Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Bộ Khoa học & Công nghệ Việt Nam, Phóng viên Báo điện tử Vietnamnet đã có cuộc phỏng vấn Bộ trưởng Hoàng Văn Phong.
Xin giới thiệu nội dung cuộc phỏng vấn đó sau đây.
Phóng viên (PV): Thưa Bộ trưởng, đã nửa thế kỷ kể từ ngày thành lập Bộ Khoa học & Công nghệ (mà tiền thân là Ủy Ban Khoa học Nhà nước). Xin Bộ trưởng cho biết sự thay đổi cơ bản hiện nay so với ngày đầu mới thành lập như thế nào?
|
Bộ trưởng Hoàng Văn Phong |
Bộ trưởng Hoàng Văn Phong (BT HVP): Bộ Khoa học và Công nghệ, tiền thân là Uỷ ban Khoa học Nhà nước được thành lập năm 1959 theo sắc lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với hai nhiệm vụ chủ yếu là: quản lý công tác khoa học và tổ chức đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đời sống và quốc phòng. Đến nay, với chức năng là cơ quan tham mưu giúp Chính phủ quản lý thống nhất về khoa học và công nghệ, nhiệm vụ của Bộ đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực gồm nghiên cứu và ứng dụng khoa học; phát triển và chuyển giao công nghệ; phát triển tiềm lực KH&CN; sở hữu trí tuệ; tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; năng lượng nguyên tử và an toàn hạt nhân; doanh nghiệp khoa học và thị trường công nghệ; thống kê và thông tin KH&CN; hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ.
Qua 50 năm xây dựng và phát triển, hệ thống cơ quan khoa học bắt đầu từ 8 viện nghiên cứu đến nay đã bao gồm 1.500 viện, trung tâm nghiên cứu thuộc mọi thành phần kinh tế. Số lượng nguồn nhân lực có khả năng tham gia nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trên toàn quốc đã đạt trên 2,6 triệu người, trong đó có gần 60 nghìn người làm việc tại các viện nghiên cứu, trường đại học theo 664 chuyên ngành KH&CN và tại hàng trăm doanh nghiệp khoa học cũng như các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp.
PV: Phương châm chung, từ “Khoa học kỹ thuật là then chốt” trước kia cho đến “khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” hiện nay, theo Bộ trưởng đã được thực hiện như thế nào? Nền khoa học – công nghệ của chúng ta đã thực sự là động lực của sản xuất nói riêng và nền kinh tế nói chung? Đã có thể nói đến một nền “công nghệ Việt Nam” chưa?
BT HVP: Trong suốt chặng đường 50 năm qua, KH&CN Việt Nam đã luôn đồng hành cùng với sự phát triển của đất nước, có nhiều đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp bảo vệ đất nước trong thời chiến, xây dựng và phát triển đất nước trong thời bình.
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, KH&CN Việt Nam đã được đặt lên vị trí quan trọng, không chỉ là động lực phát triển kinh tế - xã hội mà còn là "quốc sách hàng đầu". Trong vai trò này, KH&CN đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, đầu tư tăng cường tiềm lực. Đầu tư cho KH&CN đạt mức ổn định 2% tổng chi ngân sách (khoảng 0,5% GDP). Mức đầu tư này tuy còn khiêm tốn so với nhiều nước trong khu vực, vẫn còn khoảng cách xa với các nước công nghiệp phát triển (khoảng 3% GDP/năm) nhưng đã thể hiện nỗ lực và quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với sự phát triển KH&CN. Cùng với sự tăng cường đầu tư, hệ thống thể chế pháp lý và các cơ chế, chính sách đã hoàn thiện hơn, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh và phát huy hiệu quả hoạt động KH&CN trong các ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và cuộc sống hàng ngày của nhân dân.
|
Những giải thưởng sáng tạo khoa học vẫn được tổ chức tôn vinh thường niên và nhận được sự ủng hộ, tham dự nhiệt tình của đông đảo nhà khoa học và quần chúng nhân dân - Ảnh: VTV |
Đặt trong bối cảnh chung của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn vừa qua, KH&CN Việt Nam đã góp phần tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của toàn xã hội về vai trò động lực của khoa học và công nghệ đối với phát triển kinh tế - xã hội, huy động hàng vạn nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và hàng triệu người dân phát huy trí tuệ, khơi dậy sức sáng tạo, sự cống hiến cho phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước. Những đóng góp của thành tựu KH&CN về giống, quy trình canh tác, bảo quản, chế biến trong lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ sản; về cơ khí - chế tạo máy, công nghệ xây dựng trong công nghiệp; về chẩn đoán, điều trị bệnh, sản xuất vắc-xin trong y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân; về ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông trong các lĩnh vực dịch vụ đã góp phần quan trọng tạo ra được các sản phẩm Việt Nam có giá trị thương phẩm cao, sản lượng xuất khẩu lớn, mang lại lợi nhuận cho nền kinh tế quốc dân, đưa thu nhập bình quân đầu người từ vài trăm USD lên hơn 1.000 USD (2008).
Nhìn nhận về vai trò của KH&CN trong phát triển KT-XH thời gian qua cũng để thấy rằng, trình độ khoa học, năng lực công nghệ của đất nước đã có bước phát triển mới, trong một số lĩnh vực đã đạt hoặc tiếp cận được trình độ chung của khu vực và thế giới. Nói cách khác, Việt Nam đã xây dựng được một "nền công nghệ" phù hợp và phục vụ hiệu quả cho sự phát triển của đất nước mặc dù chưa được đồng bộ và thật hiện đại.
PV: Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã có Luật Khoa học – Công nghệ (2000) và Bộ đã có nhiều chính sách mới trong quản lý khoa học công nghệ. Những việc đó đã thực sự tạo điều kiện cho việc phát triển KH&CN nước ta chưa?
BT HVP: Thực hiện đường lối và chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tập trung huy động toàn lực đội ngũ các nhà lập pháp và hoạch định chính sách KH&CN xây dựng và hoàn thiện nền tảng pháp lý và đưa hệ thống các đạo luật chuyên ngành vào thực tiễn cuộc sống: Luật Bảo vệ Môi trường (1993), Luật Khoa học và Công nghệ (2000), Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật Chuyển giao công nghệ (2006), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (2006), Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (2007), Luật Năng lượng nguyên tử (2008), Luật Công nghệ cao (2008) và Luật Đo lường (hiện đang được xây dựng để trình Quốc hội năm 2010). Chỉ trong thời gian ngắn đã có 8 Luật và các văn bản hướng dẫn thực hiện ra đời và đi vào cuộc sống. Hệ thống các Luật này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
Cùng với việc tích cực đổi mới về công tác kế hoạch, đổi mới về đầu tư tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục đổi mới cơ chế tổ chức và hoạt động KH&CN nhằm giải phóng tối đa năng lực nghiên cứu, sáng tạo của mọi tổ chức và cá nhân trong hoạt động KH&CN, điển hình là Đề án đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH&CN (2004), Chiến lược phát triển KH&CN đến năm 2010 (2003), Quy chế quản lý hoạt động khoa học xã hội nhân văn (Nghị định 201/2004/NĐ-CP), Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia (Nghị định 122/2003/NĐ-CP), Quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập Nghị định 115/2005/NĐ-CP), Doanh nghiệp KH&CN (Nghị định 80/2007/NĐ-CP)…; xây dựng cơ chế, chính sách nhằm tạo ra bước đột phá mới trong hoạt động KH&CN gắn với thị trường và doanh nghiệp, coi doanh nghiệp là trọng tâm của đổi mới công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp nghiên cứu đổi mới công nghệ (Nghị định 119/1999/NĐ-CP), hỗ trợ doanh nghiệp phát triển tài sản trí tuệ (Quyết định 68/2005/QĐ-TTg), phát triển thị trường công nghệ (Quyết định 214/2005/QĐ-TTg)…
Hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách tiến bộ này đã có tác động tích cực đến đời sống kinh tế - xã hội và KH&CN trong những năm qua.
PV: Bộ trưởng nhận định thế nào về cơ sở vật chất dành cho nghiên cứu khoa học – công nghệ (đầu tư cho R&D, trang thiết bị…) và đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ của chúng ta hiện nay? Triển vọng sắp tới như thế nào?
BT HVP: Như đã đề cập ở trên, đầu tư cho KH&CN hiện nay tuy chưa lớn, vẫn còn có khoảng cách nếu so với nhiều nước trong khu vực, nhưng cũng đã mang lại nhiều thay đổi tích cực về tiềm lực KH&CN đất nước. Nhiều cơ sở nghiên cứu (viện, trường) và doanh nghiệp đã được trang bị các thiết bị nghiên cứu tương đối hiện đại. Nhà nước cũng đã đầu tư để xây dựng một số phòng thí nghiệm hiện đại nhằm tạo thêm điều kiện cho các nhà khoa học thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau có thể thực hiện các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu, đạt trình độ quốc tế.
|
|
|
|
Lực lượng cán bộ KHCN và cơ sở vật chất cho KHCN ngày càng được chú trọng tăng cường |
Với sự quan tâm, đầu tư tăng cường tiềm lực như vậy, lực lượng cán bộ KH&CN cũng đã có sự phát triển lớn mạnh hơn không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng. Đúng là hiện nay, trên một số lĩnh vực nghiên cứu có hiện tượng thiếu hụt lực lượng do tuổi tác, tuy nhiên trong nhiều lĩnh vực mới, "nóng" được thế giới quan tâm (như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ truyền thông,...) lực lượng nghiên cứu đã có sự trẻ hoá và đặc biệt là có sự hội nhập cao với trình độ của quốc tế.
Một điểm đáng quan tâm nữa là hiện nay lực lượng cán bộ khoa học không chỉ bó hẹp trong các trường, viện nghiên cứu mà có sự bổ sung của lực lượng cán bộ, chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý công nghệ trong các doanh nghiệp, đã tham gia với nhiều hình thức khác nhau (nghiên cứu, thiết kế, chế tạo sản phẩm công nghệ; thực hiện đổi mới công nghệ, ...). Đây cũng là xu hướng mới, phản ánh sự phát triển của nền kinh tế nước ta đã vươn lên một trình độ mà trong đó KH&CN dần được xem như là lực lượng sản xuất trực tiếp mang lại giá trị gia tăng cao.
PV: Nhân đây xin hỏi thêm Bộ trưởng, sự tách rời giữa các trường Đại học và các Viện nghiên cứu Khoa học công nghệ hiện nay đang cản trở lớn cho sự phát triển khoa học công nghệ và cho việc nâng cao chất lượng đào tạo. Bộ trưởng có đề xuất gì khắc phục tình trạng đó không?
BT HVP: Việc xây dựng cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả nghiên cứu thông qua mối tương tác giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp hiện nay không chỉ là vấn đề của nước ta mà của nhiều quốc gia công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Đức, Pháp, ...và các quốc gia đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ,... đang gặp phải. Ở mỗi quốc gia, phụ thuộc vào trình độ phát triển, quan hệ giữa đào tạo, nghiên cứu và kinh doanh được đặt ra ở những góc độ, bình diện khác nhau, trong đó Việt Nam là một trường hợp cụ thể.
Với Việt Nam, để gắn kết được hoạt động nghiên cứu ở viện, trường với tinh thần kinh doanh của doanh nghiệp, Bộ KH&CN đã và đang nỗ lực đổi mới cơ chế, chính sách quản lý tổ chức KH&CN (trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, chuyển đổi cơ chế tài chính theo kiểu cơ quan hành chính sang cơ chế tài chính theo tổ chức sự nghiệp,...) đồng thời tăng cường đầu tư tiềm lực nhằm hình thành nên được nhiều tổ chức KH&CN, doanh nghiệp KH&CN có khả năng thu hút, quy tụ được các nhà khoa học (từ các viện nghiên cứu, các trường đại học) tập trung tạo ra các sản phẩm từ kết quả nghiên cứu có khả năng thương mại hoá và mang lại giá trị kinh tế cao.
PV: Theo Bộ trưởng, khoảng cách giữa trình độ khoa học- công nghệ của Việt Nam so với thế giới và các vùng lân cận hiện nay như thế nào?
BT HVP: Đồng hành cùng đất nước trong nửa thế kỷ qua, nền KH&CN Việt Nam cũng đã trải qua những thời khắc khó khăn của 30 năm chiến tranh và gần 20 năm sau đó là quá trình hàn gắn vết thương chiến tranh, chung tay xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Lực lượng cán bộ KH&CN đã gánh vác nhiều trách nhiệm khác nhau trong từng giai đoạn. Với điều kiện và hoàn cảnh của một quốc gia còn nghèo, có thu nhập thấp, nền KH&CN Việt Nam còn chậm phát triển so với một số nước trong khu vực và thế giới là điều không tránh khỏi.
Tuy nhiên, cộng đồng KH&CN Việt Nam, được sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, đã không ngừng nỗ lực vươn lên, khắc phục những khó khăn, trở ngại để thu hẹp khoảng cách so với các nước trong khu vực, đặc biệt trên các lĩnh vực mà chúng ta có thế mạnh. Ví dụ như:
|
Nông nghiệp là thế mạnh của Việt Nam - Ảnh: SGGP |
+ Nhờ những thành thành tựu trong chọn tạo giống và cải tiến quy trình canh tác, trong vòng gần 20 năm qua, năng suất lúa bình quân năm 2008 đạt 52,23 tạ/ha gấp 2,03 lần năm 1990 (25,7 tạ/ha) và Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực triền miên đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới.
+ Các kết quả nghiên cứu về sản xuất giống, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản đã đạt trình độ cao trong khu vực, góp phần quan trọng vào tăng trưởng vượt bậc của ngành thuỷ sản với kim ngạch xuất khẩu đạt 4,4 tỷ USD (2008), gấp 22 lần kim ngạch năm 1990 và gấp 220 lần năm 1980. Các mặt hàng thuỷ sản chế biến xuất khẩu của Việt Nam từng bước đảm bảo yêu cầu về chất lượng, theo tiêu chuẩn HACCP, đáp ứng thị trường Nhật Bản, EU và Mỹ.
+ Ngành cơ khí của chúng ta đã khẳng định mình với việc tự nghiên cứu, thiết kế và chế tạo được nhiều thiết bị cơ khí chính xác, siêu trường, siêu trọng và có giá trị rất lớn. Cổng trục 450 tấn (cao 85 m, dài 120m, tự trọng 3.000 tấn) phục vụ Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Nam Triệu, được chế tạo với tỉ lệ nội địa hoá 90% là thiết bị siêu trường, siêu trọng lần đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam và khu vực Đông Nam Á; chế tạo thành công cổng trục 700 tấn phục vụ nhà máy đóng tàu Dung Quất, cần trục 500 tấn phục vụ nhà máy thuỷ điện Se San, cẩu 1.200 tấn và hệ thống xy lanh thủy lực phục vụ thuỷ điện Sơn La thay thế hàng nhập ngoại và rút ngắn thời gian thi công, là những sản phẩm ra đời từ sự đầu tư KH&CN về thiết kế, công nghệ chế tạo. Chúng ta cũng hoàn toàn làm chủ công nghệ chế tạo máy biến áp công suất lớn tới 125 MVA ở cấp điện áp cao tới 220 kV. Các sản phẩm cơ khí này đã giúp nước ta giảm hàng trăm triệu USD để nhập khẩu thiết bị.
PV: Theo Bộ trưởng, Nhà nước có chủ trương gì để rút ngắn khoảng cách giữa trình độ khoa học- công nghệ của Việt Nam so với thế giới và các nước trong khu vực?
BT HVP: Với mục tiêu đưa đất nước ta đến năm 2020 có nền kinh tế đạt mức trung bình với thu nhập bình quân đầu người khoảng 3.000 – 4.000 USD, chúng ta cần phải xây dựng được một nền khoa học và công nghệ có trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực và thế giới. Trong đó, tập trung ứng dụng và làm chủ những công nghệ tiên tiến trong các ngành công nghiệp then chốt của nền kinh tế (năng lượng, khai khoáng - luyện kim, cơ khí-chế tạo máy, hoá chất, công nghệ hạ tầng, điện tử) làm nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; phát triển đột phá ở các lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá và công nghệ vật liệu, làm cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, sản xuất ra sản phẩm hàng hoá có giá trị gia tăng cao, khả năng cạnh tranh lớn.
PV: Xin trân trọng cám ơn Bộ trưởng đã dành thời gian trả lời những băn khoăn, thắc mắc của chúng tôi và đồng thời cũng của đông đảo độc giả VietNamNet.
|