Tuần -13 - Ngày 29/04/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Điểm tin
So sánh năng lực NCKH của 11 nước Đông Á và bài học rút ra cho Việt Nam
25/06/2010



So sánh năng lực nghiên cứu khoa học của 11 nước Đông Á dựa trên các công bố quốc tế và bài học rút ra cho Việt Nam


1. Dẫn nhập
Sau Nhật Bản, các nước Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore và Đài Loan, mới đây là Trung Quốc đã bứt phá nhanh chóng để đuổi theo sát nút những nước Tây Âu và Bắc Mỹ trên mọi bình diện thế giới và trong cuộc cạnh tranh kinh tế toàn cầu. Khoa học và giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, đã trở thành động lực chính giúp xây dựng năng lực cạnh tranh toàn cầu của các nền kinh tế này trong khu vực Đông Á.

 

Trong giáo dục đại học, các trường đại học nghiên cứu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đào tạo các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cao cấp - những người sẽ tạo nên một lực lượng lao động tay nghề cao, trên cơ sở đó hình thành năng lực quốc gia về ứng dụng và cải tiến công nghệ (Liên Hợp Quốc, 2005). Các kết quả nghiên cứu từ đây phải đưa lên những tạp chí khoa học quốc tế uy tín, có phản biện đồng nghiệp, xem như thước đo về chất lượng. Đó là lý do tại sao các công bố quốc tế (CBQT) là một trong số các tiêu chí chủ chốt được sử dụng trong xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới (Phụ san Thời báo Đại học (THES), 2004; Đại học Giao thông Thượng Hải, SJT, 2005).

Việt Nam mới chuyển sang kinh tế thị trường gần đây sau nhiều thập niên chiến tranh và nỗ lực xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Cho nên cũng dễ hiểu, giáo dục đại học Việt Nam lạc hậu hơn nhiều quốc gia láng giềng như Thái Lan và Malaysia, và còn một chặng đường rất dài phía trước mới có thể tiến đến trình độ của Singapore Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong bối cảnh này, một phân tích so sánh về năng lực nghiên cứu của các quốc gia trong khu vực Đông và Đông Nam Á (gọi chung là Đông Á) dựa trên CBQT sẽ giúp chỉ ra con đường phát triển mà Việt Nam cần xem xét khi tiến hành công cuộc cải cách giáo dục đại học hiện nay (Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2005).
Dưới đây, CBQT chỉ bao gồm những bài báo (article) được phản biện đồng nghiệp và có mặt trong cơ sở dữ liệu Thomson-Reuters của Viện Thông tin quốc tế ISI (http://isiwebofknowledge.com), và có thể truy cập theo địa chỉ http://db.vista.gov.vn/. Dựa trên cơ sở dữ liệu trên có thể đưa ra một bức tranh tổng thể về năng lực nghiên cứu của 11 quốc gia Đông Á xét theo các tiêu chí như số lượng và tốc độ tăng trưởng CBQT, lượng trích dẫn và phần đóng góp của tác giả trong nước so với tác giả nước ngoài, số CBQT trong từng lãnh vực nghiên cứu v.v... Số lượng CBQT và lượng trích dẫn tính trên 01 triệu dân dược sử dụng như một chỉ số về năng lực khoa học quốc gia, từ đó có thể xem xét mối quan hệ tiềm năng giữa đầu ra nghiên cứu khoa học và phát triển kinh tế xã hội. Trong phần minh họa, chúng tôi sẽ so sánh hoạt động nghiên cứu của các trường đại học hàng đầu ở Việt Nam và Thái Lan, từ đó sẽ thấy khoảng cách còn khá xa giữa đại học Việt Nam với các nước khác trong khu vực.


2. Năng suất nghiên cứu khoa học quốc gia

Năm 2008, số CBQT của các quốc gia Đông Á dao động từ 607 ở Philippines đến 94.766 ở Trung Quốc. Nhật Bản, nước đông dân thứ hai trong khu vực và đứng thứ hai với 64039 CBQT. Để có thể so sánh năng lực nghiên cứu giữa các nước với nhau, chúng ta sẽ xét số CBQT trên một triệu dân, chỉ số này được gọi là năng suất nghiên cứu quốc gia - NSNCQG.
Hình 1 cho thấy NSNCQG của các nước tăng trưởng với tốc độ khá ổn định. Việt Nam, Thái Lan và Malaysia có tốc độ tăng trưởng nhanh, khoảng 15-16% hàng năm, song số CBQT trên một triệu dân của Việt Nam vẫn thấp hơn Thái Lan 6,5 lần và Malaysia 9.5 lần. Tuy nhiên, Việt Nam lại cao hơn Indonesia 3 lần; và từ năm 2004 đã vượt qua Philippines, nước có tốc độ tăng trưởng hằng năm chỉ ở mức 5,7%. Trung Quốc tăng trưởng nhanh nhất, khoảng 20% /năm; họ đã vượt qua Thái Lan và chuẩn bị đuổi kịp Malaysia. Trong khi đó, các nền kinh tế tiên tiến có NSNCQG cao nhất trong khu vực lại tăng trưởng chậm hơn, như Hàn Quốc, Đài Loan, và Singapore; khoảng 9-11% hằng năm; Hồng Kông: 5%/năm và Nhật Bản: 1%/năm
Singapo dẫn đầu khu vực về NSNCQG, cao hơn Thái Lan, Việt Nam và Indonesia lần lượt là 30, 170 và 530 lần, tiếp theo là Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông và Nhật Bản (Hình 1). Indonesia, Philippines và Việt Nam tạo thành nhóm các nước có NSNCQG thấp nhất trong vùng, cả ba còn phải trải qua một chặng đường dài phía trước để đạt tới trình độ hiện nay của Thái Lan, Trung Quốc và Malaysia. Nhưng đến lượt các nước này vẫn còn cách xa nhóm các nước phát triển nhất bao gồm Singaeare, Hồng Kông, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan.
Khoảng cách về NSNCQG nói trên phản ảnh trình độ phát triển kinh tế xã hội rất khác nhau trong khu vực. Trên thực tế, NSNCQG tương quan mạnh với bình quân GDP (Hình 1) và mạnh hơn với Chỉ số Phát triển Con người – HDI (UNDP, 2006), một chỉ số tích hợp các tiêu chí được quy chuẩn thống nhất bao gồm bình quân GDP, tỉ lệ người biết chữ, số trẻ em được đi học và tuổi thọ. Đặc điểm này cho thấy nghiên cứu khoa học có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo nên năng lực đổi mới quốc gia (national innovation capability), một mục tiêu không những đặt ra với các nền kinh tế phát triển mà cả với các nước đang phát triển chủ yếu dựa vào nội địa hóa các công nghệ nhập ngoại (Bernardes và Albuquerque, 2003; Liên Hợp Quốc, 2005).


3. Chất lượng nghiên cứu

NSNCQG, như cách định nghĩa trên đây, không nói lên chất lượng các CBQT vốn rất khác nhau không chỉ giữa các tạp chí có mặt trong cơ sở dữ liệu ISI, mà ngay cả giữa các bài báo trong cùng một tạp chí căn cứ trên số lần trích dẫn (citation) của từng bài báo. Cần lưu ý số lần trích dẫn nhiều hay ít còn phụ thuộc vào lãnh vực nghiên cứu, nên ta không nên căn cứ vào đây để so sánh chất lượng các CBQT thuộc những lĩnh vực khoa học khác nhau. Chỉ đối với các cơ sở nghiên cứu đa ngành, hoặc các quốc gia, thì số trích dẫn trung bình mới có thể xem như một tiêu chí đáng tin cậy nhất nói lên chất lượng nghiên cứu của cả tổ chức ấy. Chính vì thế mà số trích dẫn trung bình được xem như một trong các chỉ số nói lên chất lượng nghiên cứu khoa học quốc gia (King, 2004), và được sử dụng để xếp hạng các trường đại học đẳng cấp quốc tế (SJTU, 2008; THES, 2008).

Hình 1. Năng suất nghiên cưú khoa học quốc gia của 11 nước trong khu vực Đông Á tính theo số công bố quốc tế trên một triệu dân .

Hình 2. Tương quan mạnh giữa NSNCQG với bình quân GDP. Dữ liệu năm 2004.

Số trích dẫn trung bình có thể truy cập được từ cơ sở dữ liệu ISI đối với các nước có số CBQT hằng năm ít hơn 10,000. Đối với các nước có số CBQT lớn hơn như Hàn Quốc, Nhật Bản Trung Quốc và Đài Loan, thông tin này không thể rút ra được từ cơ sở dữ liệu ISI, nên chúng tôi phải tính nó bằng cách lấy mẫu ngẫu nhiên (random sampling), số lần lấy mẫu phải đủ lớn để bảo đảm sai số tương đối chuẩn thấp hơn 5%. Kết quả được trình bày trên Hình 3.
Ta có thể thấy ngay số trích dẫn trung bình của các nước trên Hình 3 không hoàn toàn phản ảnh trình độ phát triển khoa học và công nghệ trong khu vực. Rất khó hiểu tại sao công bố quốc tế của Philippines và Việt Nam được trích dẫn nhiều hơn Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan và Hàn Quốc? Tương tự, Hồng Kông và Singapore dẫn đầu trong khu vực về số trích dẫn, bỏ xa Đài Loan và Hàn Quốc. Phần 4 sau đây sẽ lý giải những hiện tượng này qua xem xét đóng góp của các tác giả trong và ngoài nước trong các CBQT.

Hình 3 (bên trái). Trích dẫn trung bình của các CBQT từ 11 quốc gia Đông Á năm 2004. Truy cập cơ sở dữ liệu ISI tháng 8/2009.
Hình 4 (bên phải). Tỉ lệ số tác giả trong nước trong các CBQT của 11 quốc gia Đông Á


4. Nghiên cứu khoa học dựa trên hợp tác quốc tế và bằng nguồn nội lực
Tác giả trong nước và nước ngoài

NSNCQG và số lần trích dẫn trung bình trên đây chưa chú ý đến một thực tế là nhiều tác giả tham gia vào CBQT là người nước ngoài. Cơ sở dữ liệu ISI cung cấp đầy đủ thông tin về số lượng các tác giả nước ngoài này và địa chỉ của họ. Từ hình 4 có thể thấy số tác giả nước ngoài đứng tên trong các CBQT chiếm đến 60-70% ở Indonesia và Philippines, 40% ở Thái Lan và chỉ còn khoảng 20% ở các nước tiên tiến như Nhật Bản, Đài Loan và Trung Quốc. Như vậy đạt đến trình độ cao vẫn cần phải có hợp tác quốc tế để khoa học phát triển bền vững, nhưng nguồn nội lực vẫn phải áp đảo. Có thể tin rằng trong quá trình phát triển của đất nước tỷ lệ tác giả trong nước sẽ tăng lên so với tác giả nước ngoài.
CBQT của các nước có NSNCQG thấp như Philippines, Indonesia và Việt Nam phần lớn do có sự tham gia của các tác giả nước ngoài. Nhiều công bố quốc tế của các nước này được tiến hành tại Bắc Mỹ và Tây Âu thông qua hợp tác khoa học song phương hay các chương trình đào tạo nghiên cứu sinh hoặc sau tiến sỹ từ các nước Đông Á. Các đề tài nghiên cứu ở đây nằm trong chương trình phát triển khoa học của các nước tiên tiến. Thông qua các hình thức nghiên cứu hợp tác như vậy, những quốc gia kém phát triển có cơ hội đào tạo chuyên gia, tích luỹ kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết để xây dựng năng lực nghiên cứu nội địa và cơ sở hạ tầng khoa học cho chính nước mình.
Do đó, để có thể đưa ra một thước đo thực chất hơn về NSNCQG, chúng ta nên dựa vào các CBQT chủ yếu do tác giả trong nước làm ra chứ không phải sử dụng toàn bộ các CBQT. Cũng chính dựa trên các CBQT do nội lực mới có thể đánh giá sát thực hiệu quả các chính sách khoa học và công nghệ của một quốc gia, bởi chúng là kết quả trực tiếp của những đầu tư nội địa và cũng trực tiếp phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.


Những nghiên cứu dùng nguồn nội lực
Nói chung, rất khó đánh giá chính xác liệu một CBQT tạo ra bằng nguồn nội lực hay chủ yếu được tiến hành ở nước ngoài. Để làm việc này chúng tôi sẽ căn cứ trên tiêu chí ai là tác giả đầu mối (corresponding author), một thông tin có thể truy cập từ cơ sở dữ liệu ISI. Cụ thể, một công bố quốc tế có thể xem là do nội lực nếu tác giả đầu mối lấy địa chỉ làm việc ở trong nước. Như vậy, nói theo ngôn ngữ xử lý thông tin, tác giả đầu mối được xem là đại diện (proxy) cho các CBQT dùng nguồn nội lực. Có hai lý do minh chứng cho cách làm này.
Thứ nhất, nếu tất cả các tác giả có mặt trong CBQT đều là người trong nước thì điều này không cần phải bàn cãi. Rất may là trên thực tế số CBQT thuộc loại này thường áp đảo trong số các CBQT có tác giả đầu mối là người trong nước, chúng chiếm đến 60% và 72% trong trường hợp Việt Nam
và Philippines, và tỷ lệ này còn cao hơn ở các nước tiên tiến hơn trong khu vực.
Thứ hai, như ta sẽ thấy trong phần sau và trên bảng 3, bài báo với tác giả đầu mối trong nước thường được trích dẫn ít hơn hẳn so với tác giả đầu mối là người nước ngoài. Nghĩa là, bằng cách dùng proxy này ta đã phân biệt ra hai nhóm CBQT có thuộc tính (chất lượng) khác hẳn nhau.
Theo ISI, tỉ lệ các CBQT do nội lực có tác giả đầu mối trong nước dao động từ 30% với Indonesia cho đến 60% với Thái Lan, 80% với Trung Quốc và khoảng 90% đối với Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Hình 5). Lại một lần nữa có thể thấy đất nước càng phát triển, CBQT do nội lực càng tăng lên.


Trích dẫn các công bố quốc tế do nội lực và do hợp tác quốc tế
Các CBQT do nội lực thường ít được trích dẫn hơn công bố có tác giả đầu mối là người nước ngoài. Xu hướng này tồn tại ngay ở các nước phát triển như Úc (Butler, 2003) và đương nhiên sẽ rõ rệt hơn ở các nước kém phát triển có nguồn lực nội địa yếu kém hơn, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu yêu cầu các trang thiết bị thí nghiệm cao cấp. Trên thực tế, tần số trích dẫn các CBQT do nội lực thấp hơn các công bố do hợp tác quốc tế đến hai lần trong cả hai trường hợp Thái Lan và Việt Nam (Bảng 3).
Đặc điểm này cũng giúp ta lý giải tại sao lượng trích dẫn trung bình các CBQT của Việt Nam và Philippines lại cao hơn Trung Quốc và Đài Loan (hình 3), hoặc các CBQT của Hồng Kông và Đài Loan được thường xuyên trích dẫn hơn Nhật Bản.

Hình 5. Tỉ lệ bài báo có tác giả đầu mối trong nước của các nước Đông Á năm 2008.

Trình độ của một quốc gia trong từng lãnh vực nghiên cứu cũng có thể được đánh giá căn cứ trên các CBQT do nội lực. Ví dụ, Bảng 2 cho thấy tình trạng ở Việt Nam. Trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu, như y học và nông nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế xã hội, tác giả đầu mối của hầu hết các CBQT đều là từ nước ngoài. Ngược lại, về Toán học, một lĩnh vực nghiên cứu mạnh nhất ở Việt Nam, phần lớn tác giả đầu mối là người trong nước.


5. So sánh hoạt động R&D trong các trường đại học hàng đầu Việt Nam và Thái Lan
Để xem đại học Việt Nam đang đứng ở đâu trong khu vực về năng lực nghiên cứu khoa học, chúng ta có thể so sánh các trường đại học hàng đầu ở Việt Nam với hai trường đại học hàng đầu Chulalongkorn và Mahidol của Thái Lan. ĐH Chulalongkorn là một trong số 200 trường đại học đẳng cấp quốc tế theo xếp hạng năm 2005, 2007 và 2008 của Thời báo Giáo dục Đại học (THES, 2008)
Các hoạt động R&D ở Thái Lan được tập trung chủ yếu tại các trường đại học, các trường này chiếm 95% tổng số CBQT của cả nước so với con số 55% của Việt Nam. Bên cạnh ĐH Chulalongkorn và Mahidol, Thái Lan còn có nhiều trường ĐH danh tiếng khác như Chiang Mai, Khon Kaen, Kasetsart, Prince Songkla, Thammasat, và Viện Công nghệ Châu Á, hằng năm mỗi trường này đều công bố hàng trăm công trình trên các tạp chí quốc tế.
Tổng số CBQT của bốn trường đại học hàng đầu Việt Nam (Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Sư phạm Hà Nội và Đai học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) được so sánh với ĐH Chulalongkorn và Mahidol của Thái Lan trên bảng 3 cho năm 2004 và bảng 4 cho năm 2008.
CBQT của các trường ĐH hàng đầu Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây và tăng gấp đôi kể từ năm 2004 và 2008. Mặc dù tăng nhanh nhưng CBQT từ các trường ĐH hàng đầu Việt Nam vẫn thấp hơn ĐH Chulalongkorn hay Mahidol từ 15 đến 30 lần. Từng trường ĐH này công bố nhiều hơn toàn bộ các viện nghiên cứu Việt Nam cộng lại. CBQT của các trường ĐH Thái Lan cũng được trích dẫn thường xuyên hơn các ĐH của Việt Nam (Bảng 3).


Bảng 2 Tác giả đầu mối (TGDM) trong nước và nước ngoài trong các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau của Việt Nam, năm 2008.

Lĩnh vực nghiên cứu TGĐM trong nước TBĐM ngoài nước Tỉ lệ nội địa
Toán học, Tối ưu, Thống kê 95 21 0.82
Vật lý, Quang học, và Vật lý ứng dụng 52 37 0.58
Công nghệ 14 20 0.41
Sức khoẻ cộng đồng, Sức khỏe liên quan Môi trường và Nghề nghiệp 14 25 0.36
Hoá học, Hoá phân tích và Điện hóa 17 35 0.33
Nông nghiệp, Nông học 7 25 0.22
Nghiên cứu miễn dịch; Bệnh truyền nhiễm; khoa nhi; Y học nhiệt đới 14 62 0.18
Sinh thái học; Khoa học Môi trường; Độc chất 4 30 0.12
Tổng cộng các lĩnh vực 301 505 0.3

Tác giả đầu mối Việt Nam chiếm 29% tổng số công bố quốc tế năm 2004 và 37% năm 2008. Số trích dẫn trung bình các công bố quốc tế có tác giả đầu mối là người Việt Nam cũng thấp hơn nhiều so với tác giả đầu mối nước ngoài (Bảng 3)
Ngược lại, tại trường ĐH Chulalongkorn và Mahidol, tác giả đầu mối người Thái chiếm 70% tổng số các công bố quốc tế của các trường này năm 2004 (Bảng 3) và gần 80% năm 2008 (Bảng 4). Số trích dẫn trung bình của họ cũng cao hơn. Chúng ta có thể tin rằng khi khoa học và giáo dục đại học ở Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn, chắc chắn tỉ lệ và chất lượng các công bố quốc tế có tác giả đầu mối trong nước sẽ tăng theo.
Có một chi tiết rất đáng lưu ý trong cột 3 của Bảng 3: số trích dẫn trung bình của 5 viện nghiên cứu hàng đầu Việt Nam (6,5) thấp hơn hẳn con số tính cho toàn quốc (10). Để giải thích điều có vẻ nghịch lý này, chúng ta có thể xem xét các công bố về y học, một lãnh vực không được 5 cơ sở hàng đầu nói trên nghiên cứu. Trong số 82 CBQT năm 2004 về y học, chỉ có 7 công bố có tác giả đầu mối là người Việt Nam, 75 công trình còn lại đều do người nước ngoài làm tác giả đầu mối, có số lượng trích dẫn rất cao. Điều này phần nào ảnh hưởng đến số trích dẫn trung bình của toàn Việt Nam.


6. So sánh CBQT trong các lĩnh vực nghiên cứu
Từ phân tích trên đây, có thể thấy rằng để có được bức tranh tổng thể về các lĩnh vực nghiên cứu tầm quốc tế ở Việt Nam, chúng ta chỉ nên chú ý đến các CBQT do nội lực. Trên bảng 5, chúng ta sẽ so sánh bức tranh của cả Việt Nam với một trường ĐH Chulalongkorn.
Tại ĐH Chulalongkorn, lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu là các khoa học ứng dụng như y tế, hoá học, công nghệ sinh học, công nghệ, khoa học vật liệu, nông nghiệp, v.v.. Ngược lại ở Việt Nam, các lĩnh vực nghiên cứu có nhiều CBQT nhất lại là Toán học và Vật lý (một nửa trong số đó là Vật lý lý thuyết), trong khi đó các sản phẩm nghiên cứu thuộc hai lĩnh vực này lại khá khiêm tốn ở ĐH Chulalongkorn và các ĐH khác của Thái Lan.

Bảng 3 CBQT của một số tổ chức R&D ở Việt Nam và Thái Lan năm 2004. Truy cập cơ sở dữ liệu ISI tháng 8/2009.

Tổng CBQT Tr. dẫn trg bình TGĐM trong nước TGĐM nước ngoài
CBQT Tr. dẫn trg bình CBQT Tr. dẫn trg. bình
Bốn ĐH hàng đầu VN 83 6.6 44 4.5 39 8.8
Viện KHCN Việt Nam 82 6.3 31 4.9 51 7.5
Cả nước Việt Nam 403 10.0 117 6.6 286 14.1
ĐH Chulalongkorn 416 12.0 295 7.1 121 15.3
ĐH Mahidol 465 13.9 320 8.3 145 16.9


Bảng 4 CBQT của một số tổ chức R&D hàng đầu Việt Nam và Thái Lan năm 2008

Tổng số CBQT TGĐM trong nước Tỉ lệ nội địa
Bốn trường ĐH hàng đầu Việt Nam 160 87 54%
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam 156 74 47%
Việt Nam (tổng cộng trong cả nước) 806 307 37%
ĐH Chulalongkorn 869 715 82%
ĐH Mahidol 817 598 73%


Toán học và vật lý lý thuyết chiếm ưu thế trong các CBQT ở Việt Nam có thể được giải thích một phần do ảnh hưởng cuộc chiến tranh kéo dài trước đây (lúc đó chỉ hai hướng nghiên cứu này là khả dĩ có CBQT) và ảnh hưởng của cấu trúc nền khoa học Liên Xô đối với Việt Nam, phần khác, có lẽ do người Việt nam có thiên hướng tư duy trừu tượng. Nhưng đúng hơn, chính sự yếu kém về chất lượng các nghiên cứu ứng dụng và công nghệ ở nước ta mới là lý do tạo nên sự nổi trội quá rõ rệt của hai lãnh vực Toán và Vật lý lý thuyết. Và nhân tố quan trọng lý giải sự yếu kém của các khoa học ứng dụng tại Việt Nam là thiếu đầu tư thích đáng và thiếu một quan niệm đúng đắn về nghiên cứu khoa học và đào tạo đại học, cho rằng các nghiên cứu ứng dụng không nhất thiết phải lấy CBQT làm thước đo chất lượng.
Nhiều tổ chức nghiên cứu khoa học có tiếng ở Việt Nam vắng bóng trên các tạp chí khoa học quốc tế. Ở ĐH Quốc gia Hà Nội với 30.000 sinh viên, các CBQT có tác giả đầu mối trong nước chỉ tập trung ở ba nơi, trường ĐH Công nghệ và hai khoa Toán và Vật lý của trường ĐH Khoa học Tự nhiên. Tương tự, trong số 19 công bố của ĐH Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004, có đến 9 công bố về vật lý.
Có rất ít CBQT bằng nội lực trong các lĩnh vực ứng dụng như chế biến lương thực, nông nghiệp và khai thác tài nguyên, các lĩnh vực hiện chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu của Việt Nam. Nghiên cứu y học bằng nội lực cũng chưa tương xứng với một quốc gia có ít nhiều truyền thống trong lãnh vực này và thường xuyên bị ảnh hưởng bởi những căn bệnh truyền nhiễm nhiệt đới. Trên thực tế, các CBQT về y học chủ yếu thuộc về các tác giả đầu mối nước ngoài (Bảng 2), từ đây ta có thể thấy nỗ lực đào tạo chuyên gia y học ở các nước tiên tiến của Việt Nam trong những năm gần đây vẫn chưa đủ khối lượng tới hạn để hình thành nhiều cơ sở nghiên cứu trong nước đạt trình độ quốc tế.
CBQT cũng rất hiếm trong nghiên cứu đại dương và khí quyển vốn là lĩnh vực rất quan trọng đối với một quốc gia thường xuyên chịu các thảm hoạ thời tiết và có đường biển dài với khu đặc quyền kinh tế rộng lớn đầy tiềm năng. Vì Việt Nam là một trong số các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất về biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong những thập niên tới nên sự thiếu hụt chuyên gia trong lĩnh vực này là một điều thực sự đáng lo ngại.


Kết luận
Năng lực nghiên cứu khoa học của 11 nước Đông Á được đánh giá theo ba chiều kích: số CBQT trên một triệu dân, số trích dẫn trung bình và mức độ phát huy nội lực dựa trên số tác giả đầu mối có địa chỉ trong nước. Trong quá trình đi lên của các nước đang phát triển, thành tích nghiên cứu sẽ tăng lên theo cả ba chiều kích này.
Nghiên cứu này cho thấy lượng CBQT tính trên 1 triệu dân có tương quan chặt chẽ với bình quân GDP và Chỉ số Phát triển Con người (HDI), và do đó, chúng có thể được sử dụng như các tiêu chí thể hiện trình độ phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia. Singapo dẫn đầu khu vực Đông Á với 1549 CBQT trên 1 triệu dân năm 2008, nhiều hơn Thái Lan, Việt Nam và Indonesia đến 30, 170 và 530 lần. Về tốc độ tăng trường, Trung Quốc phát triển nhanh nhất với tốc độ 20%/năm, tiếp sau đó là Malaysia, Thái Lan và Việt Nam với tốc độ 15-16%/năm; trong khi đó các nước phát triển hơn có tốc độ tăng trưởng thấp hơn như Hồng Kông 5%/năm và Nhật Bản: 1%/năm.
Các nước trong khu vực cũng rất khác nhau về mức độ phát huy nội lực trong nghiên cứu khoa học nếu xét trên tỉ lệ các công bố quốc tế có tác giả đầu mối trong nước. Tỉ lệ này tăng từ 30% ở Indonesia, 60% ở Thái Lan đến 90% ở Nhật Bản và Đài Loan.
Các bài viết có tác giả đầu mối nước ngoài được trích dẫn nhiều hơn tác giả đầu mối trong nước. Khi năng lực nghiên cứu khoa học và giáo dục đại học của đất nước tăng lên, tỉ lệ và lượng trích dẫn các bài nghiên cứu có tác giả đầu mối trong nước chắc chắn sẽ tăng lên.
Cho tới nay, tổng số CBQT của cả Việt Nam vẫn còn ít hơn một trường đại học Thái Lan như Chulalongkorn hay Mahidol. Hơn nữa, trong khi các tác giả đầu mối trong nước chiếm gần 80% tổng số các CBQT của Thái Lan thì con số này ở Việt nam chỉ là 38%. Nghiên cứu khoa học của Thái Lan có mối liên hệ rất chặt chẽ với đào tạo đại học: 95% CBQT của Thái Lan là do các trường đại học tiến hành so với con số 55% của Việt Nam. Toán học và vật lý lý thuyết thường là hai lãnh vực có nhiều công bố
quốc tế nhất của Việt Nam. Trong khi đó rất nhiều dự án công nghệ và ứng dụng được tiến hành ở Việt Nam (Ca và Hung, 2008), nhưng các kết quả ít xuất hiện trên các tạp chí quốc tế. Từ đây nảy sinh mối quan ngại về chất lượng và ý nghĩa của các nghiên cứu ứng dụng đó.

Bảng 5. CBQT của tác giả đầu mối trong nước năm 2007: so sánh trường ĐH Chulalongkorn với các cơ sở nghiên cứu của Việt Nam

ĐH Chulalongkorn, Thái Lan Toàn Việt Nam
Lĩnh vực nghiên cứu CBQT Lĩnh vực nghiên cứu CBQT
Hóa học 97 Toán học 58
Y tế 72 Vật lý 39
Kỹ thuật 51 Kỹ thuật 15
Sinh hoá học, sinh học 36 Khoa học và Kỹ thuật vật liệu 12
Vật liệu tổng hợp, bong sợi 28 Y tế 11
Khoa học Polime 26 Khoa học Máy tính 10
Thú y 20 Hóa học 9
Công nghệ sinh học và vi sinh 19 Môi trường; Địa lý 7
Thực vật học 14 Dinh dưỡng 5
Nông nghiệp 13 Nghiên cứu Châu Á 5
Vi sinh học 11 Tự động hoá và điều khiển học 4
Phục hồi chức năng 9 Làm vườn 4
Dược học và Dược phẩm 8 Năng lượng và nhiên liệu 3
Môi trường và địa lý 7 Thực vật học 3
Các ngành khác (Ít hơn 7 CBQT) 158 Các ngành khác (Ít hơn 3 CBQT) 50
Tổng cộng 569 Tổng cộng 234

Kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường hơn hai thập kỷ trước đây, thu nhập bình quân của Việt Nam đã vượt quá 1000 USD, ngưỡng các nước có “thu nhập trung bình dưới”. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu tập trung vào các ngành có giá trị gia tăng thấp như nông nghiệp, khai thác tài nguyên và chế biến công nghiệp nhẹ (Dapice, et. al. 2008). Để nâng cao giá trị gia tăng của hàng hóa và hội nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt nam cần nhiều lực lượng lao động có tay nghề hơn, đặc biệt trong các lĩnh vực có liên quan đến khoa học và công nghệ, với số lượng nhiều hơn mức mà các trường đại học có thể đào tạo hiện nay.
Để đáp ứng được nhu cầu này, các trường đại học Việt Nam cần đổi mới triệt để (Cộng Hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2005). Cần phải chuyển nhiều trường đại học Việt Nam từ giảng dạy là chính thành các đại học nghiên cứu. Mặc dù chính sách của Chính phủ đã chính thức đề cập tới vấn đề này, nhưng sự chuyển biến vẫn còn chậm chạp và các chính sách cụ thể vẫn chưa đủ khuyến khích nghiên cứu khoa học chất lượng quốc tế trong các trường đại học.
Từ những phân tích trên đây có thể đưa ra những khuyến nghị về cách tiếp cận nhằm tái cấu trúc hệ thống khoa học và giáo dục đại học ở Việt Nam. Cần phải tập trung nhiều hơn nguồn lực nghiên cứu về các trường đại học, đặc biệt là các trường đại học nghiên cứu đa ngành tuân theo những chuẩn mực được quốc tế thừa nhận trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Chỉ bằng cách nâng lên tầm quốc tế các cơ sở nghiên cứu khoa học của Việt Nam thì mới giải quyết được tình trạng thiếu hụt chuyên gia trình độ cao trong những lĩnh vực như y tế, nông nghiệp, công nghệ và nhiều lĩnh vực ứng dụng cũng như khoa học xã hội khác. Làm được điều đó, các trung tâm xuất sắc (center of excellence) trong nghiên cứu, đào tạo và sáng tạo công nghệ sẽ được hình thành và tạo nên một bộ mặt mới cho nền khoa học và giáo dục của Việt Nam .
Phạm Duy Hiển (theo tiasang.com.vn)
 

-----------------------------------

*(dịch từ bản tiếng Anh trên tạp chí Higher Education Vol. 60, No 4, 2010)
Tài liệu tham khảo
Bernardes, A., Albuquerque, E., 2003. Cross-over, thresholds, and interactions between science and technology: lessons for less developed countries. Research Policy 32, 865-885.
Butler, L., 2003. Explaining Australia’s increased share of ISI publications – the effects of a funding formula based on publication counts. Research Policy 32, 134-155.
David A. King (2004). The scientific impact of Nations. Nature, No 430. July 2004.
SJTU (Shanghai Jiao Tong University) 2008. Academic Ranking of World Universities 2008. Retrieved September 30, 2008, from http://www.arwu.org/rank2008/EN2008.htm.
Socialist Republic of Vietnam (2005), Resolution No. 14/2005/NQ-CP On Fundamental and Comprehensive Higher Education Reform in Vietnam for the period of 2006 – 2020, 2 November 2005
THES, 2008. The Times Higher Education World Rankings 2008. Retrieved September 30, 2008, from http://www.timeshighereducation.co.jk/.
Ca, T. N., Hung, N. V., 2008. The Evolving Role of Academic Institutions in the Knowledge Economy: The Case of Vietnam. ISBN: 978-91-86113-01-8. Published online at http://developinguniversities.blogsome.com/ by Research Policy Institute, Lund, Sweden, 2008
United Nations, 2005. World Investment Report – Transnational Corporations and the Internationalization of R&D, New York and Geneva, 2005.
UNDP, 2006. Human Development Report. New York 2006.
Dapice O. Dapice, et. al. “Choosing Success: The Lessons of East and Southeast Asia and Vietnam’s Future,” Harvard Kennedy School, 2008.

Cập nhật ( 03/11/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.”

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com