Tuần -13 - Ngày 30/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Điểm tin
10 vấn đề khoa học lớn theo tạp chí PHYSICS WORLD
27/03/2014


Để kỷ niệm 25 năm ngày thành lập, tạp chí 
Physics World số 10/2013  đã cho đăng nhiều bài  tổng kết các vấn đề quan trọng trong khoa học và công nghệ. Sau đây là 10 vấn đề trong số các vấn đề được đề cập đến trong số báo trên: Năm phát hiện lớn về vật lý trong 25 năm qua và năm câu hỏi lớn chưa có câu trả lời đặt ra cho tương lai.






 
Năm phát hiện lớn trong vật lý 25 năm qua

(Tushna Commissariat, Matin Durrani ) 

Theo Physics World [1] thì việc chọn năm phát hiện lớn trong 25 năm qua là một điều khó khăn. Tuy nhiên năm phát hiện sau đây là ấn tượng nhất:

1/ Viễn tải lượng tử (quantum teleportation-viễn tải thông tin từ A đến B trong nháy mắt). Hiện tượng này được sử dụng như chủ đề trong phim Star Trek.

Tạp chí Physics World đã chọn những vấn đề làm thay đổi mạnh mẽ nhận thức của chúng ta về thế giới khách quan.

Vấn đề thứ nhất theo trình tự thời gian là vấn đề viễn tải lượng tử. Có thể chăng làm biến mất một con người tại một điểm, để rồi tái tạo con người đó tại một điểm khác? Đây là khoa học hay viễn tưởng?


Hãy biến tôi thành tia vật chất để chuyển tôi đến một nơi xa xôi! Viễn tải lượng tử hiện nay đã trở thành hiện thực đối với một trạng thái lượng tử.

Phim khoa học viễn tưởng nhiều tập Star Trek đã dựng nên một viễn cảnh khoa học giàu tưởng tượng. Thuyền trưởng Kirk nhờ thuyền phó bấm một số nút và Kirk đã phi vật chất hóa (dematerialise) thành một tia chớp ánh sáng để xuất hiện trên một hành tinh bí ẩn.

Viễn tải  (teleportation) từ lâu là một câu chuyện khoa học viễn tưởng. Đến năm 1992 một nhóm các nhà vật lý và tin học đã tìm ra ý tưởng để sao chép một trạng thái của một hạt đến một nơi khác. Họ đã sử dụng một hiện tượng do Einstein phát hiện trong những năm 30 của thế kỷ trước: trong một số điều kiện, hai thực thể lượng tử lại được nối liền với nhau bởi một sợi dây vô hình, bí ẩn do một tác động ma quái (spooky action - từ của Einstein). Đó là hiện tượng liên đới lượng tử (quantum entanglement).

Trong những năm gần đây người ta đã tiến hành những thí nghiệm chứng tỏ viễn tải lượng tử là vấn đề khoa học nghiêm chỉnh, mở ra những khả năng rộng lớn cho tính toán lượng tử, mật mã lượng tử.

Năm 1997 nhóm các nhà khoa học lãnh đạo bởi Anton Zeilinger (Đại học Innsbruck) thực hiện ý tưởng viễn tải lượng tử trạng thái phân cực của photon. Sau đó nhiều nhà khoa học đã thực hiện viễn tải lượng tử trạng thái spin nguyên tử, spin hạt nhân và các trạng thái khác. Hiện nay kỷ lục khoảng cách viễn tải lượng tử là 21m đối với các nguyên tử riêng lẻ và 143km đối với photon.Viễn tải lượng tử sẽ mở ra nhiều khả năng không tiên đoán được cho khoa học và công nghệ.     

2/ Một trạng thái mới của vật chất

Sự tạo ra đầu tiên trên thế giới trạng thái ngưng tụ Bose-Einstein (BEC- Bose-Einstein condensate) từ những nguyên tử lạnh năm 1995 đã làm biến đổi vật lý nguyên tử .Ý nghĩa lớn lao của điều này là tạo nên một dạng vật chất mới trong đó các hạt bị giam  chung trong trạng thái ở năng lượng thấp nhất, đã mở ra nhiều triển vọng nghiên cứu trong vật lý.

Ý tưởng về BEC bắt đầu từ năm 1924 khi nhà lý thuyết Ấn độ Satyendra Nath Bose suy ra định luật Planck cho bức xạ vật đen lúc xem photon như một chất khí của nhiều hạt đồng nhất. Ông chia sẻ ý tưởng của mình với  Einstein và hai nhà khoa học đã tổng quát hóa lý thuyết của Bose cho một khí lý tưởng các nguyên tử và tiên đoán rằng nếu các nguyên tử bị làm đủ lạnh – bước sóng của chúng trở thành lớn đến mức chồng lên nhau (overlap). Các nguyên tử mất nhận dạng cá nhân (individual identities) và tạo nên một trạng thái lượng tử vĩ mô hay nói cách khác một siêu nguyên tử - tức là một BEC. Mãi đến năm 1980 khi kỹ thuật laser đã đủ phát triển để làm siêu lạnh các nguyên tử đến nhiệt độ rất thấp thì BEC mới thực hiện được.


Mật độ của mây các nguyên tử rubidium siêu lạnh làm thành một BEC.Đỉnh màu trắng và xanh là BEC, một đám mây gồm nhiều ngàn nguyên tử .

Ngày 5/6/1995 một nhóm các nhà vật lý tại phòng thí nghiệm JILA (Đại học Colorado + Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia NIST) đứng đầu là Carl Wieman và Eric Cornell lần đầu tiên thành công trong việc tạo nên BEC gồm 2000 nguyên tử rubidium 87 được làm siêu lạnh trong một bẫy từ  sử dụng  laser. Sau đó Wolfgang Kettle (Viện công nghệ Massachusetts) cũng tạo được BEC từ 500.000 nguyên tử sodium 23. Ba nhà vật lý trên được giải Nobel Vật lý năm 2001.

Trong BEC sự tương tác giữa các nguyên tử có thể kiểm tra được cho nên BEC được dùng trong việc mô phỏng các tính chất của hệ môi trường đông đặc mà chúng ta rất khó nghiên cứu được trong các vật liệu thực tế.

Năm 2010 các nhà vật lý đã tạo được BEC từ các photon (là các hạt mà Bose nghiên cứu từ đầu).

Các nhà vật lý đang nghĩ đến việc tạo nên một trạng thái tựa-condensate từ các fermion. Song đây là điều khó hơn vì fermion khác với boson không chịu nằm chung ở điều kiện bình thường trong cùng một trạng thái.  

3/ Vai trò của các siêu tân tinh (supernovae)

Việc phát hiện hiện tượng dãn nở có gia tốc của vũ trụ dẫn đến việc giả định sự tồn tại của một năng lượng tối bí ẩn bao trùm vũ trụ. Có rất nhiều phát hiện trong lĩnh vực thiên văn học và vũ trụ học nhưng sự phát hiện quá trình vũ trụ dãn nở có gia tốc (chứ không phải chậm lại) là phát hiện nổi trội hơn cả. Điều phát hiện này buộc rằng ¾ khối lượng-năng lượng của vũ trụ phải gồm bằng một chất bí ẩn gây lực đẩy và được gọi là năng lượng tối. Trước đây người ta đã tiên đoán rằng vũ trụ sẽ co lại trong một vụ co lớn (Big Crunch) hoặc dãn nở mãi mãi không gia tốc với một tốc độ vừa phải tùy theo mật độ vật chất.

Sự phát hiện vũ trụ dãn nở có gia tốc trong giữa những năm 1990 là một điều gây ngạc nhiên lớn, được thực hiện nhờ hai nhóm nghiên cứu đang truy lùng những sao bùng nổ có tên là siêu tân tinh 1a. Những sao này luôn bùng nổ khi đạt đến một khối lượng nhất định. Sự bùng nổ này có thể làm thành những ngọn nến quy chiếu cho phép đo được chính xác các khoảng cách trong vũ trụ.

Hai nhóm nghiên cứu:

1/ Saul Perlmutter, đề án SCP (Supernova Cosmology Project), Phòng thí nghiệm quốc gia Lawrence Berkeley và Đại học California, Mỹ,

2/ Brian P. Schmidt Đại học quốc gia Australia, Weston Creek, cùng Adam G. Riess, Đại học Johns Hopkins và Viện khoa học viễn vọng vũ trụ, Baltimore, Mỹ, đề án  HZT (High-z Supernova Search Team), đoạt giải Nobel Vật lý năm 2011 vì đã phát hiện quá trình dãn nở có gia tốc của Vũ trụ dựa trên  những quan sát các siêu tân tinh ở những khoảng cách xa.


Hiện tượng dãn nở có gia tốc của vũ trụ trở nên rõ ràng khi nghiên cứu siêu tân tinh 1a càng ngày càng đi xa để lại một ảnh tồn dư như trên hình vẽ.

Viện Hàn lâm Hoàng gia Thụy điển đánh giá rằng sự phát hiện của 3 nhà vật lý trên không kém quan trọng so với sự phát hiện CMB (Cosmic Microwave Background-Phông vi ba vũ trụ, bức xạ tồn dư của vũ trụ) năm 1992.

4/ Neutrino  có khối lượng, neutrino được xem là một bóng ma vật chất

Năm 1998 người ta đã tìm rằng các hạt neutrino có khối lượng, điều này là một trong những bí ẩn lớn nhất trong vật lý học. Theo lý thuyết hạt neutrino không có khối lượng, trong khi thực nghiệm chứng tỏ rằng neutrino lại có khối lượng. Năm 1998 thí nghiệm Super - Kamiokande tại Nhật Bản đã thu được nhiều kết quả chứng tỏ neutrino có khối lượng. Khi neutron phân rã beta thì xuất hiện neutrino là những hạt không điện tích tương tác với vật chất qua tương tác yếu. Wolfgang Pauli đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của hạt neutrino để giải quyết vấn đề cân bằng năng lượng trong phân rã beta (tên neutrino là tên do Enrico Fermi đặt). Hạt neutrino là một hạt khó ghi đo được.

Năm 1956 Reines cùng với Clyde Cowan đã ghi đo được anti neutrino bức xạ từ một lò phản ứng hạt nhân, hai tác giả trên đoạt giải Nobel Vật lý năm 1995.

Sau đó nhà vật lý người Ý Bruno Pontecorvo đưa ra ý tưởng về “hương vị“ của neutrino (có nhiều loại neutrino khác nhau về “hương vị”, đó là neutrino electron và neutrino muon)  và về khả năng dao động của neutrino từ một hương vị này sang hương vị kia. Một loại neutrino thứ ba – tau neutrino- tiên đoán từ năm 1975 được tìm ra năm 2000.

Một vấn đề lớn được đặt ra khi năm 1964 Raymond Davis và John Bahcall (BNL) tìm thấy rằng các neutrino mặt trời chỉ được ghi đo khoảng 30 % so với số lượng tính toán bởi lý thuyết. Sự sai khác này chỉ có thể giải thích nếu các neutrino “dao động” giữa các hương vị khi chúng du hành từ mặt trời đến trái đất: thí nghiệm của David chỉ ghi đo được 1/3 vì chỉ nhạy với neutrino electron. Song các nhà vật lý chứng minh rằng nếu có dao động thì bắt buộc neutrino phải có khối lượng, điều này trái với Mô hình chuẩn (SM-Standard Model) của các hạt cơ bản. Năm 1998 detector khổng lồ Super-Kamiokande  chứng minh rằng neutrino electron và neutrino muon dao động lẫn nhau khi chúng đi qua trái đất và tìm thấy neutrino có khối lượng dầu chỉ vào khoảng 0,1eV.

5/ Hạt Higgs-hạt của Chúa

Ngày 4/7/2012 hai nhóm (mỗi nhóm 3000 người) gồm các nhà vật lý làm việc tại các thí nghiệm ATLAS (A Toroidal LHC Apparatus) và CMS  (Compact Muon Solenoid) ở CERN công bố đã tìm ra một “hạt tựa Higgs” với khối lượng nằm trong vùng lân cận 125 GeV/c2.


Cuối cùng hạt Higgs  đã được tìm ra tại Máy gia tốc hạt lớn (LHC)

Gần nửa thế kỷ khi Peter Higgs – và độc lập với nhau Robert Brout, Francois Englert và nhiều người khác đã công bố các công trình mô tả cơ chế các hạt thu được khối lượng khi tương tác với hạt Higgs. Hạt Higgs  có thể giải thích được sự phá vỡ đối xứng điện yếu và dẫn đến cơ chế các hạt thu được khối lượng. Song SM (Standard Model-Mô hình chuẩn) không tiên đoán được khối lượng của hạt Higgs. Trong những tháng cuối LHC đã cung cấp dữ liệu 10 lần nhiều hơn số tiên liệu, nhờ đó đã giúp ATLAS và CMS có thể khẳng định cuối cùng là hạt tìm ra quả là hạt Higgs.

Quá trình tìm hạt Higgs quả là một quá trình xảy ra tựa như một cơn sốt về hạt Higgs (Higgsteria) đã lan truyền và cuốn hút sự chú ý trên toàn thế giới. Việc tìm ra hạt Higgs không chỉ là một sự kiện quan trong nhất của thế kỷ 21 mà rất có thể của lịch sử vật lý về một kỳ tích khoa học của con người.
                                                                  
Năm câu hỏi lớn chưa có câu trả lời
(Catherine Heymans, Adam Frank, Ray Jayawardhana, Sabine Hossenfelder, John Preskill )

1/ Bản chất của Vũ trụ tối là gì?

Hơn 95% của vũ trụ gồm một dạng năng lượng tối và vật chất tối mà chúng ta không ghi đo được và cũng không giải thích được.

Vũ trụ của chúng ta gồm khoảng 26,8% vật chất tối, 68,3% năng lượng tối và ít hơn 5% là vật chất thông thường như trái đất. Các nhà khoa học đang  đặt ra câu hỏi bản chất của vũ trụ tối là gì?

Vật chất tối không bức xạ và cũng không hấp thụ ánh sáng, vật chất tối chỉ được ghi nhận nhờ tương tác hấp dẫn với vật chất thông thường là vật chất mà chúng ta thấy được.

Năng lượng tối khó mô tả hơn là nguồn gốc của quá trình dãn nở bí ẩn của vũ trụ sau Big Bang. Hai phạm trù đó là hai phạm trù tương khắc giữ vũ trụ trong một tỷ lệ hiện nay: vật chất tối làm co vũ trụ còn năng lượng tối làm dãn nở vũ trụ.

Nhiều ý kiến cho rằng để giải thích vũ trụ tối cần đến những lý thuyết có khả năng làm thay đổi nhận thức của chúng ta về vũ trụ.

Đa số cho rằng vật chất tối gồm các hạt WIMPs (Weakly Interacting Matter Particles). Vài tỷ tỷ hạt WIMP đi ngang trái đất từng giây một. Sự tìm ra các hạt tối sẽ là một thành tựu quan trọng của vật lý trong thế kỷ này theo Fritz Zwicky.

Những quan trắc về dãn nở có gia tốc của vũ trụ dẫn đến giả thuyết về sự tồn tại một năng lượng bao trùm chân không của toàn vũ trụ. Theo lý thuyết lượng tử thì chân không chứa đầy những hạt ảo luôn sinh và hủy với một giải rộng khối lượng.Vì khối lượng và năng lượng tương đương với nhau nên chân không được xem như một nhà băng khổng lồ với năng lượng  vô tận thúc đẩy toàn vũ trụ vào một quá trình dãn nở với gia tốc.

Song khi các nhà vật lý hạt ước tính năng lượng chân không thì kết quả thu được cao hơn thực tại đến 120 bậc. Điều này dẫn đến nhiều giả thuyết về năng lượng tối.

2/ Thời gian là gì?

Câu hỏi này đã được đặt ra nhiều thế kỷ song có lẽ sẽ tiếp tục được đặt ra trong một thời gian dài nữa. Câu hỏi về thời gian là một câu hỏi xưa nhất về bản chất và ý nghĩa về sự tồn tại thực tế của nó. Đây là một vấn đề mang nhiều ý nghĩa triết học.Và vấn đề thời gian không phải là một vấn đề nằm đơn độc mà nằm chồng chéo giữa nhiều bài toán quan trọng khác như vậy đòi hỏi một câu trả lời tổng thể. Trong lịch sử đã xảy ra cuộc tranh luận giữa Parmenides và Heraclitus (thế kỷ 5 TCN). Theo Parmenides thời gian , vốn là một số đo tương đối của các biến đổi thật sự chỉ là một ảo tưởng, nói cách khác thực tại ở mức cơ bản nhất là phi thời gian và vĩnh cửu.


Thời gian chỉ là một công cụ đo đạc, thời gian chỉ là một ảo tưởng?    

Ngược lại Heraclitus thì không có điều gì có thể tồn tại ngoài thời gian. Hiện nay các nhà khoa học cũng chia làm 2 phái Parmenidean & Heraclitan và một phái trung dung thứ ba. Phái trung dung chủ trương động học  cơ học Newton. Những phương trình vi phân của động học Newton xử lý thời gian như một thông số chảy với một vận tốc không thay đổi ở mọi nơi và mọi thời điểm của vũ trụ. Những phương trình này mô tả các định luật tồn tại vĩnh cửu và ngoài thời gian.

Song các định luật Newton chỉ đúng trong những giới hạn nhất định khi vận tốc nhỏ hơn vận tốc ánh sáng nhiều lần và kích thước hệ nhiều lần lớn hơn kích thước lượng tử.

Sự phát sinh lý thuyết tương đối và lượng tử đã làm thay đổi bức tranh mô tả bởi Newton song cũng không ảnh hưởng đến ý tưởng khẳng định rằng các định luật vật lý tồn tại ngoài thời gian.

Một vấn đề lý thú của thời gian là vấn đề mũi tên thời gian (chảy theo một chiều) và mọi hệ vật lý đều chịu tính bất khả hồi, không đảo ngược được. Song các phương trình Newton cũng như các phương trình Schrodinger đều không nói được thời gian đang chảy theo hướng nào (có nghĩa là bất biến với t thay bằng –t). Vậy mà các hệ vĩ mô lại loại trừ sự bất định đó. Một quả trứng vỡ không trở thành nguyên lại được và như thế mũi tên thời gian từ quá khứ đến tương lai là một tính chất cốt yếu của thực tại.

Chỉ với sự phát triển của cơ học thống kê và nhiệt động học mũi tên thời gian mới được giải quyết khi nghiên cứu đến các trạng thái vi mô ứng với một trạng thái vĩ mô. Và đại lượng tương ứng một hệ lớn là entropy, một đại lượng luôn tăng. Song lại phát sinh vấn đề: tại sao vũ trụ bắt đầu lại có entropy thấp để cho phép vũ trụ tiến triển (evolution) làm cho entropy tăng lên.Theo Roger Penrose và Sean Carroll và nhiều nhà lý thuyết khác thì xác suất entropy ban đầu  nhỏ là  rất bé. Các vấn đề về điều kiện ban đầu của vũ trụ dẫn đến nhu cầu phải có lý thuyết hấp dẫn lượng tử!

Nếu người ta  chuyển phương trình Schrodinger trong một dạng tương thích với không-thời gian của lý thuyết tương đối tổng quát thì người ta lại thu được một phương trình trong đó không có thời gian: đó là phương trình Wheeler-DeWitt.

Như vậy phải chăng phương trình Wheeler-DeWitt chứng minh rằng Parmenides là đúng? Và thời gian chỉ là một ảo tưởng? Các nhà vật lý hấp dẫn lượng tử cho rằng những điều mà chúng ta nói về không gian và thời gian đều không là cơ bản, phải tìm một điều gì đó cơ bản hơn khác xa với những điều chúng ta lâu nay quan niệm.

Như thế câu hỏi “Thời gian có thực hay không?” sẽ là câu hỏi có phải thời gian đột sinh từ một tập nguyên lý sâu xa hơn.

Một phương hướng khác là phương hướng do Lee Smolin đề ra. Theo Lee Smolin nói định luật vật lý phi thời gian là một điều sai, khi ta nghiên cứu đến những vũ trụ song song (ở đấy các định luật vật lý khác nhau chứ không tồn tại vĩnh cửu ngoài thời gian). Smolin nghiêng về phái Heraclitan và quan niệm rằng thời gian là cái nền tảng của mọi thực tại và không phải là một phạm trù đột sinh. Các định luật vật lý gắn liền với thời gian. Các nghiên cứu về thời gian dẫn đến nhiều bản chất của thời gian mà chúng ta đã phát hiện được và còn phải đi tiếp nữa để tìm hiểu. Triết học về thời gian còn là một vấn đề bỏ ngỏ và là một bí ẩn còn đó của vật lý.

3/ Sự sống chỉ tồn tại trên trái đất?

Nhóm các nhà khoa học của Onstrott đang nghiên cứu tìm tòi những cơ thể của sự sống ở những hang động nơi không có mặt trời chiếu sáng đến. Sự phát hiện nhiều loại vi khuẩn đã dấy nên một thách thức đối với những gì ta biết được từ sinh học. Thay vì quang hợp trực tiếp hay gián tiếp chúng được nuôi sống nhờ khí hydrogen tồn tại trong những hệ sinh thái dưới đất vốn đã đứt đoạn với các chu kỳ sinh học trên mặt đất nhiều vạn năm. Năm 2011 Gaetan Borgonie (Đại học Ghent, Bỉ) cùng đồng nghiệp nghiên cứu loài nematodes sống dưới mặt đất nhiều km trong nhiều hầm mỏ vùng Nam Phi, và đó là những cơ thể đa bào đầu tiên tìm thấy ở độ sâu như vậy. Những phát hiện này đã mở rộng sinh quyển hành tinh chúng ta một cách đáng kể. Và điều lý thú là những phát hiện này góp phần làm sáng tỏ quan hệ sinh học giữa trái đất nguyên thủy trước khi xuất hiện quang hợp với bản chất sự sống của những thế giới khác có những khí quyển khác khí quyển của chúng ta.


Loài extremophiles có thể sống trong những điều kiện sát thủ đối với nhiều dạng sống trên trái đất . Ví dụ ngành tardigrade (thuộc loài này) có thể sống ở nhiệt độ gần nhiệt độ không tuyệt đối và dưới áp suất nhiều hơn áp suất ở các đáy đại dương sâu nhất và thậm chí trong chân không dưới bức xạ vũ trụ.

Những cơ thể tìm thấy sâu trong lòng đất thuộc về loài gọi là extremophiles mà các nhà sinh vật tìm thấy trong những thập kỷ gần đây. Những loài khác bao gồm vi trùng có khả năng sống gần núi lửa dưới đáy đại dương cũng được phát hiện.Nhiều loài có khả năng sống ở biên của tầng bình lưu (stratosphere). Sự tồn tại tất cả các loài đó chứng tỏ rằng sự sống là một hiện tượng có khả năng thích ứng với một giải rộng các điều kiện của môi trường.

Mặc dầu có sự đa dạng các loài trên lại  liên quan với nhau: chúng chia sẻ một chế độ hóa –sinh, cùng tham gia một cây tiến hóa (evolutionary tree) và có nguồn gốc từ một tổ tiên mà có lẽ đã tồn tại hơn 3 tỷ tỷ năm về trước.

Các nhà sinh học đã khẳng định rằng những yếu tố của sự sống cũng như những cơ thể khả dĩ rất có thể tồn tại ngoài trái đất và hơn nữa có thể có mặt khắp nơi trong vũ trụ. Các ghi đo thực hiện trong phòng thí nghiệm chứng tỏ rằng amino acid- những viên gạch của protein- tồn tại trên các thiên thạch và sao chổi. Nhiều thiên thạch giàu carbon thậm chí còn chứa một số thành phần DNA ( nucleobase). Nhiều đo đạc thiên văn sử dụng quang học, hồng ngoại và radio còn phát hiện một số phân tử hữu cơ phức tạp trên những đám mây giữa các sao- đây là vùng sinh nở của các sao và các hành tinh.

Gần chúng ta hơn sao Hỏa là mục tiêu đầu tiên để tìm kiếm sự sống ngoài trái đất. Tương tự như thế các mặt trăng của sao Mộc và sao Thổ cũng là mục tiêu cho việc tìm kiếm sự sống.

Một câu hỏi lớn là vị trí của chúng ta trong vũ trụ phải được đặt ra khi chúng ta đã phát hiện hàng nghìn hành tinh quay chung quanh những “mặt trời” (như mặt trời trong Thái dương hệ). Những hành tinh này gọi là những hành tinh  thuộc các thái dương hệ lạ. Chúng được phát hiện nhờ sử dụng các kính viễn vọng trên mặt đất và những phi thuyền như Kepler của NASA.

Nhờ công nghệ tiên tiến người ta có thể đo nhiệt độ trên những hành tinh xa, phát hiện dấu vết của nước trong khí quyển của chúng và thậm chí những dấu hiệu đầu tiên của sự sống ngoài trái đất. Những hành tinh có kích thước của trái đất cũng được phát hiện với số lượng hàng chục và dường như chúng có thể dung nạp sự sống, ở đấy nhiệt độ thích hợp cho sự hình thành nước cần thiết cho sự sống. Những điều này càng đưa câu hỏi về sự sống ngoài trái đất lên một bình diện mới. Song phát hiện sự sống đó không phải là một việc dễ dàng. Cần một thế hệ mới những kính viễn vọng có khả năng ghi đo được những phân tử cần cho sự sống – như oxygen, ozone, methane, nước, carbon dioxide- trong khí quyển của những hành tinh xa xôi. Thậm chí khi ghi đo được các phân tử đó chúng ta cũng khó lòng hình dung được dạng sống ở đấy là như thế nào.

Trái đất trong Thái dương hệ là hành tinh duy nhất với các đại dương và các điều kiện khác cho sự sống. Tuy nhiên là quá tự tôn nếu cho rằng sự sống trên trái đất là duy nhất trong vũ trụ khi tồn tại hàng tỷ mặt trời khác với nhiều chất liệu cần cho sự sống trong vũ trụ. Có thể tồn tại sự sống nói chung song sự sống có trí tuệ lại là một vấn đề khác. Cần phát hiện ít nhất một ví dụ của sự sống nơi khác ngoài trái đất để hiểu dạng sống đó là gì và thấy được rằng sự sống trên trái đất không phải là duy nhất trong vũ trụ.                                                                            

4/ Liệu có thể thống nhất lượng tử với hấp dẫn?

Một vấn đề lớn của vật lý học là thống nhất lý thuyết lượng tử với lý thuyết hấp dẫn thành hấp dẫn lượng tử QG (Quantum Gravity).

QG phải cho chúng ta biết vật chất lượng tử chịu hấp dẫn như thế nào khi trường hấp dẫn là mạnh. Nếu trường hấp dẫn yếu thì chúng ta có thể thực hiện lượng tử hóa như đối với các tương tác khác. QG sẽ cho chúng ta biết điều gì đã xảy ra khi vũ trụ sơ sinh. Theo lý thuyết tương đối tổng quát thì vũ trụ xuất phát từ một điểm kỳ dị. Điều này không phù hợp với ý nghĩa vật lý do đó chúng ta phải tìm một mô tả khác đối với không thời gian ở những thời điểm này. Bởi vì hấp dẫn là mạnh lúc vũ trụ sơ sinh cho nên những hiệu ứng lượng tử không thể bỏ qua được đối với pha này.

GR cũng tiên đoán những điểm kỳ dị. Khi vật chất co lại thành lỗ đen dẫn đến nghịch lý mất thông tin. Lỗ đen có bức xạ nhiệt vì những hiệu ứng lượng tử không bao gồm hiệu ứng hấp dẫn lượng tử. Nhưng khi lỗ đen bốc hơi hoàn toàn điều gì còn lại là bức xạ nhiệt. Thông tin dường như bị mất trong quá trình không thuận nghịch này. Hiện nay nghịch lý này đã được làm sáng tỏ phần nào nhờ đối ngẫu AdS/CFT, xem chú thích [2] song nhiều vấn đề vẫn còn tồn tại.

Các nhà vật lý đã xây dựng nhiều lý thuyết QG: lý thuyết dây, LQG (Loop quantum Gravity-lý thuyết hấp dẫn lượng tử vòng), CDT (Causal Dynamical Triangulation-phủ không thời gian bằng một lưới tam giác nhân quả) và ASG (Asymptotically Safe Gravity-khử phân kỳ trong hấp dẫn)... Hiện nay lý thuyết dây là được đánh giá cao tiếp theo là lý thuyết hấp dẫn lượng tử vòng. Xây dựng các lý thuyết này tương tự như xây dựng một đường hầm chưa nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm, chỉ thỉnh thoảng lóe lên một vài kết quả đơn lẻ.

Có thể nói chưa có một đột phá nào thành công trong việc thống nhất lượng tử và hấp dẫn, đây là điều mà chúng ta học được qua bao nhiêu năm. Chỉ vài khía cạnh của QG xuất hiện. Một trong các khía cạnh đó là ý tưởng về phương pháp toàn ảnh (holography): mã hóa thông tin trong một thể tích trên biên của thể tích đó (đối ngẫu AdS/CFT). Một khía cạnh khác là ý tưởng về đưa một độ dài cơ bản vào lý thuyết.

Nói chung còn nhiều cách trở trước mắt. Chúng ta không phải xây dựng một QG với những khía cạnh nào đó mà phải xây dựng một QG duy nhất mô tả đúng thực tại.

Bởi vì hấp dẫn về bản chất là hệ quả của sự làm cong không thời gian vì vật chất cho nên vấn đề cơ bản là phải đi sâu vào bản chất lượng tử của chính không thời gian. Đây là câu hỏi cơ bản nhất trong những câu hỏi chưa có câu trả lời với ý nghĩa là câu hỏi này động chạm đến những thành phần cơ bản nhất của mọi lý thuyết.

Cần phải có cuộc cách mạng trong nhận thức không thời gian. Bản chất của thời gian mũi tên thời gian là vấn đề gắn liền với QG trong thời sơ sinh của vũ trụ. Nhiều người nghĩ rằng ta đang có đủ điều kiện để tiến đến xây dựng QG trong một tương lai tuy nhiên không gần.

5/ Có thể chăng khai thác hiện tượng liên đới lượng tử (quantum entanglement-một trong những điểm kỳ lạ của cơ học lượng tử)?

Cơ học lượng tử đã có tuổi hơn một thế kỷ, song các nhà khoa học vẫn còn ngỡ ngàng và mê hoặc bởi những điều kỳ lạ của thế giới lượng tử. Nếu cơ học cổ điển phù hợp dễ dàng với trực giác thì lý thuyết lượng tử lại thách thức trực giác của chúng ta.Trong thế kỷ 21 người ta hy vọng rằng chế ngự những điểm kỳ lạ của CHLT sẽ giúp chúng ta chế tạo những máy tính lượng tử với khả năng vô biên.


Cơ học lượng tử nói rằng các hạt có thể tồn tại trong trạng thái chồng chất (như ở nơi này đồng thời ở nơi khác) còn Thuyết tương đối rộng nói rằng hạt có trường hấp dẫn. Song trường hấp dẫn của một chồng chất lượng tử là gì? Câu hỏi này trông đơn giản nhưng hiện nay chúng ta chưa trả lời được. Cần phải xây dựng Hấp dẫn lượng tử.

Để thấy sự khác nhau giữa cổ điển và lượng tử hãy xét đến quá trình mã hóa các thông tin bởi những hệ vật lý.Trong lượng tử người ta sử dụng “qubit-tức là bit lượng tử) để mã hóa. Một qubit chính là một hệ lượng tử với hai trạng thái phân biệt lẫn nhau ví dụ  dùng spin của một electron. Song để thấy sự khác nhau giữa bit và qubit cần phải nói đến vấn đề liên đới lượng tử (quantum entanglement).

Bước cơ bản trong tính toán lượng tử là phép toán unita U trên trạng thái chồng chất L-qubit. Phép toán U được thực hiện song song đối với tất cả 2L biên độ phức .Trong máy tính cổ điển một phép toán như vậy đòi hỏi 2L bước tính cơ bản cho mỗi  biên độ.

Chính tính chất song song lượng tử này trong các máy tính lượng tử dẫn đến một gia tốc hàm mũ cho quá trình tính toán. Đây là ưu thế tuyệt đối của máy tính lượng tử so với máy tính cổ điển thông dụng hiện nay.

Một đặc tính của các trạng thái lượng tử, khác biệt với các trạng thái cổ điển là hiện tượng liên đới lượng tử, theo đó sự tương tác giữa các qubit làm phát sinh một sự chồng chất liên kết (giao thoa) các trạng thái lượng tử. Sự chồng chất này không thể đưa về tích của các qubit riêng lẻ. Ví dụ đối với 2 qubit, ta không có biểu thức:
Ψ ≠  Ψ1 ⊗ Ψ2 

mà có những biểu thức như sau:
 | β00> =( 1/ √2 ) [| 00 > +| 11 >]                                                                      
 | β02> =( 1/ √2 ) [| 01 > +| 10 >]                                                                       
 | β10> =( 1/ √2 ) [| 00 > - | 11 >]
 | β11> =( 1/ √2 ) [| 01 > - | 10 >]

Các trạng thái | bmn> gọi là các trạng thái Bell, hoặc trạng thái EPR hoặc cặp EPR, đặt theo chữ cái đầu tiên của tên các tác giả Einstein, Podolsky & Rosen là những người đầu tiên phát hiện ra các tính chất kỳ lạ của những trạng thái đó.

Hiện tượng liên đới lượng tử đặc biệt lý thú khi xét hệ nhiều thành phần. Ví dụ lấy một cuốn sách 100 trang. Nếu cuốn sách là một hệ cổ điển thì khi đọc một trang ta có thể tiếp nhận 1% nội dung cuốn sách nhưng nếu cuốn sách là một hệ lượng tử có liên đới thì khi đọc một trang chúng ta nhận được một điều gì đó hỗn độn chưa phản ánh được nội dung cuốn sách. Nguyên nhân là vì thông tin không nằm trong từng trang riêng lẻ mà nằm trong mối liên đới giữa các trang.

Nếu chế tạo một máy tính lượng tử ta có thể thực hiện một quá trình mã hóa nhiều lần nhanh hơn với một máy tính cổ điển.

Song một trở ngại chúng ta gặp phải là vấn đề mất liên kết (decoherence-xem chú thích [3]). Trong một máy tính cổ điển một lỗi xảy ra khi sự tương tác với môi trường chung quanh làm đảo một bit. Trong máy tính lượng tử điều này gây rắc rối nhiều hơn, thông tin trong máy phải được loại bỏ khỏi hệ quả tương tác với môi trường đến khi máy tính hoàn thành công việc.

Làm sao để chống lại hiện tượng decoherence. Người ta lại sử dụng chính ngay hiện tượng liên đới lượng tử. Phương pháp hữu hiệu nhất là mã hóa thông tin trong những trạng thái liên đới lượng tử. Trạng thái lưu trữ trong máy giống như một cuốn sách lượng tử nói ở trên. Môi trường tác động lên một trang không nhiễu loạn nội dung thông tin của cuốn sách bởi vì thông tin tiềm ẩn không phải trong một trang cuốn sách mà trong mối liên đới giữa các trang. Nguyên tắc này gọi là nguyên tắc sửa chữa lỗi lượng tử (quantum error correction) sẽ là nguyên tắc hướng dẫn chế tạo phần mềm và phần cứng các máy tính lượng tử.

Ngày nay các nhà khoa học và các nhà công nghệ đang may mắn ở vào thời đoạn đột sinh của công nghệ lượng tử. Chế ngự những tính chất kỳ lạ của lượng tử, chế ngự hiện tượng liên đới lượng tử sẽ dẫn họ đi xa.
       
CC.  biên dịch và chú thích
Nguồn: Tia Sáng
http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=111&CategoryID=2&News=7372

Tài liệu tham khảo và chú thích:
[1] Physics World tháng 10/2013, số báo kỷ niệm 25 năm của tạp chí.
[2] Năm1993 Gerard ‘t Hooft đề ra nguyên lý holographic còn gọi là ánh xạ hay đối ngẫu AdS/CFT (Anti-de-Sitter/Conformal Field Theory-Lý thuyết trường conform) và được Maldacena thực hiện năm 1997: theo nguyên lý này tồn tại một vật lý n chiều trên mặt biên (ở đây là một lý thuyết CFT trong không gian n= 4 chiều) mô tả được hoàn toàn vật lý (n+1) chiều của hệ nằm trong mặt biên (ở đây là  không gian AdS với n= 5  chiều).  
[3] Trong cơ học lượng tử sự mất liên kết (quantum decoherence) là sự mất trật tự của các góc pha giữa những thành phần của một hệ nằm trong trạng thái chồng chất.

 

Cập nhật ( 11/11/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Bất kỳ người lãnh đạo nào, nếu không học tập nổi những việc thiết thực, những người thiết thực và những bộ phận thiết thực của cấp dưới, để rút kinh nghiệm, thì nhất định không biết chỉ đạo chung cho tất cả các bộ phận.”

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com