đê biển được ghi nhận là công trình hữu hiệu nhất ngăn triều và chống sóng, bảo vệ vùng đất thấp. Trong điều kiện thực tế hiện nay, khi mà nguy cơ về sóng thần, sự dâng cao mực nước biển và xói lở bờ biển đang là vấn đề thời sự nóng bỏng (O’Connel, 2002 và Vellega, 1999), các nghiên cứu về ổn định lâu dài của hệ thống đê biển nhằm giảm thiểu thiệt hại do các hiện tượng trên gây ra luôn thu hút được rất nhiều sự quan tâm.
Khu vực ven biển đồng bằng Bắc Bộ không phải là ngoại lệ. Thực tế diễn ra những năm qua, đặc biệt là sau cơn bão số 7 tháng 9 năm 2005 cho thấy vấn đề ổn định lâu dài của hệ thống đê biển trước những biến động phức tạp của thiên nhiên đã trở nên vô cùng cấp thiết. Nhằm góp phần làm sáng tỏ vấn đề này, bài báo tập trung phân tích ảnh hưởng của các yếu tố xói lở bờ biển, sự dâng cao mực nước biển, xói mòn hạ thấp địa hình bãi biển, xói mòn bề mặt và sườn đê biển, các công trình xây dựng ở thượng lưu, trồng và khai thác rừng ngập mặn đến sự ổn định của hệ thống đê.
1. Khái quát hiện trạng hệ thống đê biển đồng bằng Bắc Bộ
Khu vực ven biển đồng bằng Bắc Bộ thuộc địa phận thành phố Hải Phòng và các tỉnh Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình có địa hình thấp, đa phần thấp hơn mực triều cường (cao 2,8-4m). Đây là vùng trọng điểm kinh tế của đất nước, có mật độ dân cư cao. Để bảo vệ khu vực ven biển, từ lâu việc nghiên cứu xây dựng các tuyến đê biển đã rất được chú trọng. Đến nay, Hải Phòng có 104,12km đê biển, một số tuyến đã được nâng cấp qua dự án PAM 5325 chống được gió cấp 9, tần suất triều 5%, nhưng vẫn cần tới 1.100 tỷ đồng để nâng cấp toàn bộ tuyến đê đến 2010. Thái Bình có 82,5km đê biển, trong đó 56km trực diện với biển. Dự án PAM 5325 mới chỉ nâng cấp được 47km đê biển. Nam Định có 91,5km đê biển, là nơi có tuyến đê xung yếu nhất và bị phá hủy trầm trọng trong các cơn bão năm 2005. Ninh Bình có các tuyến đê Bình Minh 1, 2 và 3 bảo vệ huyện Kim Sơn, quy mô nhỏ, không ổn định trong gió bão cấp 8-9.
Đê biển được đắp bằng máy xúc hoặc đào đắp thủ công. Đất đắp được lấy từ các khu vực đồng phía trong. Đất đắp có hai loại chính là cát mịn (ít hơn là cát pha) lẫn ít bụi, sét, mùn thực vật và sét, sét pha đôi chỗ lẫn mùn thực vật, màu nâu hồng. Đê biển ở đồng bằng Bắc Bộ được xây dựng trực tiếp trên nền là các trầm tích Holocen.
Các nghiên cứu đến nay đều khẳng định đường bờ từ Hải Phòng đến cửa Thái Bình thuộc loại triều chiếm ưu thế, các khu vực còn lại chịu ảnh hưởng hỗn hợp của sóng- triều (theo phân loại của Davis & Hayes, 1984), trong đó có nhiều đoạn bờ biển bị phá hủy mạnh mẽ như Hải Hậu (Nam Định), Cát Hải (Hải Phòng). Thực tiễn đã xảy ra trong cơn bão số 7 năm 2005 vừa qua đã cho thấy sự cần thiết phải dự báo được khả năng mất ổn định của các đoạn đê biển, nhằm chủ động đối phó với thiên tai cả trong thời gian trước mắt và lâu dài.
2. Nguyên tắc đánh giá mức độ ảnh hưởng
ổn định ở đây được hiểu là các trạng thái cân bằng bền của hệ thống đê biển. Nghiên cứu ổn định dài hạn có nghĩa là đánh giá khả năng giảm mức độ ổn định, tiến tới trạng thái cân bằng giới hạn hoặc trạng thái cân bằng bền với mức độ bền vững thấp hơn.
ổn định của đê biển là vấn đề phức tạp do chịu tác động đồng thời của nhiều yếu tố khác nhau. Đối với hệ thống đê biển đồng bằng Bắc Bộ, các hợp phần trực tiếp tương tác với nhau quyết định sự ổn định bao gồm tuyến đê, đất nền, biển và hoạt động nhân sinh. Các yếu tố này có thể biến đổi theo cả không gian và thời gian ở các mức độ khác nhau.
Về không gian, phân định các tuyến đê có độ ổn định khác nhau dựa trên sự khác biệt về cấu trúc nền đất, biên độ triều và chiều cao sóng trung bình, địa hình bãi biển, hiện trạng tuyến đê (dạng hình học, đặc điểm vật liệu đắp, các giải pháp công trình đã áp dụng). Trong các yếu tố tác động, một số yếu tố biến đổi nhanh theo thời gian và một số biến đổi chậm theo thời gian. Vì vậy, khi tiếp cận nghiên cứu ổn định đê biển trong mỗi không gian cụ thể cần xét tới ổn định tức thời và dài hạn. Khi phân tích ổn định tức thời của đê biển, bão là yếu tố quan trọng nhất, đặc biệt là khi thời điểm bão đổ bộ mực nước triều đang ở mức cao. Các yếu tố ảnh hưởng dài hạn đến ổn định đê biển bao gồm: xói lở bờ biển, sự dâng cao tương tối của mực nước biển, xói mòn hạ thấp địa hình bãi biển, xói mòn bề mặt và sườn đê biển, lún cố kết của nền đất yếu, các công trình xây dựng ở thượng lưu, trồng và khai thác rừng ngập mặn.
Khi quy mô các tuyến đê được nâng lên, bên cạnh vấn đề về ổn định, ảnh hưởng của lún nền đất nói chung, cố kết của các tầng đất yếu nói riêng sẽ đóng vai trò quan trọng.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến ổn định lâu dài của đê biển
3.1. Xói lở bờ biển
Kết quả phân tích các thế hệ bản đồ địa hình (bảng 1) cho thấy đồng bằng Bắc Bộ có nhiều đoạn bờ xói lở rất nghiêm trọng, như Cát Hải (Hải Phòng), Đông Long, Thụy Xuân, Nam Cửa Lân (Thái Bình), Giao Phong, Hải Hậu,

Nghĩa Phúc (Nam Định). Đoạn bờ xói lở điển hình nhất là ở huyện Hải Hậu, với chiều dài gần 20km. Đặc biệt đoạn bờ Hải Chính - Hải Hòa, tốc độ xói lở đạt tới 15-21m/năm. Xỏi lở diễn ra mạnh mẽ nhất vào mùa gió đông bắc, đặc biệt là ở Hải Thịnh, tốc độ có thể đạt tới hơn 40-50m/năm trong một vài năm qua.
Thời gian gần đây, xói lở có xu thế gia tăng cường độ và sự hình thành một số đoạn bờ xói lở mới. Biểu hiện gia tăng mức độ xói lở được thể hiện rất rõ rệt ở khu vực ven bờ Hải Hậu. Tại đây, cường độ xói lở tăng lên rất rõ rệt trong giai đoạn 1985-1995, gấp 1,5-2 lần giai đoạn 1965-1985. Do dâng cao mực nước biển và xu thế suy tàn của cửa Thái Bình đã và đang làm phát sinh, phát triển đoạn bờ xói lở mới ở cửa Thái Bình. Tuy nhiên, cường độ xói lở yếu vì đường bờ được bảo vệ bởi dải rừng ngập mặn có chiều rộng tương đối lớn. Bên cạnh đó, trong những thập kỷ tới, cửa Trà Lý vẫn tiếp tục phát triển mạnh về đông bắc, dẫn đến sự gia tăng phá hủy cồn cát phía nam và tạo ra khả năng xói lở mạnh trở lại ở Đông Long, Đồng Châu. Tương tự, trong vài năm tới, cửa Lạch Giang có thể lại mở về phía bắc, dẫn đến gia tăng xói lở ở Nghĩa Phúc và bờ trái cửa Đáy. Gia tăng xói lở dẫn đến bề mặt địa hình bãi bị hạ thấp nhanh hơn, chân khay đê biển bị phá hủy mạnh mẽ hơn, làm suy yếu đê biển.
3.2. Xói mòn hạ thấp bề mặt bãi biển
ở các đoạn bờ có đê, biển sẽ không tiếp tục lấn sâu vào đất liền và xói mòn theo phương ngang, chuyển sang xói mòn theo phương thẳng đứng, làm hạ thấp địa hình bãi biển ở chân đê. Xói lở làm hạ thấp địa hình bãi, phá hủy chân khay đê biển đã được ghi nhận bằng các mô hình vật lý ở trong phòng thí nghiệm bởi Barnett và Wang (1988). Hiện tượng này được xác định chủ yếu là do sự hình thành các dòng chảy rối do sóng tương tác với đê biển gây ra. Ngoài ra, sóng phản xạ từ đê cũng góp phần cường hóa hiện tượng này. Tốc độ hạ thấp địa hình bãi đạt giá trị lớn nhất khi vị trí xây dựng đê biển nằm trong khoảng từ điểm giữa đới sóng vỡ đến điểm ở vị trí bằng 2/3 khoảng cách từ giữa đới sóng vỡ đến đê biển (Kraus, 1988). Giả sử lượng bùn cát vận chuyển đi ở khu vực bờ có đê biển tương tự như khi không có đê biển. Từ đó, mối quan hệ giữa tốc độ xói lở ngang và tốc độ hạ thấp địa hình bãi biển trước đê được tính gần đúng theo công thức [11]:
Dh = 100DY x b/l (1)
Trong đó: Dh: Tốc độ hạ thấp địa hình bãi biển (cm/năm);
DY: Tốc độ xói lở ngang khi chưa có đê biển (m/năm);
l: Chiều rộng bãi tính từ đường bờ đến độ sâu bằng MNBTB (m)
b: Chiều cao của vách bờ xói lở (m)
Theo công thức (1), tốc độ hạ thấp địa hình bãi biển hiện nay ở một số tuyến đê đã được xác định (bảng 2). Kết quả cho thấy, ở tất cả các đoạn bờ xói lở, địa hình bãi ngoài đê đều bị hạ thấp. Tuy nhiên, mức độ hạ thấp rất khác nhau. Tại Thái Bình, địa hình bãi biển ở tuyến đê Đông Long bị hạ thấp nhanh nhất, đạt 8,9cm/năm, ở tuyến đê Đồng Châu đạt 5,4cm/năm, còn ở các tuyến đê khác tốc độ hạ thấp địa hình bãi chỉ từ 2-3,5cm/năm. Tại Nam Định địa hình bãi biển bị hạ thấp với tốc độ nhanh tại các trọng điểm xói lở hiện nay như Hải Lý, Hải Chính, Hải Triều và Hải Hòa. Tốc độ hạ thấp 15-25cm/năm. ở các khu vực đường bờ có mức độ xói lở giảm (Hải Đông) tốc độ hạ thấp địa hình thấp hơn đáng kể, đạt 6,3cm/năm. Địa hình bãi biển ở Nghĩa Phúc hạ thấp 12,2cm/năm. Do tốc độ xói lở tăng rất mạnh ở Hải Thịnh, địa hình bãi hạ thấp nhanh và đê biển tại đây đã bị phá hủy trong bão số 7năm 2005.
ở hệ thống đê biển PAM, chân khay thường được đặt ở độ sâu 1,5m so với bề mặt bãi biển. Như vậy, hệ thống đê biển được xây dựng kiên cố có thể đảm bảo ổn định trong thời gian dài bởi chân khay ở đa số các tuyến đê sẽ chỉ bị mất đi trong 16 đến hơn 50 năm. Vấn đề đặc biệt nghiêm trọng chỉ diễn ra tại Hải Hậu, nơi mà chân khay của đê biển có thể bị mất hoàn toàn trong 6-10 năm ở các tuyến trọng điểm.
3.3. Dâng cao mực nước biển
Sự dâng cao mực nước và ảnh hưởng tiêu cực của nó đã và đang là vấn đề thời sự rất được quan tâm nghiên cứu từ nhiều năm qua trên thế giới. Theo hầu hết các dự báo hiện nay mực nước biển trung bình (MNBTB) được dự báo là sẽ dâng cao khoảng 50-100 cm trong 100 năm tới. Dâng cao mực nước biển cũng kéo theo sự phát sinh, phát triển của nhiều tai biến, tác động tiêu cực đến các hệ thống tự nhiên và kinh tế - xã hội (hình 1). Như vậy, dâng cao mực nước biển có nhiều tác động gián tiếp đến đê biển, trong đó đáng chú ý nhất là sự cường hóa xói lở bờ biển. Ngoài ra, chiều cao thiết kế đê cũng phải cao hơn (hình 2), dẫn đến những khoản chi phí lớn để xây dựng.
Để dự báo sự gia tăng mức độ xói lở do dâng cao mực nước biển, Brunun (1962) đã đưa ra quan hệ giữa mức độ gia tăng xói lở và lượng dâng cao mực nước:
Theo Nguyễn Ngọc Thủy, khu vực từ cửa Văn úc đến Hà Lạn đang bị sụt lún với tốc độ -2mm/năm, các khu vực còn lại được nâng yếu. Đồng thời, lượng dâng cao mực nước biển (đã loại trừ ảnh hưởng của sụt lún kiến tạo) được xác định từ trạm quan trắc Hòn Dấu là 2,24mm/năm. Như vậy, trong dự báo, lượng dâng cao mực nước biển là 4,24mm/năm tại cửa Văn úc đến Hà Lạn, còn từ Hà Lạn đến cửa Đáy là 2,24mm/năm.
Kết quả tính toán (bảng 3) cho thấy, tốc độ gia tăng xói lở do dâng cao mực nước biển đạt từ 0,15-0,6m/năm. Như vậy, trong những năm tiếp theo, các khu vực đang bị xói lở như Hải Hậu, Đồng Châu và Nghĩa Phúc cường độ xói lở sẽ tiếp tục tăng. Đến năm 2010 và 2015 tốc độ xói lở gia tăng đạt tới 2-6m/năm.
3.4. Xói mòn bề mặt và sườn đê biển
Hiện nay nhiều đoạn đê biển chỉ kè bê tông hoặc đá hộc ở sườn phía biển, sườn phía đất liền và bề mặt chưa được xây dựng bảo vệ. Trong mưa lớn, hoặc khi sóng leo vượt lên trên bề mặt đê, vật liệu là cát mịn ở mặt và sườn đê dễ dàng bị xói mòn. Qua quan sát thực tế đê Thụy Xuân và Thụy Hải (Thái Thụy, Thái Bình) có thể thấy, bề mặt đê hạ thấp tới 5cm/năm do xói mòn. Trong cơn bão số 7 tháng 9 năm 2005, phần lớn các đoạn đê hư hỏng ở Hải Hậu là do sườn phía đất liền bị nước do sóng leo tràn vào phá hoại trước, kéo theo là sự sập đổ dần của mái đê theo chiều từ đất liền ra biển.
Với vật liệu đắp là cát mịn lấy trực tiếp ở ven biển. Một số chỉ tiêu cơ lý cơ bản của đất đắp đê được lấy tại Hải Hậu như sau: hệ số rỗng (e) = 0,759, đường kính hạt hữu hiệu D10 = 0,12mm, hệ số đồng nhất CU = 1,3, góc ma sát trong hữu hiệu (j’) 25-300. Do đê có góc dốc phía đất liền phổ biến là 1:2 (gần 300) tức là xấp xỉ góc ma sát trong hữu hiệu của đất. Sở dĩ ở trạng thái tự nhiên đê bền vững là do đất được bổ sung thành phần sức chống cắt do độ hút dính (matric suction). Dựa vào các chỉ tiêu e, D10, CU đường đặc trưng đất nước của đất được xác định như hình 3. Qua đây có thể thấy, ở trạng thái khô gió, cát mịn có độ hút dính lên tới 10kPa, tăng cao sức chống cắt của đất. Khi mực nước dâng cao do thủy triều và nước dâng trong bão, cát mịn dễ dàng bị bão hòa nước do mao dẫn, hoặc trong một số trường hợp bão hòa do nước mưa, nước mặt. Khi đó, mái dốc phía đất liền gần như ở trạng thái cân bằng giới hạn. Do vậy, dưới tác dụng của dòng chảy mặt sườn đê dễ dàng bị xói mòn, thậm chí bị sạt lở ở các mức độ khác nhau. Nghiêm trọng hơn, nếu nước do sóng leo tràn qua đê sẽ dễ dàng gây ra sự mất ổn định của sườn đê biển, tạo ra các khối trượt nông dạng dòng chảy và dẫn đến sự phá hủy hoàn toàn đê biển theo chiều từ đất liền ra biển.
3.5. Trồng và khai thác rừng ngập mặn
Rừng ngập mặn (RNM) có vai trò rất rõ rệt trong việc giảm sóng. Tuy vậy, trước đây vì một số lợi ích trước mắt RNM tự nhiên ở ven biển đã bị khai thác quá mức, không thể tự phục hồi, gây suy thoái đất và cường hóa xói lở. Chiều cao sóng giảm do RNM cao hơn giảm sóng thuần tùy do ma sát đáy từ 4-20 lần. Tuy nhiên, RNM chỉ có thể phát huy tốt vai trò giảm sóng khi cây đã tương đối trưởng thành và chiều rộng của rừng đủ rộng.
Với đặc điểm độ hạt của cát mịn ở ven biển đồng bằng Bắc Bộ, để dòng chảy dọc bờ di chuyển được hạt cát, sóng phải có chiều cao tối thiểu là 0,25m. Như vậy, để bảo vệ đê một cách hữu hiệu, chiều rộng RNM cần đủ lớn để giảm được chiều cao sóng trung bình xuống dưới 0,25m. Khi đó, chân khay của đê biển sẽ không bị phá hủy. Các kết quả nghiên cứu cho thấy hệ số giảm sóng “r” trung bình của RNM đạt khoảng 0,12/100m. Với chiều cao sóng trung bình năm ở khu vực là 0,8-1,0m, chiều rộng tối thiểu của RNM, góp phần bảo vệ đê một cách hữu hiệu khoảng 500 đến 600m.


3.6. ảnh hưởng của các công trình xây dựng ở thượng lưu
Hệ thống đê trên các sông thu hẹp tiết diện lòng dẫn, tăng động năng dòng chảy khi đổ ra biển, giảm khả năng cung cấp bùn cát trực tiếp cho khu vực bờ lân cận cửa sông. Rõ rệt nhất là tại cửa Ba Lạt, bùn cát đưa ra chủ yếu bồi đắp ở các cồn Lu, Vành và vận chuyển ra vùng nước sâu. Hệ thống đê sông cũng đóng vai trò quan trọng tạo ra châu thổ sông Hồng chỉ phát triển mạnh ở phía bắc (cửa Văn úc, Trà Lý), khu vực trung tâm (cửa Ba Lạt) và phía Nam (cửa Lạch Giang, Đáy). Giữa các khu vực này các cửa sông đều suy tàn, dẫn đến phát triển xói lở, trong đó bờ biển Hải Hậu là một điển hình.
Các công trình thủy điện Hòa Bình không làm thay đổi lượng nước, nhưng giảm tới 56% lượng bùn cát ở hạ lưu. Hậu quả là gia tăng xói lở ở Hải Hậu và giảm tốc độ bồi tụ trung bình tại Ba Lạt giảm 24m/năm trong thời kỳ 1985-1995 so với thời kỳ 1965-1985. Trong thời gian tới khi thủy điện Tuyên Quang, Sơn La và nhiều công trình thủy điện nhỏ khác đi vào xây dựng và hoạt động, lượng bùn cát cung cấp cho khu vực ven biển chắc chắn sẽ tiếp tục giảm, dẫn tới giảm bồi tụ, gia tăng xói lở, góp phần tăng tốc sự suy yếu đê biển.
Kết luận
Hệ thống đê biển đồng bắc Bắc Bộ có vai trò cực kỳ quan trọng bảo vệ vùng đất thấp ven biển. Hiện nay hệ thống đê có xu thế suy yếu dần theo thời gian do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau.
1. Xói lở với cường độ lớn phá hủy chân khay là quá trình chính làm suy yếu hệ thống đê biển. Bên cạnh đó, sự dâng cao mực nước biển trung bình 2mm/năm, kết hợp với sụt lún kiến tạo có ảnh hưởng nghiêm trọng và rộng khắp, gia tăng mức độ xói lở bờ. Sự biến đổi hướng dòng chảy (cửa Lạch Giang) hoặc suy tàn cửa sông (Thái Bình) kết hợp với dâng cao mực nước biển dẫn đến gia tăng cường độ xói lở và hình thành những đoạn bờ xói lở mới.
2. Các tuyến đê được đắp bằng vật liệu tại chỗ, chủ yếu là cát mịn, khi bề mặt và sườn không được bảo vệ dễ bị xói mòn hoặc sạt lở do tác động của nước mưa, nước mặt và sóng leo.
3. Các hoạt động nhân sinh như xây dựng hệ thống đê sông, các công trình thủy điện ở thượng lưu có mức độ ảnh hưởng rõ rệt và lâu dài theo chiều hướng gia tăng cường độ xói lở bờ biển, đẩy nhanh quá trình suy yếu đê. RNM với chiều rộng đủ lớn (tối thiểu 500-600m) có tác dụng chống xói lở bảo vệ đê biển, nhưng không sử dụng được tại các đoạn bờ xói lở mạnh.

                                                                                                                    (Đỗ Minh Đức)

 
Tin mới đưa:
"Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa"
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com