Tuần -13 - Ngày 29/04/2024
|
|
|
|
Thông tin định kỳ
|
|
|
Các chuyên mục khác
Kiến trúc điêu khắc trong thế kỷ XX |
28/06/2007 |
Một trong những trào lưu của kiến trúc hiện đại trong thế kỷ 20 là kiến trúc điêu khắc (KTĐK). KTĐK là một phương thức biểu hiện kiến trúc dựa trên những nguyên lý của nghệ thuật điêu khắc mà nhiều kiến trúc sư đã vận dụng và thể hiện trong quá trình sáng tác kiến trúc.
Từ thời kỳ cổ nhất là kiến trúc Gotik và kiến trúc Barock đến kiến trúc tiền hiện đại của Antoni Gaudi, và sau này đã mở ra khả năng phát triển mới, rộng rãi với việc sử dụng vật liệu bằng bê tông cốt thép.KTĐK gắn chặt với việc sử dụng vật liệu, nó không phụ thuộc vào hệ thống hình học, trục định vị, sự cân đối, sự xếp thành hàng, Một công trình KTĐK có thể có mối quan hệ với các công trình khác, nhưng cũng có thể tồn tại độc lập, tức là không gây ảnh hưởng tới cảnh quan hoặc môi trường khác.
Quan niệm hình thức của KTĐK là tạo hình gây ấn tượng từ các khối không gian, nó gắn với thời gian và cụ thể hoá ý tưởng trang trí trong tổ chức không gian, liên kết bên trong và bên ngoài, gây cảm giác hoành tráng và nó tồn tại trong không gian.
Tòa nhà Casa Batlo Tòa nhà Casa Milla của Antonio Gaudi
Sau Antoni Gaudi, Kts có nhiều công trình tiêu biểu cho trào lưu KTĐK thời kỳ tiền hiện đại, Kts Kurt Schwitter cũng có một công trình tiêu biểu cho KTĐK trong thời kỳ tiền hiện đại: Trong năm 1923 ông đã thiết kế và xây dựng công trình Merz-Bau , mà ông gọi là Nhà thờ của Sự đau khổ , một biểu hiện của chủ nghĩa thô mộc, một trào lưu của kiến trúc hiện đại.
Trước đó ít năm trào lưu này đã được phục hồi và lúc này đã hồi sinh trở lại. Ơ đây KTĐK biểu hiện ở không gian bên trong công trình, là một đóng góp đặc biệt ấn tượng của kiến trúc tiền hiện đại, nhằm thực hiện một trong những mục tiêu quan trọng nhất của nó là vượt qua những nguyên tắc của sự cân đối cổ điển.Trước đó, trong những năm 1919-1922, Kts Erich Mendelsohn dã xây tháp Einstein ở Potsdam, một trạm nghiên cứu và quan sát thiên văn, một công trình dựa trên những ý tưởng trước đó của ông và một phần ảnh hưởng của kiến trúc hữu cơ (Haering).Ngoài những ví dụ về KTĐK trong thời kỳ tiền hiện đại, với quy mô và chất lượng khác nhau trong nhiều công trình của Le Corbusier, như: Các nhà ở trong khu dân cư Pessac (năm 1926) và hai nhà ở trong khu dân cư Weissenhof ở thành phố Stuttgart (năm 1927) , còn phải kể tới công trình gây ấn tượng mạnh là nhà hát ngoài trời phục vụ lễ kỷ niệm 700 năm của Turku của Alvar Aalto.
Vào nửa cuối thế kỷ 20, có những ví dụ mới cho trào lưu KTĐK được xây dựng ở khắp nơi với số lượng và mức độ khác nhau.Kts Le Corbusier (1887-1965) là người nổi bật qua nhiều công trình nhờ ý tưởng tạo hình mạnh mẽ với vật liệu bê tông cốt thép và cách khai thác hiệu quả ngôn ngữ của điêu khắc với các bề mặt công trình phần lớn để thô nhám, một hình thức thể hiện mới lạ và gây ấn tượng mạnh, đặc biệt dưới tác động của ánh sáng tự nhiên. Về khía cạnh điêu khắc thì nhà thờ Wallfahrtkirche ở Ronchamp đặc biệt nổi bật qua những hình thức không gian tự do khác thường, đối lập với những nguyên lý hình học thông thường, những lý thuyết rối rắm và quen thuộc đã được ông tuân theo một cách chặt chẽ trong thực tế. Ơ công trình nhà thờ, sự thần bí đã toát ra từ cái vỏ hình học độc đáo nhưng hợp lý nhờ óc sáng tạo của Le Corbusier. Nhà thờ ở Ronchamp được coi là tác phẩm tiêu biểu của Le Corbusier, mà trong đó cảm xúc thần bí được ông thể hiện đã tác động đến cả không gian bên ngoài lẫn bên trong công trình.
Công trình của Carlo Scarpa (1906-1978), người Italia đã noi theo tấm gương của Le Corbusier cả trong việc dùng vật liệu chủ yếu là bê tông cốt thép cũng như trong tạo hình điêu khắc ở các phòng chức năng và không gian sử dụng liên quan. Đặc biệt là ở các công trình nhỏ hơn do ông sáng tạo ra, ví dụ như ở công trình ngôi mộ của gia đình Brioni ở Vito d Altivola với phong cách riêng theo kiểu Italia, hay ở công trình nhà ở Ottolenghi ở Bardolino, ông đã chuyển sang cách dùng vật liệu đa dạng và linh hoạt hơn, cũng như cách thể hiện không gian huyền bí hơn.Dưới ảnh hưởng của Le Corbusier, nhóm KTS trẻ người Thuỵ sĩ Atelier 5 đã sáng tạo công trình đầu tay là khu nhà ở được bố trí rất chặt chẽ ở Halen gần Bern. Sau đó là các khu ở có tính điêu khắc nổi bật như Thalmatt I và II, cũng được xây dựng ở Bern. Nếu ở Halen người ta còn áp dụng nguyên tắc sử dụng một loạt hình khối có kiểu dáng giống hay gần giống nhau, thì ở đây sau này cũng với những hình khối đó, được bố trí xen kẽ nhô lên phía trước và đẩy lùi vào phía sau để tạo thành những nhóm nhà với các ngõ nhỏ thông với nhau. Như vậy ở Thalmatt người ta đã sắp xếp các hình khối nhỏ thành một quần thể lớn và tạo nên, qua hai giai đoạn xây dựng, một kiểu tạo hình không đơn điệu, hoàn toàn tự do, tránh gây ấn tượng về sự lặp lại các hình khối giống nhau và tạo nên bức tranh tổng thể mang tính tạo hình cao.
Cho tới cuối những năm 60, các kiểu kiến trúc của Walter M. Foerderer, người Thuỵ sĩ (sinh năm 1928), cùng hợp tác với người đồng hương là Hans Zwimpfer, cũng đi theo xu hướng trước đó của Le Corbusier. Trong nhà thờ Alpenkirche có kích thước lớn ở Heremence, người ta thấy tác giả quan tâm không phải là sự thể hiện chức năng hay cấu trúc, không phải là cái vỏ thứ ba của con người, không phải sự trong suốt và cũng không phải là sự hợp lý về hình học, mà rõ nét nhất chính là sự thống nhất phong cách của toà nhà theo kiểu điêu khắc với những khối không gian liên tục giữa bên ngoài và bên trong. Thế giới không gian bên trong xuất hiện nhờ tính tạo hình mạnh, gây cảm giác dồn nén của thế giới bên ngoài, bên trong và bên ngoài được lồng ghép vào nhau theo phương thức trực tiếp.Với sự thận trọng và với cách giải quyết đơn giản, chặt chẽ, nhà thờ Hoà giải (Versoehnungskirche) của Helmut Striffler trong khu trại tập trung Dachau cũ tạo cảm giác dễ tiếp cận đối với những người tham quan đang tới gần nó. Đi xuống dưới là vào một gian tầng hầm, được tượng trưng cho một đường hầm, tạo cho du khách cảm giác phải suy ngẫm về những sự kiện bi thảm đã xảy ra và sức mạnh của sự hoà giải. Một luồng ánh sáng ẩn dấu chiếu vào đường hầm báo cho biết khe cửa lối ra, được ẩn dụ như là một sự hồi sinh, qua đó tạo cho du khách cảm giác đang từ thế giới âm u quay trở lại với thực tại trên mặt đất. Một sáng tạo nhỏ trong sự thầm lặng có thể tạo nên hiệu quả lớn, đó chính là KTĐK.Công trình toà thị chính Bensberger của Gottfried Boehm (sinh năm 1920) nằm ở phía đông vịnh Tieflandbucht ở Koeln, được xây dựng trong những năm 1963-67, có mối quan hệ chặt chẽ về lịch sử và không gian với những phần còn lại của khu thành cổ: Hoàn chỉnh hình bóng xưa của thành phố và khôi phục lại sự nguy nga hoành tráng của thành phố qua việc kết hợp haì hoà các khối công trình mới và cũ. Hơn 800 năm hình ảnh này đã bị phân cách bởi các hình thức xây dựng cực kỳ khác nhau, do sự thực thi quyền lực đối với thành phố, nay đã được gắn kết lại với nhau, tạo nên một biểu tượng của sự thống trị phong kiến thời trung cổ , đồng thời với sự phát triển và thực thi quyền lực dưới chế độ dân chủ. Điều này có thể nhận thấy trong mối liên hệ với các tháp. Nhưng hiệu quả rõ nhất thể hiện qua phòng họp hội đồng thành phố ở tầng trệt có mặt tường phía sân trong bằng kính, được xây thêm vào sảnh lớn của toà thành cũ phủ kín kích thước chiều rộng và chiều cao. Ơ đây kiến trúc hiện đại không chỉ làm cho lịch sử có thể được nhận biết, đối với mỗi người, không chỉ theo tiến trình phát triển của nó, mà còn cả những thay đổi thăng trầm của nó.Ơ trung tâm thành phố Koeln, sau ít phút đi bộ về phía bắc của nhà ga chính, trong một khu phố cổ nhất bên ngoài thành cổ nhưng còn trong vòng tường thành ngoài cùng, ta thấy tồn tại một quần thể công trình xây dựng liên kết chặt chẽ với nhau của trường Đại học âm nhạc Rheinland . Đối với thành phố, đây là một trường hợp đặc biệt cho phép xây dựng mới trên diện tích của cả khu mà không phải đưa ra ngoài khu cây xanh, như thông lệ thường áp dụng đối với các công trình xây dựng mới. Đồ án này được khen thưởng nhờ áp dụng các khối không gian điển hình phù hợp và bố trí phòng biêủ diễn Opera và phòng hoà nhạc lớn ở các tầng dưới cũng như khu hoà nhạc ngoài trời ở trên mái. Sự liên kết chặt chẽ với nhau của các chức năng hoàn toàn khác nhau ( phòng biểu diễn có sân khâú, phòng dạy Opera và trung tâm nhạc điện tử, các phòng tập, studio đàn đại phong cầm, thư viện và khu lưu trữ nhạc phẩm, nhà ăn, phòng các giáo sư và phòng hành chính) tạo nên một quần thể công trình với không gian mở về phía vùng đệm gần thành phố, được bố cục tự do và có tính linh hoạt trong tạo hình theo kiểu điêu khắc.
Một ví dụ khác về sự gắn bó mật thiết giữa kiến trúc và điêu khắc được thể hiện trong sáng tác cuả Johannes Peter Hoelzinger cùng với Her mann Goepfert (từ 1965 đến 1982) trong Hội quy hoạch vì sự phát triển của môi trường. Một tác phẩm thầm lặng đã bị lãng quên một cách oan uổng do những cuộc tranh cãi về các trường phái hậu hiện đại và phi cấu trúc. Hoelzinger đã xây dựng một số công trình kiến trúc kiểu điêu khắc và tác phẩm điêu khắc kiểu kiến trúc rất sinh động và quyến rũ, đó là sự trừu tượng theo những nguyên lý của hình học không gian (Ví dụ: khu nhà ở Hoehenweg ở Bad Nauheim và trung tâm khu đào tạo Tin lành ở Friedberg, Hessen), đó là sự tổ hợp các khối không gian (Ví dụ: khu nhà ở số 4 phố Gustav-Kayser và khu nhà ở 44 phố Hochwald ở Bad Nauhheim), hay đó là sự tiếp nhận và tái tạo hình của một dạng mặt bằng theo kiểu điêu khắc. Với ngôi nhà Anthes, Hoelzinger đã thống nhất xu hướng quen thuộc cúa ông là khai thác tính điêu khắc sinh động với những ý tưởng theo hướng sinh thái. Tư duy sinh thái và nghệ thuật điêu khắc được kết hợp hài hoà trong bố cục không gian toà nhà.Ơ vùng ngoại ô của thành phố Viên, nhà điêu khắc người Aó Fritz Wotruba (1907-1975) ngay trước khi mất đã kịp thực hiện ước nguyện của mình, tạo nên một công trình kiến trúc đồng thời là một công trình điêu khắc có thể đi qua được. Nhà thờ Heiliggeist của Wotruba đã kéo không gian bên ngoài qua những khe hở giữa các khối bê tông nặng nề và thẳng đứng vaò bên trong, làm đọng lại như tạo nên một sự kiện rồi lại quay trở lại thế giới bên ngoài qua chính những khe hở này. Đó là kiến trúc của một nhà điêu khắc.
Ngược lại, cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của Le Corbusier, các KTS người Nhật trong những năm 60 và 70 đã kết hợp ảnh hưởng của kiến trúc phương Tây với kiến trúc truyền thông Nhật bản. Người đi đầu là Kenzo Tange (sinh năm 1913) và KTS trẻ hơn, Kazuo Shinohara (sinh năm 1925). Kiến trúc của họ phần lớn có tính tạo hình điêu khắc mạnh mẽ. Ơ Kenzo Tange phần lớn vật liệu là bê tông và cũng kiểu tạo hình tương tự Le Corbusier, ở KTS trẻ Shinohara (cũng thuộc những người theo trường phái kiến trúc nhấn mạnh chất liệu bê tông trần) đặc biệt khai thác tác động tương phản của vật liệu khi sử dụng kết hợp bên cạnh nhau trong tạo hình các công trình lớn.
Ơ Mỹ, trước hết là Paul Rudolph và Louis I. Kahn là những người đã tạo ra các công trình kiến trúc lớn với tính điêu khắc mạnh mẽ, nhưng đồng thời vẫn tiếp tục xây dựng các công trình lớn có tính tạo hình theo các nguyên tắc truyền thống .Charles Jencks ( 1910-1961) muốn thể hiện ở Eero Saarinens TWA- Terminal trong sân bay Kennedy New York biểu tượng của một con chim và theo nghĩa bóng là một ẩn dụ của chuyến bay. Ông đã hình thành ý tưởng thiết kế ở Saarinens, tương tự với sự hình thành ý tưởng trong một cuộc thi trước đó về công trình nhà hát Opera ở Sydney, mà ở đó Jorn Utzons (sinh năm 1918) đã đưa ra kiến trúc với hình tượng những cái vỏ sò xếp lồng vào nhau, trước hết đồ án đã đoạt giải cuộc thi, sau đó công trình đã được xây dựng và cuối cùng đã được thế giới công nhận là biểu tượng của thành phố Sydney. Và nhân dịp lễ khánh thành công trình, với sự có mặt của nữ hoàng Elisabeth, nó đã được các sinh viên vẽ thành tranh biếm hoạ như những con rùa đang trong tổ yêu đương. Có lẽ điều này thực sự thú vị, khi lần theo các ý tưởng sáng tạo đó qua những biểu tượng trực tiếp và tất nhiên là không thể phủ nhận khi nói tới lý thuyết và lịch sử kiến trúc. Nhà hát Opera Sydney là biểu tượng của sự mở cửa ra thế giới và toà nhà TWA là biểu tượng cho sức mạnh của con người, có thể vượt qua sức hút của trái đất và bay bổng lên bầu trời. Mặc dù cả hai đều không cần phân tích nhiều, nhưng thực tế chúng đã trở thành biểu tượng cho sự khởi hành và lên đường cũng như cho sự cập bến và quay trở lại. Đặc biệt là công trình nhà ga sân bay, trong đó hình tượng du khách lên đường và quay trở lại sẽ làm cho tình cảm và hy vọng về một chuyến đi an toàn tăng lên. Đó chính là giá trị hình thức được cảm nhận dễ dàng và bền vững nhất của kiến trúc. Cả hai công trình này đều là những ví dụ tiêu biểu cho kiến trúc điêu khắc.Người sáng tạo các kim tự tháp Louvre và các công trình với kết cấu dàn không gian có kích thước lớn là Ieoh Ming Pei (sinh năm 1917), người Mỹ, sinh ra ở Trung quốc, đã xây dựng năm 1968 ở Syracuse, New York, viện bảo tàng Everson với một loạt các khối bê tông lớn hầu như khép kín và hoàn chỉnh, với những khối nhô lên phía trên, hoặc lồng ghép vào nhau.Charles Jencks gọi đó là một cái hòm trần trụi có kiểu dáng kỳ cục và cho rằng do việc quá nhấn mạnh sự thống nhất trong tạo hình đã làm cho công trình trở nên đơn điệu. Nhận xét này có thể đã xuất phát từ một quan điểm thành kiến và cách xem xét một cách phiến diện? Thực tế sử dụng sau này cho thấy công trình đã được đánh giá cao, đặc biệt trong tổ chức giao lưu của một bảo tàng. Mặt khác, nếu chú ý đến những nhận xét của nhiều nhà chuyên môn về bảo tàng cho rằng giải pháp chiếu sáng nhân tạo, đặc biệt là ở các gian trưng bầy nghệ thuật, là hoàn toàn hợp lý, thì phải chăng một tác phẩm điêu khắc lớn, đơn giản, phía hướng ra ngoài đóng kín và có thể đi qua được là một giải pháp hợp lý cho nhiệm vụ xây dựng này?Một tác phẩm điêu khắc được sử lí đơn giản ở mặt bằng nhưng về mặt hình khối lại nhô ra mạnh mẽ, như ngôi nhà do Myron Goldfinger xây dựng cho Norman McGrath, một nhà nhiếp ảnh kiến trúc thiên tài được nhiều Kts Mỹ của trường phái tiên phong mới hay mời cộng tác ở Patterson, New York.Charles Gwathmey (sinh năm 1938), người đã cùng học tại trường đại học Pennsylvania với Louis I. Kahn, cùng Paul Rudolph ở trường kiến trúc và design Yale, trong những năm 60 thuộc nhóm Ngũ đại nhân New York , là một trong những Kts đương thời có sự quan tâm đặc biệt tới kiến trúc điêu khắc. Tiêu biểu là ngôi nhà Haus de Menil của ông ở Long Island, New York được xây dựng năm 1984.
Giai đoạn giữa và cuối thế kỷ 20, KTĐK tiếp tục phát triển với qui mô rộng hơn và mức độ cao hơn. Trong đó, nổi lên vẫn là các công trình của các Kts có tên tuổi như Le Corbusier và các Kts trẻ cùng thời với ông, như: của Paul Rudolph và Louis Kahn( công trình mở rộng của trường tổng hợp Yale) hoặc của Kenzo Tange và các KTS Nhật theo trường phái nhấn mạnh chất liệu bê tông trần, của Walter M. Foederer ( nhà thờ Alpen ở Heremence, Wallis), của Gottfried Boehm (nhà thờ Wallfahrt ở Neviges, Rheinland), hoặc của Fritz Wotruba (nhà thờ Heiliggeist ở Viên).Trào lưu hiện đại này đã thể hiện sức sống của nó qua nhiều công trình tiêu biểu, có ý nghĩa cho thời đại đó và cho cả giai đoạn phát triển tiếp theo.
Kinh nghiệm nghiên cứu cho thấy, không nên gắn Kts với những trào lưu hoặc quan điểm nhất định trong kiến trúc của họ để khỏi bị hiểu nhầm một cách cứng nhắc. Một công trình có thể được xếp vào các trào lưu kiến trúc khác nhau, và ngược lại cũng có thể nhiều công trình lại được xếp vào một trào lưu kiến trúc. Trong thực tế đã có nhiều ví dụ như vậy. Với khả năng sáng tạo phong phú và đa dạng theo nhiều thể loại kiến trúc như vậy, có thể kể đến Kts Frank O. Gehry, người Mỹ. Ông này thường được coi là nhà phi cấu trúc đầu tiên. Điều này có thể đúng một phần nhưng không phải là toàn bộ sự thật. Vì trong sự đối lập với những người phi cấu trúc khác trước đây, như Kts Zaha Hadid, người Irắc, Kts Bernard Tschumi, người Thuỵ sĩ hiện sống và làm việc tại Mỹ, hoặc Kts Coop Himmelblau, người Viên-Aó, thì Gehry cũng là một Kts theo phái lập thể nhưng đã cố gắng thể hiện tính điêu khắc với các ý tưởng quen thuộc của trào lưu kiến trúc hậu hiện đại. Ngay trong ý tưởng tổ chức không gian trống bên trong trường Loyola Law ở Los Angeles từ những năm 1981-84 ông đã thể hiện nó như là một công viên điêu khắc theo kiểu hậu hiện đại hơn là một hình mẫu của một Kts theo trường phái tiên phong phi cấu trúc. Kể cả bảo tàng vũ trụ California ở Los Angeles, ngôi nhà Schnabel ở Brentwood, California, trung tâm Edgemar Venice, L.A, California , bảo tàng Design ở Weil bên sông Rhein, Trung tâm Vitra ở Birsfelden, Basel, trung tâm Mỹ ở Paris (1989-93), các nhà ở Ginger và Fred ở Wenzelsplatz, Praha và cuối cùng là bảo tàng Guggenheim Bilbao lại thể hiện trước hết qua tính tạo hình theo kiểu điêu khắc.
Bảo tàng Guggenheim Bilbao, 1997, Bilbao, Spain
Điều này được khắc hoạ rõ nét bởi sự nhấn mạnh tính phi đối xứng và qua đó thể hiện như là một lời kêu gọi chống lại chủ nghĩa cổ điển và như vậy cũng phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa phi cấu trúc. Các kiểu kiến trúc này không làm hài lòng nhiều người lúc đó.Nhưng Gehry đã nói về điều này rằng: Tôi tìm cách, trước hết là tự giải phóng mình khỏi gánh nặng truyền thống để đi tìm những con đường mới. Đối với tôi không có những luật lệ cứng nhắc, cố định, không đặt vấn đề đúng hay sai. Tôi không phê phán đẹp hay xấu. Nếu người ta muốn gán cho công trình của Gehry một cái mác trung gian và cho rằng phi cấu trúc không phải là phong cách , thì có thể mô tả kiến trúc của Gehry là kiến trúc phi cấu trúc của những hình thể điêu khắc!
Richard Meier (sinh năm 1934), một trong ngũ đại nhân New York, là người thành đạt nhất, cũng không thể tự xác định được là thuộc trào lưu nhất định nào của kiến trúc đương đại. Về việc sắp xếp ưu tiên các công trình của ông còn nhiều vấn đề bàn cãi. Ơ đây có thể nêu ra một vài công trình đặc biệt nổi bật với phong cách kiến trúc điêu khắc, như: khu nhà ở Smith và đặc biệt là khu Hoffmann (Easthampton, New York, 1966-67), cũng như ngôi nhà ở Pound Ridge, New York (1969) đã nổi bật với những hình thức tạo hình riêng, mạnh mẽ, như bị tách ra khỏi không gian tổng thể.Các công trình sau đó với tính điêu khắc đặc biệt là Atheneum ở New Harmony, Indiana và trung tâm nghệ thuật ở Des Moines, Iowa (1982-85). Trung tâm J. Paul Getty hoàn thành năm 1997, ở trên đồi Santa-Monica, phía tây bắc thành phố Los Angeles; ở đó, ngoài bộ sưu tập nổi tiếng về nghệ thuật cổ và hiện đại còn có một viện nghiên cứu nghệ thuật, một trung tâm hội nghị và hội thảo với những tiện nghi phục vụ công cộng cũng như bộ phận quản lý hành chính của hãng Getty-Trust, đã trở thành một quần thể kiến trúc điêu khắc vĩ đại với các công trình đa dạng và các bộ phận cấu tạo tinh tế được gắn kết hoà quyện với nhau.Một công trình kiến trúc điêu khắc lớn gây ấn tượng mạnh là thành phố âm nhạc trong công viên La Villette ở Paris của Christian de Portzamparcs (sinh năm 1944). Ơ đây phong cách biểu hiện tính điêu khắc được sáng tạo trên nền của một ngôn ngữ kiến trúc kiểu phi cấu trúc. Điều này có ý nghĩa tạo nên một sự hài hoà cho không gian bên trong trường âm nhạc hơn là hình thức bên ngoài với mái hình lượn sóng đặt lên trên.
Ơ Wuppertal, Peter Busmann và Godfrid Haberer, có sự phối hợp với nhà điêu khắc Zbiginiew Oksiuta và Kts vườn cảnh Volker Pueschel, đã giải quyết được một vấn đề khó tương tự như xây dựng nơi ngồi của dàn nhạc Dachau của Helmut Striffler. Tại nơi nguyên là giáo đường Do thái họ đã dựng lên đài kỷ niệm với một khối hình lập phương lớn, xung quanh bố trí tương phản các công trình phụ có các kiểu dáng hình học với các khối không gian khác nhau cắm xuống đất. Sự hình thành nhóm điêu khắc trong một khung cảnh hoàn toàn khác biệt đã kích thích sự chú ý và tranh luận cũng như tránh được cảm giác như đứng trước một đài kỷ niệm.
Một kiểu kiến trúc điêu khắc rất trẻ trung, nhẹ nhõm, bay bổng với ảnh hưởng của chủ nghĩa phi cấu trúc do các Kts trẻ người Pháp là Odile Decq và Benoit Cornette với toà nhà ngân hàng Populaire de l Ouest ở Rennes đã tạo nên một hình thức kiến trúc thanh lịch, nhẹ nhàng, khác với những hình thức đơn giản, nặng nề quen thuộc của một nhà băng.Một kiểu kiến trúc điêu khắc hoàn toàn khác, được thể hiện với các vật liệu và kết cấu mới, là các công trình bao che toàn kính, trong suốt như pha lê. Đó là nhà thờ Crystal Cathedral, nhà thờ Garden Grove Community Church ở vùng đông nam Los Angeles, California do Philip Johnson và John Burgee thiết kế, kim tự tháp Louvre của Ieoh Ming Pei hoặc những công trình Gross-Prismen của Kts người Achentina Emilio Ambasz (sinh năm 1943) ở San Antonio, Texas. Kiểu kiến trúc bằng kính và kết cấu dàn không gian này tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt qua tác động hai chiều của chúng, khi nhìn từ bên ngoài vào và từ bên trong ra. Ơ đây những mối tương quan giữa ánh sáng tự nhiên ban ngày và ánh sáng nhân tạo vào ban đêm luôn thay đổi, biến hoá, gây nên những cảm giác vô cùng sinh động và hấp dẫn.Như vậy kiến trúc điêu khắc trong thế kỷ 20 đã tồn tại và phát triển như là một trong những trào lưu của kiến trúc hiện đaị và những quan điểm của KTĐK chắc chắn sẽ có một vị trí trong kho tàng lý thuyết kiến trúc và lịch sử kiến trúc của nhân loại ./.
GS.TSKH. Ngô Thế Thi, ĐHXD
Tài liệu tham khảo:1) Pahl, J. : Architekturtheorie des 20.Jahrhunderts – Zeit-Raume Prestel / Muenchen-London-New York / 1999. |
Cập nhật ( 27/06/2015 )
|
|