Tuần -13 - Ngày 02/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Phát triển bền vững
Đối phó và thích ứng với biến đổi khí hậu - Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
20/06/2013

Gần ba thập kỷ thực hiện công cuộc đổi mới Việt Nam đã đạt được những tiến bộ vượt bậc: mức đói nghèo giảm mạnh, các chỉ số phát triển xã hội được nâng cao, hầu hết mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) đều đạt. Nhưng, biến đổi khí hậu vẫn là mối đe dọa thực sự đối với những thành tựu phát triển của đất nước. Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm xây dựng chiến lược quốc gia nhằm chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Mới đây, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XI, vấn đề này lại tiếp tục được quan tâm sâu sắc hơn.

Biến đổi khí hậu và những hệ lụy 


Tháng 6-1992, tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển (thường gọi là Hội nghị Thượng đỉnh) tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin), 155 quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã ký Công ước Khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu. Theo Công ước này, biến đổi khí hậu được định nghĩa là: “những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người”.

Mục tiêu của Công ước được xác định: “ổn định các nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống khí hậu”. Nghị định thư Ky-o-to chính là văn bản pháp lý để thực hiện Công ước khung về Biến đổi khí hậu và có hiệu lực từ ngày 16-2-2005 với sự phê chuẩn của Nga (tháng 10-2004). Nghị định này đưa ra chỉ tiêu giảm phát thải khí nhà kính có tính ràng buộc pháp lý. Các nước phát triển phải có cơ chế giúp các nước đang phát triển đạt được sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững thông qua thực hiện "Cơ chế phát triển sạch"(CDM). 

Biến đổi khí hậu với các biểu hiện chủ yếu như: 1- Sự nóng lên của khí quyển và trái đất ; 2- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại tới môi trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất; 3- Mực nước biển dâng cao do băng tan, dẫn tới sự ngập úng ở các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển; 4- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và con người; 5- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác; 6- Sự khai thác các yếu tố có lợi của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thủy quyển, sinh quyển, các địa quyển… 

Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển ven bờ và đất liền, sự khai thác, tàn phá quá mức nguồn tài nguyên và những tác động không mong muốn khác mà con người không kiểm soát được. 

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng đối với Việt Nam

Việt Nam nằm trong tốp 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu. Nếu mực nước biển tăng 1m, Việt Nam sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông nghiệp và 10% thu nhập quốc nội (GDP). Nước biển dâng ở mức 3 - 5m, đồng nghĩa với thảm họa có thể xảy ra. Vì vậy, phải xây dựng kịch bản thích ứng và đối phó chi tiết với vấn đề biến dổi khí hậu và nước biển dâng, để từ đó đưa ra các chính sách, chương trình hành động đúng, phù hợp. 

Các tác động ban đầu của biến đổi khí hậu ở nước ta có thể nhận thấy qua những thay đổi về khí hậu theo mùa ở các vùng miền khác nhau; lượng mưa và mùa mưa thay đổi. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ước tính, mực nước biển ở Việt Nam có thể dâng thêm 33,3cm vào năm 2050 và dâng 45cm vào năm 2070. Thách thức và nguy cơ của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với chúng ta là: 

Thứ nhất, nguy cơ thiếu nước ngọt và xâm nhập mặn. Việt Nam có hai vùng châu thổ rộng lớn là châu thổ sông Hồng, diện tích 17.000km2 và châu thổ sông Cửu Long (Mê Kông), diện tích gần 35.000km2. Châu thổ sông Cửu Long là vùng chịu ảnh hưởng mạnh nhất của chế độ thủy triều từ biển truyền vào vùng hạ lưu qua những con sông và kênh rạch chằng chịt như: sông Tiền, sông Hậu hoặc như Gành Hào, Bồ Đề… Thủy triều từ vịnh Thái Lan qua các sông Cái Lớn, Bảy Háp, Đông Cung, Ông Đốc, Cửa Lớn… Sự xâm nhập mặn do triều Biển Tây ít hơn so với triều Biển Đông. Hậu quả của quá trình xâm nhập mặn sâu là gây hạn trên phạm vi ngày càng rộng hơn, nhất là vụ lúa đông xuân bởi không thể lấy nước nhiễm mặn ở kênh rạch để tưới. Nước mặn tràn lên sẽ làm chết hàng loạt cây cối trên những cánh đồng rộng lớn. Ngay cả khi độ mặn thấp hơn 1% cũng làm giảm năng suất cây trồng và thủy sản nước ngọt. Ngoài ra, sự xâm nhập mặn còn gây ra vấn nạn thiếu nước sạch sinh hoạt ở các vùng dân cư. 

Khô hạn kéo dài, mưa ít thì xâm nhập mặn càng sâu hơn. Chẳng hạn, vào năm 2005, trên sông Tiền, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên mức độ xâm nhập mặn đã tiến sâu vào tới 60 - 80 km ; tuyến sông Hậu 60 - 70km. Ở các sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông xâm nhập sâu tới 120 - 140km gây thiệt hại rất lớn. Tỉnh Long An, thiệt hại 16 tỷ đồng; hơn 14.000ha mía giảm năng suất từ 5 - 10%; hơn 1.000ha lúa ở huyện Đức Hòa đã chết trắng, do bị nhiễm mặn. Tỉnh Sóc Trăng thiệt hại 46 tỷ đồng. Tỉnh Hậu Giang 9.000 ha bị xâm nhập mặn, thiệt hại 11,4 tỷ đồng... 

Thứ hai, bão và nước dâng do bão. Những năm gần đây do biến đổi khí hậu, thời tiết có những diễn biến thất thường nên thiên tai xảy ra dồn dập với cường độ ngày càng cao hơn. Nhiều trận bão tàn phá nặng nề, gây thương vong người, phá hoại nhà cửa, thuyền bè và cướp trắng mùa màng, phá hủy hàng nghìn ki-lô-mét đê sông, đê biển, đường bờ biển cũng bị hạ thấp nhanh chóng, nước dâng cao và xâm nhập mặn càng sâu hơn. Trong thời gian 30 năm qua, người ta ghi nhận được có một nửa trong tổng số các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam đã làm dâng cao mực nước trên 1m và có 11% số cơn bão làm dâng cao mực nước biển trên 2m.

Thứ ba, nguy cơ xói lở. Hầu hết bờ biển nước ta đang bị xói lở với cường độ từ vài mét tới hàng chục mét mỗi năm và có xu hướng gia tăng mạnh trong một thập niên gần đây. Bờ biển nước ta chỉ có 2.800km đê biển, trong đó có 1.400 km đê trực tiếp với biển và khoảng 1.400km đê cửa sông. Hệ thống đê hầu hết được đắp bằng đất theo phương pháp thủ công để lấn biến, ngăn mặn, phần lớn đã xuống cấp. Nếu vì lý do nào đó mà các con đê bị vỡ thì ruộng đồng sẽ bị nước biển làm cho nhiễm mặn không thể gieo trồng được trong nhiều năm. Trên các tuyến đê biển của miền Bắc trong 5 năm qua đã có tới 165 vị trí sạt lở tổng cộng tới 252km, đe dọa trực tiếp đến an toàn các khu vực thành phố, thị xã và khu tập trung dân cư... Ngập úng ở vùng châu thổ diện rộng vào mùa mưa lũ, các dòng sông gia tăng cường độ xâm thực ngang, gây sạt lở lớn ở các vùng ven bờ trên nhiều khu vực từ Bắc vào Nam. Ở các vùng ven biển đã thấy rõ hiện tượng vùng ngập triều cửa sông mở rộng hình phễu trên diện rộng, nhất là ở hạ du các hệ thống sông nghèo phù sa như các hệ thống sông Thái Bình, Bạch Đằng, ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh và hệ thống sông Đồng Nai ở vùng ven biển Bà Rịa - Vũng Tàu và Thành phố Hồ Chí Minh. Bờ biển miền Trung từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận cũng đang bị sóng biển xâm thực khá mạnh, nhiều khu vực tốc độ sạt lở bờ biển từ 15-30m/năm. 

Thứ tư, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy, hải sản và du lịch suy giảm. Các vùng ven biển Việt Nam có số dân khoảng 18 triệu người, chiếm gần 1/4 dân số cả nước, trong đó diện tích đất sử dụng chiếm 16% tổng diện tích cả nước. 58% số dân vùng ven biển chủ yếu sống dựa và nông nghiệp và đánh bắt thủy sản, khoảng 480.000 người trực tiếp làm nghề đánh bắt hải sản, 10.000 người chế biến và 2.140.000 người cung cấp các dịch vụ liên quan đến nghề cá. Biến đổi khí hậu sẽ gây đe dọa ở nhiều cấp độ, nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đặc biệt, hầu hết nông dân Việt Nam có rất ít đất canh tác, đặc biệt là nông dân vùng ven biển. Vì vậy, việc mất đi một phần rất lớn quỹ đất trồng do biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, cùng quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa sẽ đặt Việt Nam trước một thách thức rất nghiêm trọng. 

Thứ năm là, sự tổn hại về đa dạng sinh học và hệ sinh thái. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới đối với các sinh cảnh tự nhiên quan trọng ở Việt Nam dựa trên những kịch bản nước biển dâng, cứ 1m nước biển dâng lên có thể ảnh hưởng tới 27% sinh cảnh tự nhiên, trong đó 33% ở khu bảo tồn, 23% các vùng có đa dạng sinh học chủ chốt. Những tác động tiềm tàng này đang tăng lên từ 1/4 đến 1/3 tất cả các vùng sinh cảnh tự nhiên then chốt ở Việt Nam. Những khu vực này phần lớn là các khu bảo tồn và đề nghị bảo tồn hiện nay của Việt Nam, thường tập trung trên các đảo và khu vực bờ biển. Rõ ràng là đa dạng sinh học Việt nam đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng khi nước biển dâng. 

Ngoài những ảnh hưởng xấu vừa nêu, biến đổi khí hậu - nước biển dâng cao sẽ nhấn chìm và phá hủy kết cấu hạ tầng và tài nguyên du lịch, từ đó làm giảm lượng khách và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của hàng triệu người, trong đó đa phần là người nghèo. 

Thứ sáu là, sự phá hủy các công trình giao thông và kết cấu hạ tầng. Theo IPCC (Công ước khung về biến đổi khí hậu), do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, khả năng mực nước biển sẽ dâng cao 1m vào cuối thế kỷ XXI, hệ quả là hằng năm Việt Nam có 40.000km2 vùng ven biển sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề, trong đó có 90% thuộc Đồng bằng sông Cửu Long bị ngập hoàn toàn, thiệt hại về tài sản có thể lên tới 17 tỷ USD.

Tại 24 tỉnh, thành phố vùng duyên hải nước ta có 266 cảng biển lớn, nhỏ; lại là nước có nhiều tiềm năng về dầu khí trong khu vực. Nước biển dâng cao kèm theo mưa bão lớn sẽ đe dọa tàn phá các kết cấu hạ tầng quan trọng, gây ngập lụt các tuyến đường sắt ở vùng duyên hải, sân bay, phá hủy cầu cống và hệ thống ống dẫn cùng nhiều công trình kết câu hạ tầng giao thông khác. 

Thứ bảy là, ô nhiễm nguồn nước sạch và suy thoái môi trường. Mực nước biển dâng còn ảnh hưởng trực tiếp đến đến nguồn nước sạch và vệ sinh môi trường. Do ngập lụt trong thời gian dài, các loại phân bón, thuốc trừ sâu, chất thải từ các nhà vệ sinh, chuồng trại chăn nuôi, các chất thải khác… bị rửa trôi, xuống hồ ao, sông suối trôi nổi khắp nơi, dịch bệnh dễ xảy ra và khó kiểm soát, sức khỏe của người dân sẽ bị đe dọa nghiêm trọng. Các công trình cấp nước sạch tập trung bị hư hỏng hoặc do nguồn nước cấp bị ô nhiễm gây khó khăn cho việc xử lý nước, cung cấp nước sạch cho nhân dân.

Giải pháp thích ứng với sự biến đổi khí hậu và nước biển dâng ở Việt Nam

Thích ứng và giảm nhẹ tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra đã trở thành vấn đề cấp bách của toàn cầu đòi hỏi sự tham gia của tất cả cộng đồng thế giới. Hiệp định Khung Quốc tế về Thay đổi Khí hậu (UNFCCC) đang phải hỗ trợ cho Chương trình hành động Thích ứng của tất cả các quốc gia từ các ưu tiên thích ứng với tình trạng nước biển dâng đến việc quy hoạch phân bố dân cư và kết cấu hạ tầng ở các nước đang phát triển.

Chính phủ Việt Nam quan tâm sâu sắc đến vấn đề khí hậu và nước biển dâng nên đã ký phê chuẩn Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và trở thành một bên của Công ước từ năm 2005. Tuy không thuộc các nước phải tuân thủ lộ trình cắt giảm phát thải khí nhà kính, song Việt Nam vẫn chủ động xây dựng kế hoạch hành động phù hợp để tránh những tác động tiêu cực có thể xảy đến nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của quốc gia. Chống biến đổi khí hậu ở Việt Nam được lồng ghép vào Luật Bảo vệ môi trường, và các chương trình khác như: Chương trình nghị sự Agenda 21, Chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và ven biển, Kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học và biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020… 

Chính phủ đã ra Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP chỉ đạo các bộ, ngành liên quan xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, kêu gọi sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cho chương trình này. Chương trình đã xây dựng chính sách của quốc gia trong giảm nhẹ và thích ứng, lồng ghép vào các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở từng ngành từng địa phương và các cam kết quốc tế. 

Đúc rút kinh nghiệm của các nước và căn cứ vào thực tiễn, Việt Nam đã xây dựng và triển khai tích cực năm nhóm giải pháp chủ yếu:

Một là, nhóm giải pháp về chiến lược, chính sách gồm: xây dựng, bổ sung, sửa đổi các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức quản lý, tổ chức thực hiện Công ước về Biến đổi khí hậu, Nghị định thư Ky-o-to và Cơ chế Phát triển sạch (CDM). Biến đổi khí hậu được coi là vấn đề vừa có tính trước mắt, vừa có tính lâu dài, phức tạp và liên quan đến tất cả các ngành, trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Vì thế, việc xây dựng các chương trình quốc gia và công tác chỉ đạo thực hiện cần được nghiên cứu ở tất cả các cấp độ: các vùng, các lĩnh vực và trong tất cả các ngành, quan trọng nhất là năng lượng, giao thông, công nghiệp, nông lâm nghiệp, thủy sản, du lịch, tài nguyên và môi trường; ở tất cả các địa phương liên quan, nhất là các vùng đồng bằng ven biển. Quản lý tổng hợp vùng ven biển được coi là giải pháp thích ứng phù hợp để đối phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao. 

Các quy hoạch về phát triển vùng ven biển, các kế hoạch di dời, tái định cư phải được tính toán cẩn thận khi đối chiếu với mực nước biển dâng. Trong các quy hoạch chiến lược đê biển ứng phó với nước biển dâng, các quy hoạch nuôi trồng thuỷ hải sản cần phải xây dựng các mô hình thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu tuỳ theo từng khu vực. Quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên nước, điều hòa, chia sẻ và cân đối nguồn nước giữa các lưu vực, có kế hoạch phù hợp trong quản lý hoạt động của các hồ chứa nước ở thượng lưu nhằm điều tiết dòng chảy cho vùng hạ lưu, hạn chế xâm nhập mặn. Xây dựng và hoàn thiện các chính sách hỗ trợ cho vùng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là đối với người nghèo.

Hai là, nhóm giải pháp về khoa học và công nghệ nhằm đạt được các kết luận khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định các quy hoạch, chiến lược và chính sách cho sự phát triển bền vững. Thành lập các nhóm chuyên gia, các tổ chức, viện nghiên cứu, trường đại học, trung tâm nghiên cứu liên quan để thực hiện các nghiên cứu, dự án về biến đổi khí hậu; xây dựng các kịch bản biến đổi khí hậu tại Việt Nam; xây dựng, đánh giá các phương án giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và đề xuất các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu. Đầu tư cho các chương trình nghiên cứu và đánh giá tính tổn thương của các hệ sinh thái các vùng ven biển; xây dựng các kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam cho giai đoạn 2010 - 2020 kết nối với các chương trình quốc tế và tiếp nhận sự trợ giúp quốc tế. Hợp tác về chuyển giao công nghệ… Khai thác và ứng dụng công nghệ mới trong các lĩnh vực liên quan đến biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Quy hoạch lại đất đai, tài nguyên nước, xây dựng kết cấu hạ tầng tại các vùng nhạy cảm, dễ bị ảnh hưởng. Nghiên cứu và tìm ra các giống cây trồng trong nông nghiệp thích ứng với môi trường. 

Ba là, nhóm giải pháp về tài chính nhằm tạo quỹ phục vụ cho các biện pháp làm sạch môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Có cơ chế để tăng nguồn lực tài chính trong nước và mở rộng khả năng tiếp cận những nguồn tài chính khác, hỗ trợ cho việc triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường như: Chương trình Tín dụng Xanh do các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cung cấp, Quỹ Bảo vệ Môi trường Việt Nam, Quỹ Tín dụng Xanh do Chính phủ Thuỵ Sĩ tài trợ, Quỹ DANIDA của Chính phủ Đan Mạch, Chính phủ Hà Lan, Quỹ Môi trường toàn cầu Ngân hàng Thế giới. Ngoài ra, còn các chương trình, dự án hợp tác quốc tế huy động từ nguồn phi chính phủ và tư nhân. Cần đa dạng hóa các hình thức cho vay, hỗ trợ vốn, cho vay với lãi suất ưu đãi, tài trợ hoặc cho vay có hoàn trả; thế chấp tài sản để thực hiện các chương trình, đề án, dự án thử nghiệm, nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên, xóa đói giảm nghèo... 

Bốn là, nhóm giải pháp nâng cao năng lực thông tin và truyền thông. Đây được coi là giải pháp quan trọng để nâng cao nhận thức của cộng đồng về biến đổi khí hậu ở Việt Nam để có cách thích ứng. Cần đẩy mạnh truyền thông để người dân nhận thức được biến đổi khí hậu là vấn đề hiện hữu, là mối đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và cuộc sống của con người. Qua đó, góp phần thay đổi hành vi của họ với môi trường như tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên nước, bảo vệ rừng ngập mặn, trồng và bảo vệ các loại rừng phòng hộ ven biển…

Cùng với đó là hoạt động đào tạo và nâng cao năng lực cho các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và ra quyết định ở các cấp, địa phương. Củng cố năng lực để xây dựng và thực hiện các chiến lược thích ứng cho cộng đồng thông qua phòng chống thiên tai, lồng ghép với phòng và giảm thiểu rủi ro, thiệt hại vào các kế hoạch phát triển ở địa phương.

Coi trọng việc tạo ra những thay đổi trong lối sống và hành vi. Xây dựng một kênh truyền thông riêng nhằm cung cấp thông tin đầy đủ nhất về các vấn đề biến đổi khí hậu nghiêm trọng. 

Năm là, nhóm giải pháp tăng cường hợp tác quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực biến đổi khí hậu và cơ chế phát triển sạch để đạt được các thỏa thuận hợp tác. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác tài chính, công nghệ và xây dựng năng lực trong thời kỳ hậu Ky-o-to, tích cực tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị và đàm phán quốc tế về các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu. Qua đó yêu cầu các nước phát triển hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ mới, thân thiện với môi trường nhằm phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đồng thời sẵn sàng phối hợp với các nước phát triển trong việc xây dựng và thực hiện các dự án CDM tại Việt Nam phục vụ phát triển bền vững và giảm phát thải khí nhà kính. Xây dựng các danh mục dự án để kêu gọi tài trợ và tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển. Hợp tác quốc tế trong đào tạo, nâng cao năng lực thông qua đầu tư trực tiếp, tư vấn và xây dựng các hệ thống cảnh báo sớm. Đẩy mạnh hợp tác xây dựng Chương trình hành động thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng của Việt Nam./.
 

Lệ Mai (theo tapchicongsan.org.vn)
Cập nhật ( 20/06/2013 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài phải có đức. Có tài   không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai “

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com