Kinh tế tri thức và chỉ số kinh tế tri thức
Còn Ngân hàng thế giới (WB) thì nhấn mạnh, KTTT sẽ ngày càng trở thành xu hướng lớn của thế giới, với những đặc trưng chủ yếu là:
(1) Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ý tưởng đổi mới và phát triển công nghệ mới trở thành chìa khóa để tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, dịch chuyển cơ cấu nhanh.
(2) Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) được tiến hành rộng rãi trong mọi lĩnh vực, mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp, kết nối hầu hết các tổ chức gia đình. Thông tin trở thành nguồn tài nguyên quan trọng. Mọi lĩnh vực hoạt động xã hội đều có tác động của CNTT.
(3) Sản xuất công nghệ (sản xuất ra các ý tưởng, phát minh, sáng chế, bí quyết, kỹ năng, phương pháp tổ chức...) trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai.
(4) Xã hội học tập, giáo dục phát triển, đầu tư cho khoa học, giáo dục chiếm tỷ lệ cao. Đầu tư vô hình (con người, giáo dục, khoa học) cao hơn đầu tư hữu hình (cơ sở vật chất). Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Hệ thống giáo dục phải bảo đảm cho mọi người có thể học tập ở bất cứ lúc nào. Mạng thông tin có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm cho việc học tập suốt đời.
(5) Tri thức trở thành vốn quý nhất trong KTTT. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Tri thức và thông tin là nguồn lực vô hạn và tăng lên khi sử dụng.
(6) Sáng tạo là linh hồn của đổi mới, sáng tạo là vô tận. Đổi mới thường xuyên là động lực thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp không còn ở quy mô, thị phần, mà ở công nghệ. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm.
(7) Dân chủ hóa các hoạt động và tổ chức điều hành xã hội; thông tin thúc đẩy sự dân chủ hóa đời sống kinh tế xã hội. Mọi người đều dễ dàng truy cập thông tin mình cần; được thông tin kịp thời về các chính sách của nhà nước, các tổ chức và có ý kiến ngay khi thấy không phù hợp.
(8) Các doanh nghiệp vừa hợp tác, vừa cạnh tranh để phát triển. Tái cấu trúc lại các doanh nghiệp trở thành thường xuyên và phổ biến.
(9)Thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu.
(10) Văn hoá trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nội dung và hình thức các hoạt động văn hoá phong phú, đa dạng. Nhu cầu thưởng thức của người dân cũng tăng cao, giao lưu văn hóa thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền văn hóa giao thoa để tiếp thu các tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tuy nhiên, các nền văn hóa cũng đứng trước nguy cơ rủi ro cao, dễ bị pha tạp, lai căng, dễ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc.
Cũng theo WB, một quốc gia muốn chuyển sang KTTT cần hình thành 4 trụ cột chính. Đó là:
(1) Môi trường kinh tế và thể chế xã hội theo luật, thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức, cho phép dòng chảy tự do của tri thức, hỗ trợ CNTT và truyền thông, khuyến khích việc làm chủ doanh nghiệp như trọng tâm của KTTT.
(2) Hệ thống giáo dục và đào tạo có chất lượng cao để người dân được giáo dục và đào tạo, nâng cao năng lực sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức, nguồn nhân lực tri thức.
(3) Hệ thống đổi mới với mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia, cố vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước, và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết.
(4) Hạ tầng cơ sở thông tin hiện đại. Một cơ sở thông tin động, từ radio đến internet, là cần thiết để cho phép dễ dàng liên lạc, phổ biến và xử lý thông tin.
Để đánh giá mức độ phát triển KTTT của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ, WB sử dụng Chỉ số Kinh tế tri thức (Knowledge Economy Index- KEI). Đây là một chỉ số tổng hợp đại diện cho mức độ tổng thể của sự phát triển của một quốc gia hoặc khu vực trong nền KTTT. Nó tổng hợp năng lực trong 4 trụ cột của KTTT và được xây dựng thành một Bảng điểm cơ bản, là trung bình đơn giản của các giá trị/biến số được chuẩn hoá; gồm: tăng trưởng GDP hàng năm; chỉ số phát triển con người; tỷ lệ người biết chữ, các hàng rào thuế quan và phi thuế quan; trình độ điều hành quản lý; luật pháp; sở hữu trí tuệ; chi tiêu cho nghiên cứu và phát triển trên GDP; số bài báo khoa học, sáng chế được cấp; số máy tính và số điện thoại trên 1.000 dân... Tổng cộng có 81 chỉ tiêu được đưa ra so sánh trong tương quan 132 quốc gia, với điểm số từ 0 (yếu nhất) đến 10 (mạnh nhất).
Theo chỉ số KEI, năm 2006, Việt Nam đạt 3,17 điểm, xếp hạng 96/132 nước; năm 2008, đạt 3,02, xếp hạng 102/133 nước. Năm 2009, KEI của Việt Nam đạt 3,52, đứng thứ 100; Việt Nam mới chỉ ở bước khởi động, đang xây dựng và hình thành những điều kiện, tiền đề cần thiết cho phát triển KTTT.
Chủ động phát triển các trụ cột kinh tế tri thức
Hà Nội có nhiều lợi thế hơn các địa phương khác về xây dựng các trụ cột của KTTT, nhất là về giáo dục và đào tạo, mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia cố vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng; hạ tầng CNTT.
Thủ đô hiện tập trung các cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ (KHCN) hàng đầu, hơn 70% cán bộ khoa học đầu ngành và hơn 50% cán bộ khoa học có trình độ sau đại học của cả nước.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo là hơn 33%. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ngày càng phát triển đồng bộ, hiện đại. 100% các cơ sở nghiên cứu, học tập, doanh nghiệp và cơ quan kết nối internet.
Hà Nội đã thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với gần 100 thủ đô, thành phố của 50 nước và vùng lãnh thổ và là một trong ba địa phương đứng đầu cả nước về năng lực hội nhập kinh tế quốc tế.
Năm 2012 so với năm 2008, số cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ thông tin truyền thông tăng hơn 1,7 lần và doanh thu dịch vụ một trong 4 trụ cột phát triển KTTT này tăng gấp 9 lần. Năm 2012, Hà Nội đóng góp 10,06 % GDP, 9% kim ngạch xuất khẩu; 13,5% giá trị sản xuất công nghiệp; 23,5% vốn đầu tư phát triển; 19,73 % thu ngân sách và 23,5 % tổng vốn đầu tư xã hội của cả nước.
Sự chuyển hướng từ phát triển kinh tế ưu tiên công nghiệp sang ưu tiên khu vực dịch vụ, nhất là các dịch vụ trình độ cao, chất lượng cao, coi trọng chất lượng phát triển, xây dựng kinh tế tri thức và phát triển bền vững được chính thức ghi vào nghị quyết Đại hội XIII (2006-2010) và XIV (2011-2015) Đảng bộ thành phố Hà Nội.
Với tinh thần đó, Hà Nội đặt trọng tâm vào thúc đẩy tái cấu trúc kinh tế, từng bước hình thành các trụ cột KTTT trên địa bàn Thủ đô theo hướng tăng cường các ngành, sản phẩm ưu tiên, có hàm lượng công nghệ cao, chế biến sâu và giá trị gia tăng lớn, sử dụng công nghệ tiên tiến, tiết kiệm nănglượng; phát triển công nghiệp phụ trợ, các ngành công nghiệp chủ lực, ưu tiên phát triển các ngành tạo ra sản phẩm có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, các ngành có lợi thế cạnh tranh, có thương hiệu, như: điện tử, công nghệ thông tin; cơ khí; chế biến thực phẩm, dược phẩm, sản phẩm vật liệu mới, tập trung vào các ngành công nghệ cao, kỹ thuật cao trụ cột KTTT (như công nghệ sinh học, vật liệu mới, viễn thông và CNTT....); tập trung phát triển một số khu công nghiệp công nghệ cao, các cơ sở nghiên cứu-triển khai và ứng dụng công nghệ mới, mũi nhọn. Năm 2013, Hà Nội đã khai trương thêm hai khu công nghiệp mới là Khu công viên Công nghệ thông tin Hà Nội (36 ha) và Khu công nghiệp hỗ trợ Nam Hà Nội (72 ha); đã xây dựng 107 cụm công nghiệp với tổng diện tích 3.192 ha, tăng 5 cụm và tăng 2,8% về diện tích so với năm 2008.
Thành phố quan tâm chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành theo cơ chế “một cửa” và thực hiện “một cửa liên thông”; đẩy mạnh công tác thanh tra công vụ; xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp một cách có chọn lọc theo hướng tập trung thu hút các dự án thuộc ngành công nghiệp có tỷ trọng tri thức, hàm lượng công nghệ cao, công nghiệp sạch hoặc không độc hại có quy mô đầu tư lớn; khuyến khích đặc biệt các dự án sử dụng công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển; không cấp phép các dự án sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, ảnh hưởng tới môi trường. Hà Nội đã tích cực ủng hộ chủ trương thành lập Khu CNC Hòa Lạc ở Hà Nội, nằm trong khu vực các trường Đại học và Viện nghiên cứu đào tạo hàng đầu của Việt Nam - nơi tập trung trên 60% năng lực KH&CN của cả nước. Đến nay, Thành phố đã chủ động bố trí tạm ứng hơn 2.000 tỷ đồng hỗ trợ giải phóng mặt bằng để thúc đẩy tiến độ triển khai dự án này.
Thủ đô đã chủ động ban hành nhiều văn bản, chính sách đi trước cả nước đối với hoạt động KHCN, như cơ chế khoán gọn đến sản phẩm cuối cùng; áp dụng cơ chế Quỹ phát triển KHCN để cấp phép tài trợ các đề tài, dự án; tăng cường phối hợp với các đơn vị lên kế hoạch đặt hàng triển khai các đề tài để đảm bảo tạo ra hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Hà Nội cũng là địa phương đi đầu cả nước trong chủ trương duy trì 2% ngân sách cho KHCN, hướng tới năm 2020 sẽ dành cho hoạt động này 2,5% GDP. Từ năm 2008 – 2013, Hà Nội đã triển khai được 616 đề tài nghiên cứu KHCN; 56 dự án sản xuất thử nghiệm; thẩm định công nghệ 138 dự án đầu tư; có 377 tổ chức khoa học và công nghệ được cấp giấy chứng nhận hoạt động thuộc các loại hình sở hữu khác nhau. 11 doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã được cấp giấy chứng nhận theo Nghị định 80 của Chính phủ; 53 hợp đồng chuyển giao công nghệ, hợp đồng trợ giúp kỹ thuật đã được thực hiện. Hà Nội hiện có 57 sản phẩm công nghiệp chủ lực của 48 doanh nghiệp thuộc các ngành cơ khí - điện tử, hóa nhựa, dệt may - da giầy, chế biến lương thực, thực phẩm…; 100% giống lúa được cấp I hóa; 100% diện tích ngô được gieo trồng bằng giống lai; 75% là lợn ngoại và lợn hướng nạc; 70% đàn bò là lai sin; đã hình thành một số vùng chuyên canh sản xuất hoa, cây cảnh, cây ăn quả đặc sản hàng hoá tập trung với năng suất và giá trị thu nhập cao nhờ ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
Đặc biệt, theo tinh thần Luật Thủ đô, Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội Khóa XIV, Kỳ họp thứ 7 đã ban hành Nghị Quyết số 04/2013/NQ-HĐND ngày 12 tháng 7 năm 2013 về chính sách ưu đãi đối với tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển khoa học và công nghệ và các nhà khoa học và công nghệ tham gia thực hiện chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm của Thủ đô.
Theo đó, Thành phố giành những ưu đãi cao nhất theo các quy định hiện hành của Chính phủ ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào Khu Công nghệ cao, đồng thời, bổ sung nhiều ưu đãi mới về cho vay tín dụng lãi suất thấp, hỗ trợ kinh phí triển khai từ các nguồn tài chính của Thành phố và về điều kiện đất đai cho các khu đào tạo, khu nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ cao, khu ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; trung tâm xúc tiến thương mại các kết quả nghiên cứu; các dự án đầu tư về khoa học và công nghệ thuộc danh mục lĩnh vực ngành nghề đặc biệt nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng, bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng…
Thành phố sẽ quan tâm đãi ngộ nhà khoa học trên 3 phương diện: môi trường nghiên cứu, sáng tạo; thu nhập và điều kiện sống và sự tôn vinh; bảo đảm quyền tự do sáng tạo, phát huy dân chủ, đề cao đạo đức nghề nghiệp, trung thực, khách quan, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động KHCN; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, KHCN; phát triển thị trường KHCN; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động KHCN, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ; tạo điều kiện để các hội khoa học và kỹ thuật, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội và tiến hành các hoạt động KHCN.
Trên cơ sở hợp tác chặt chẽ với các cơ quan T.Ư đóng trên địa bàn Thủ đô, Thành phố chủ trương đẩy mạnh nghiên cứu phát triển hệ thống thông tin, kể cả các "siêu thị thông tin"; tổ chức các hội nghị thường kỳ và đột xuất; các nhóm, phòng và trung tâm nghiên cứu KHCN trọng điểm, khai thác và kết hợp các nguồn lực trên địa bàn, cả nước và trên thế giới, trong đó có các nguồn lực Việt Kiều cho phát triển KTTT; nghiên cứu tham gia vào một số sản phẩm quốc gia mà Bộ KH&CN đang và sẽ triển khai…
Ngoài ra, Hà Nội còn quan tâm khuyến khích mở rộng hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các doanh nghiệp; tăng cường liên kết giữa nhà nước, các tổ chức KH&CN, các trường đại học, viện nghiên cứu và các doanh nghiệp để tăng gắn bó hữu cơ giữa R&D với sản xuất.
Hy vọng Hà Nội sẽ có nhiều nỗ lực mạnh mẽ, toàn diện hơn trong phát triển KTTT theo chiều sâu và bền vững...
TS.NGUYỄN MINH PHONG (theo nhandan.com.vn)