|
Bà Ca-tơ-rin Mu-lơ-Ma-rin trình bày tham luận tại Hội thảo
|
Trong 3 ngày, từ 7 đến 9-10-2010, tại Hà Nội, đã diễn ra Hội thảo khoa học quốc tế “Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình”. Trong phiên khai mạc cuộc Hội thảo này, bà Ca-tơ-rin Mu-lơ-Ma-rin (Katherine Müller-Marin), Đại diện UNESCO tại Việt Nam đã phát biểu tham luận. Dưới đây là bàiitham luận của bà Ca-tơ-rin Mu-lơ-Ma-rin.
Tôi rất vinh hạnh được cùng các vị giáo sư và các nhà nghiên cứu tầm cỡ thế giới tham dự hội nghị đầy ý nghĩa này, được tổ chức với mục đích trao đổi những quan điểm cùng các biện pháp hữu hiệu nhất cho việc phát triển bền vững thành phố Hà Nội 1000 năm tuổi – một thủ đô văn hóa vì hòa bình.
Trong suốt chiều dài của lịch sử, nhiều thành phố là những chiếc nôi của văn minh và Thăng Long – Hà Nội chắc chắn là một trong số đó. Với một lịch sử lâu đời cùng những tài nguyên di sản và văn hóa hết sức phong phú được giữ gìn và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, ta không hề ngạc nhiên là Hà Nội đã đạt những điều hết sức đáng kể, cả trên khía cạnh xã hội lẫn kinh tế. Theo Frommer’s, nhà xuất bản du lịch hàng đầu của Hoa Kỳ, thành phố này là một trong “Những điểm đến hàng đầu của năm 2010”.
Theo một nghiên cứu mới đây được PricewaterhouseCoopers thực hiện và đăng trên ấn phẩm Triển vọng kinh tế Vương quốc Anh (UK Economic Outlook) của cơ quan này, Hà Nội được dự đoán là một trong hai thành phố đứng đầu thế giới về mức tăng trưởng trung bình thực của GDP trong giai đoạn 2008-2025 (1).
Để thành phố này tiếp tục có được những thành tích như vậy, chúng ta cần lưu tâm đến những thách thức do tốc độ đô thị hóa nhanh tạo nên, đặc biệt là những thách thức liên quan đến bảo tồn di sản văn hóa. Trên thực tế, khi Hoàng thành Thăng Long được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới, một trong những khuyến nghị của chuyên gia là cần đặc biệt chú ý tới việc giám sát sự tăng trưởng mạnh mẽ và nhanh chóng của du lịch.
Do vậy, chúng tôi hoàn toàn ủng hộ quyết định tổ chức một hội nghị như thế này để từ đó đưa ra những khuyến nghị tốt nhất nhằm hỗ trợ cam kết của các nhà lãnh đạo của thành phố trong việc tiếp tục giữ gìn giá trị, bảo vệ và bảo tồn di sản, tạo cơ hội cho phát triển bền vững và cho một cuộc sống có chất lượng của cư dân thành phố.
Trong khi nghiên cứu vấn đề này, tôi có những ý tưởng sau đây và muốn chia sẻ cùng các bạn:
Những phương thức phát triển kinh tế và hoạch định việc quản lý bảo tồn có thể được tích hợp với nhau thành một mô hình mới trong đó di sản trở thành tâm điểm trong quy trình phát triển của thành phố chứ không phải đơn thuần là một phần được lắp thêm vào.
|
Trái với cách mọi người thường nghĩ, bảo tồn các giá trị văn hóa không phải là một điều đối lập với phát triển đô thị. Những phương thức phát triển kinh tế và hoạch định việc quản lý bảo tồn có thể được tích hợp với nhau thành một mô hình mới trong đó di sản trở thành tâm điểm trong quy trình phát triển của thành phố chứ không phải đơn thuần là một phần được lắp thêm vào.
Quy trình này tiến triển thông qua bốn hợp phần – 1) nhận thức, 2) coi trọng, 3) bảo vệ và 4) sử dụng (2). Cho phép tôi nói rộng thêm từng hợp phần này.
1) Nhận thức có thể được xác lập thông qua việc kiểm kê văn hóa của cộng đồng và thông qua giáo dục. Việc kiểm kê đầy đủ các địa điểm và tài sản văn hóa cũng như các cơ sở hạ tầng và những lựa chọn nhằm hỗ trợ hoạt động du lịch xung quanh những nơi này là cơ sở để tạo dựng một kế hoạch toàn diện, gắn kết mọi yếu tố với nhau, từ đó tạo thành một mạng lưới hỗ trợ, thông tin và kiểm soát chất lượng dịch vụ.
Giáo dục di sản, bất kể trong nhà trường, bảo tàng, điểm di sản hay cộng đồng, sẽ đem lại những cơ hội hiểu biết các hình thái văn hóa khác nhau trong bối cảnh một xã hội đang thay đổi và cho phép mọi tầng lớp dân cư tiếp xúc với nhau một cách thoải mái và học hỏi những người đến từ các nền văn hóa khác.
Chúng ta đừng quên rằng trẻ em của hôm nay sẽ trở thành những người bảo vệ di sản mai sau và do vậy, điều cốt yếu là các em phát triển nhận thức về trách nhiệm tương lai của mình ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Những cuộc vận động giáo dục mạnh mẽ tập trung vào việc giữ gìn thành phố cũng như những di sản và văn hóa của thành phố nên được tiến hành thường xuyên trong chương trình giảng dạy.
Việc nâng cao nhận thức của công chúng cũng giúp cư dân thành phố hiểu rõ hơn lý do chính phủ đang đầu tư tiền bạc cho văn hóa và di sản, ví dụ như cho việc trùng tu. Điều này cũng giúp góp phần cho họ thấy rằng cần kiểm soát tình hình sao cho những điểm di sản không có mật độ dân cư quá dầy đặc khiến cho nó có thể bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện thường xuyên của những đám đông lớn (3).
2) Việc coi trọng di sản có thể được gieo mầm và nhân rộng trong khi tạo nên tình đoàn kết cộng đồng, đồng thời thông qua việc nâng cao năng lực.
UNESCO cùng với một số cơ quan khác của Liên hợp quốc ở Việt Nam, hiện đang phát triển một phương pháp với sự tham gia tích cực của cộng đồng vào quá trình quy hoạch và quản lý di sản. Tuyên truyền và cuốn hút người dân địa phương vào việc bảo tồn và phát triển các khu di sản tạo điều kiện cho người dân cải thiện kinh tế và môi trường sống.
Những hoạt động do cộng đồng đi đầu như Lễ hội Gióng ở Phù Đổng và Đền Sóc là những ví dụ cho thấy cộng đồng địa phương có thể đóng góp như thế nào cho nền kinh tế của họ và cho sự gắn kết xã hội.
Về nâng cao năng lực, chúng ta cần tiếp tục củng cố và nâng cao hiểu biết về các sáng kiến quốc tế, cũng như về những cơ chế mới nhằm thực hiện có hiệu quả công tác bảo tồn lâu dài và cung cấp thông tin mới nhất cho các chuyên gia và những người tham gia trực tiếp vào công tác bảo tồn.
3) Việc bảo vệ có thể được tăng cường thông qua luật hay những văn bản dưới luật về di sản, trong đó các chính sách quốc gia cần có cơ chế phân bổ ngân sách cho việc bảo tồn di sản và xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc phát triển du lịch.
Các chính sách quốc gia cũng nên quy định và điều hòa sự hợp tác giữa các bộ phận và các cơ quan cũng như hoạt động nhóm liên ngành với sự tham gia của chuyên gia với những chuyên môn khác nhau trong những quá trình phức hợp này. Các chính sách này cũng cần khuyến khích sự tham gia chính thức của cộng đồng và các tiêu chí cho việc sử dụng lợi nhuận từ phát triển.
Bảo vệ cũng bao gồm những hành động rất thiết thực, chẳng hạn như đặt câu hỏi về việc các điểm di sản có được bảo dưỡng thường xuyên hay không, và người sở hữu các địa điểm di sản có tiếp cận được nguồn ngân sách để trùng tu hoặc bảo tồn hay không. Nó cũng bao hàm cả câu hỏi là các nhân tố làm giảm giá trị của di sản có được nhận biết, hay có những cách khác nhằm chuyển hướng giao thông của xe cộ ra ngoài trung tâm thành phố hay không.
Năm ngoái, Việt Nam đã sửa đổi Luật Di sản Văn hóa của mình, củng cố liên kết giữa bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kết cấu hạ tầng. Điều có ý nghĩa quan trọng đối với Hà Nội đảm bảo đạo luật này được tuân thủ triệt để trong các dự án xây dựng công cộng cũng như tư nhân.
4) Sử dụng có thể được thực hiện với việc tiến hành nghiên cứu khả thi các dự án và chương trình tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, đồng thời đưa ra những dự án thí điểm đem lại lợi nhuận và những ích lợi khác cho cộng đồng xung quanh khu di sản.
Điều quan trọng là trang bị và phát triển các thành phố và khu di sản thông qua việc tái đầu tư một phần thu nhập được tạo ra từ du lịch vào việc bảo tồn, khuyến khích tất cả những người tham gia áp dụng các tiêu chuẩn về chất lượng, và thông qua việc làm cho cộng đồng địa phương trở thành những người tham gia đích thực vào dây chuyền du lịch; ví dụ như lái xe tắc-xi có thể được huấn luyện và đọc các cuốn sách mỏng giới thiệu về Hoàng thành và các điểm du lịch khác, và những người bán hàng rong đường phố bên ngoài các điểm tham quan có thể học tiếng Anh hoặc tiếng Pháp cơ bản và được huấn luyện về cách quan hệ với du khách (4).
Nguyên tắc chủ chốt trong việc bảo tồn di sản văn hóa là khuyến khích sự tham gia của các bên liên quan, đặc biệt là những người trong bộ phận doanh nghiệp. Tạo thêm nhiều cơ hội hữu hiệu hơn cho sự hợp tác giữa nhà nước và doanh nghiệp trong việc đầu tư vào di sản đô thị là một khía cạnh thiết yếu khác của việc nâng cấp các quy trình bảo tồn dài hạn.(5)
Tương tự như vậy, những thành phần liên quan nên được khuyến khích tham gia vào quá trình này bằng các chính sách thuế và các động cơ kinh tế. Chúng ta có một ví dụ tốt từ Ô-xtrây-lia nơi chính phủ nước này đã lập một kế hoạch thuế nhằm giúp bảo dưỡng và phục hồi tài sản lịch sử do tư nhân sở hữu. (6)
Hà Nội có thể học hỏi từ những phương pháp tốt nhất của quốc tế trong việc bảo tồn di sản văn hóa ở các khu đô thị. Qua một ví dụ khác từ Ô-xtrây-lia, chúng tôi nhận thấy đất nước này đã khởi đầu một quỹ tuần hoàn, đó là một quỹ vốn chung được lập ra nhằm bảo vệ di sản và được sử dụng để mua lại những di sản cần bảo tồn và phục chế. Ở Trung Quốc, hãng xe hơi Mercedes-Benz đã chi mỗi năm một triệu đô-la Mỹ vào việc trùng tu các Di sản Thế giới. Tương tự như vậy, các nước khác dành những phần đáng kể của thu nhập có được từ phát triển du lịch cho việc bảo tồn di sản văn hóa.
Di sản văn hóa tạo dựng hình ảnh và bản sắc cho thành phố, góp phần tạo nên một bản sắc chung cho mọi người dân. Khi nói về Hà Nội, chúng ta nhắc đến hình ảnh tráng lệ của Hồ Gươm, hương vị phở trong sớm mai và mùi hoa sữa khi thu về. Đó là những điều mà người dân sống hoặc tới thăm thành phố này có thể dễ dàng nhận thấy, và chúng khắc sâu mãi trong ký ức họ.
|
Thách thức đối với các dự án bảo tồn và phục hồi là làm thế nào giải quyết nhiều vấn đề mà không phá hoại “văn hóa sống” và không di dời những người chính là “những người canh giữ di sản”.
Nghiên cứu về “Các khu lịch sử cho mọi người” được tiến hành theo đề nghị của UNESCO, nêu bật ý nghĩa quan trọng của việc những người dân thành thị coi mình là một phần gắn kết của các thành phố và trung tâm lịch sử của họ; họ cần cảm thấy tôn trọng bản sắc và sự đa dạng của mình, tôn trọng tri thức truyền thống và thực sự mong muốn tăng cường giá trị của thành phố mình.
Di sản văn hóa tạo dựng hình ảnh và bản sắc cho thành phố, góp phần tạo nên một bản sắc chung cho mọi người dân. Khi nói về Hà Nội, chúng ta nhắc đến hình ảnh tráng lệ của Hồ Gươm, hương vị phở trong sớm mai và mùi hoa sữa khi thu về. Đó là những điều mà người dân sống hoặc tới thăm thành phố này có thể dễ dàng nhận thấy, và chúng khắc sâu mãi trong ký ức họ.
Cho nên, thành phố này phải mở thêm nhiều không gian và đem lại những phương tiện để tận hưởng chúng một cách đầy đủ nhất, trong đó có thêm nhiều khu giải trí hơn, nhất là cho lớp trẻ. Mặt khác, thành phố cần khuyến khích người dân có trách nhiệm giữ gìn Hà Nội sạch hơn và giảm bớt ô nhiễm âm thanh, tạo cơ sở cho một cuộc sống lành mạnh.
Những thách thức khác xoay quanh hiệu quả sinh thái, qua đó đem lại hạnh phúc và sức khỏe con người, cùng việc quy hoạch và phát triển đô thị với những cách tiếp cận hợp lý về kinh tế và môi trường.
Thật không dễ khi chúng ta bàn đến vấn đề môi trường và sinh thái của một thành phố, đặc biệt là một thành phố lịch sử. Tuy nhiên, thật thú vị khi thấy rằng, trong hàng nghìn năm qua, các triết gia Trung Hoa đã nghiên cứu mối quan hệ hài hòa trong đó, họ coi là “thiên thời” “địa lợi” và “nhân hòa”. Kết quả là những nguyên tắc để quản lý các mối quan hệ giữa con người và môi trường, bao gồm cả đạo đức học sinh thái, quy hoạch và quản lý các hoạt động của con người và cảm xúc tâm lý có được khi ta tôn trọng môi trường. (7)
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhiều thành phố trên khắp thế giới cũng có những thách thức giống như Hà Nội trong nỗ lực cân đối giữa bảo tồn di sản văn hóa và phát triển đô thị. Đến nay, kinh nghiệm cho thấy là không có một giải pháp hay mẫu hình duy nhất nào, mà chỉ có những nguyên tắc cơ bản.
Tôi hy vọng rằng, hội nghị này sẽ thu hút sự chú ý của mọi thành phần có liên quan đến việc làm thế nào đạt được và duy trì sự phát triển bền vững của Thăng Long – Hà Nội, một thủ đô văn hiến, hòa bình và đầy sức sống. Tôi tin là với nỗ lực tổng hợp, Hà Nội sẽ tăng cường các chính sách kinh tế và xã hội hiện hành, đảm bảo rằng những lợi ích có được từ tiến trình đô thị hóa ngày nay sẽ mãi mãi bền vững trong tương lai./.
Ca-tơ-rin Mu-lơ-Ma-rin
Đại diện UNESCO tại Việt Nam
(nguồn tapchicongsan.org.vn)
(1) “Đâu là những nền kinh tế thành phố lớn nhất thế giới và điều này có thể thay đổi như thế nào tới năm 2025.” Triển vọng kinh tế Vương quốc Anh. Tháng Mười Một 2009.
(2) Trích từ “Dự án kiểm kê văn hóa cho Thành phố Di sản Vigan: Hướng tới xây dựng một khuôn khổ bảo tồn di sản và phát triển bền vững” của Phó Giáo sư Eric Babar Zerrudo
(3) Những cách thức tốt nhất duy trì tính bền vững của xã hội ở các khu vực lịch sử; UNHabitat và UNESCO, HS/1037/08E ISBN Số: 978-92-1-131965-1
(4) Các khu lịch sử cho mọi người: một cách tiếp cận xã hội và nhân văn đối với việc hồi sinh một cách bền vững, Hướng dẫn thực hành cho các nhà chuyên môn về đô thị. Do Laure Veirier, Chuyên gia tư vấn (INTERSTICES) biên soạn theo đề nghị của UNESCO. Tháng Chín 2008
(5) Những cách thức tốt nhất duy trì tính bền vững của xã hội ở các khu vực lịch sử; UNHabitat/UNESCO, 2008
(7) Hướng tới một đô thị bền vững. Những phương pháp quy hoạch sinh thái đô thị và ứng dụng ở Tianjian, Trung Quốc. Dự án chung của Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO), Chương trình Con người và Sinh quyển (MAB), Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Viện hàn lâm khoa học Trung Hoa, Cộng hòa Liên bang Đức, Bộ Giáo dục, Khoa học, Nghiên cứu và Công nghệ Liên bang.
|