Tuần -12 - Ngày 06/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Chuyên mục PT nông thôn
Xây dựng phát triển nông thôn mới thời kỳ đất nước hội nhập
20/10/2009

 

Theo Ðề án Chương trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới (NTM) được Ban Bí thư T.Ư Ðảng thông qua, mô hình NTM được thực hiện thí điểm tại 11 xã, đại diện cho các vùng kinh tế - văn hóa trong cả nước. So với 19 tiêu chí quốc gia về NTM, trong khi một số xã thuận lợi dễ đạt các chỉ tiêu đề ra, thì hầu hết các xã còn lại gặp không ít khó khăn. Nghị quyết của T.Ư Ðảng, Chương trình của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã đề ra nhiều giải pháp xây dựng NTM, nhưng vẫn còn nhiều việc cần phải giải quyết, đặc biệt là về quy hoạch, chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao đời sống nông dân... 

Phần 1: Diện mạo mới của làng, xã

Làng nông thôn mới Hoành Đồn
(Hải Đường, Hải Hậu, Nam Định).
Trên vùng đất lúa
Hải Ðường, huyện Hải Hậu (Nam Ðịnh) là xã thuần nông, có trình độ thâm canh khá. Năm 2008, năng suất lúa của xã đạt bình quân 125 tạ/ha, sản lượng lương thực đạt 7.121 tấn (bình quân lương thực gần 600kg/người), giá trị sản xuất đạt 50 triệu/ha/năm. Người dân trong xã có nhiều nghề như đan móc sợi, nề, cơ khí, chế biến cau, gia công may, trồng cây cảnh, sản xuất vật liệu xây dựng, mộc... Trên địa bàn xã, có làng Hoành Ðồn là 1/17 làng trong cả nước được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) chọn làm làng điểm xây dựng NTM từ năm 2007, được đánh giá khá thành công.

Ðến làng Hoành Ðồn, xã Hải Ðường, chúng tôi ngỡ ngàng trước một quy hoạch khoa học và môi trường xanh, sạch sẽ, nếp sống văn minh mà ít thấy ngôi làng nào ở đồng bằng Bắc Bộ có được. Trưởng ban PTNT mới của làng, anh Nguyễn Văn Dương cho biết: Sau hơn hai năm xây dựng, với sự đầu tư 660 triệu đồng của Nhà nước và đóng góp của nhân dân, Hoành Ðồn đầu tư hơn một tỷ đồng xây dựng quy hoạch hạ tầng, khuôn viên các khu dân cư, mở rộng đường nhánh trong ngõ, hệ thống thoát nước, cải tạo vườn tạp, phát triển nghề trồng nấm... Ðặc biệt, chương trình nâng cao ý thức xây dựng tính cộng đồng, nếp sống văn hóa, tạo không khí thi đua sản xuất cho người dân... Thành công của Hoành Ðồn tạo điều kiện để Hải Ðường được Ban Bí thư T.Ư Ðảng chọn là 1/11 xã thí điểm mô hình NTM. Chủ tịch UBND xã Nguyễn Trung Dũng cho biết: Hải Ðường là xã trung bình khá của huyện, có quy hoạch hạ tầng giao thông, trường học, hệ thống thủy lợi, nhà văn hóa, khu dân cư, nay chỉ cần tôn tạo, nâng cấp là xong. Xã có 26 xóm, thì cả 26 xóm đều có nhà văn hóa. Hai trường tiểu học, mầm non đều đạt chuẩn quốc gia, phấn đấu năm tới hai trường trung học cơ sở đạt chuẩn, thu nhập bình quân đạt bảy triệu đồng/người/năm... Mặc dù vậy, sản xuất nông nghiệp ở đây vẫn nhỏ lẻ, thiếu quy hoạch, chưa tạo được vùng sản xuất hàng hóa, ngành nghề nông thôn chậm phát triển. Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp. Nhìn chung, vấn đề việc làm, đời sống, môi trường nông thôn đang là những thách thức lớn đặt ra với đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hải Ðường trong quá trình xây dựng NTM.

Hiện nay, trong 19 tiêu chí quốc gia về NTM, Hải Ðường có năm tiêu chí đạt: Ðiện, nhà ở dân cư, hình thức tổ chức sản xuất, hệ thống tổ chức chính trị xã hội và an ninh, trật tự xã hội. Theo Chủ tịch UBND xã Nguyễn Trung Dũng, khó khăn lớn nhất ở Hải Ðường là phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất, cơ cấu lao động. Hiện nay lao động nông nghiệp của xã chiếm tới 85%, còn lại 15% làm nghề và dịch vụ kinh doanh. Các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, chưa có làng nghề, quy mô chăn nuôi chưa mạnh, do đó, việc chuyển đổi lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ và nâng cao mức thu nhập của người dân là rất khó. Ðể đạt mức thu nhập từ bảy triệu đồng như hiện nay lên chín triệu đồng/người/năm theo yêu cầu, cần khoảng 5-7 năm. Thời gian xây dựng NTM của xã chỉ còn hơn hai năm, trong khi khối lượng công việc còn rất lớn. Nguồn vốn đầu tư chưa được chủ động và việc triển khai xây dựng nông thôn mới giao cho xã khá nhiều từ khâu xây dựng dự án, khảo sát, giám sát, thiết kế thi công..., trong khi trình độ năng lực của cán bộ xã có hạn. Ngân sách của địa phương hạn hẹp nên một số công trình đòi hỏi kinh phí đối ứng khó khăn.

Ở vùng đất trung du

Nằm ở phía tây bắc huyện Lạng Giang (Bắc Giang), xã Tân Thịnh có địa hình bán sơn địa, ruộng bậc thang xen lẫn gò đồi. Những ngày tháng 10 này, chuyện thời sự nhất được người dân và chính quyền trong xã quan tâm là việc xây dựng NTM. Ði khắp các thôn làng, ở đâu cũng thấy người dân bàn bạc về chuyện đóng góp, chuyện quy hoạch, chuyện việc làm. Trụ sở UBND xã, nhà văn hóa "nóng ran" bởi các cuộc họp của dân. Lẫn trong niềm vui bừng lên trên những khuôn mặt người dân, vẫn là chút âu lo về việc làm, về tương lai...

Tình cờ có mặt tại nhà bác Ðặng Văn Chức ở thôn Lèo, chúng tôi chứng kiến buổi nói chuyện sôi nổi. Căn nhà ba gian, mái ngói, nền gạch rất sạch và thoáng mát. Ngày nông nhàn, nhiều bác trai, bác gái ngồi góp chuyện bên ấm trà đặc quánh. Chủ đề mọi người nói đến là chuyện đóng tiền xây dựng NTM. Bác Chức nhẩm tính, từ nay đến hết năm, nhà bác sẽ đóng chừng một triệu đồng xây dựng hệ thống kênh mương và làm đường. Năm 2010, chưa biết đóng bao nhiêu. Chúng tôi hỏi bác Chức:

- Gia đình bác có thấy mức đóng góp cao quá không?

- So với thu nhập của nông dân như chúng tôi thì hơi cao, nhưng cũng phải cố để xây dựng NTM. Với lại, mình già rồi, đóng góp để cho con, cho cháu...

Nhà bác Chức có ba người con, nhưng cả ba đều đi làm ăn xa, chỉ còn hai bác ở lại thôn Lèo. Tuy đã lớn tuổi, nhưng hai bác vẫn canh tác bốn sào lúa, màu, nuôi một lợn nái và hai lợn choai, tổng thu nhập mỗi năm chừng 20 triệu đồng. Bác Chức bảo: "Chả giấu gì nhà báo, mỗi năm vợ chồng già này cũng để dành được vài triệu, lo dưỡng già. Thực ra, vườn ruộng ít thế, nhưng biết cách làm và chịu khó thì vẫn sống thoải mái. Có điều, lớp trẻ bây giờ, cứ nôn nóng làm giàu ở đâu đâu, bí lắm mới về lập nghiệp ở quê. Lo lắm, giờ ở thôn toàn người già, trẻ em".

Nỗi lo của bác Chức là có cơ sở. Cả thôn Lèo có 250 hộ, nhưng chỉ còn chừng hai chục thanh niên vừa học xong trung học phổ thông vẫn bám trụ là vì "chưa kịp" đi đâu. Hầu hết thanh niên đi làm thuê khắp nơi, vào cả miền nam. Nhân nói đến chuyện thu nhập, bác Ðặng Ðình Lượng, 72 tuổi, nguyên là Chủ nhiệm HTX nông nghiệp xã Tân Thịnh cho biết: Ðếm cả thôn, hộ có thu nhập 20 triệu đồng/năm chỉ chừng hơn chục hộ, vì ngoài vườn, đồi và ruộng bậc thang ra, thì không còn thu nhập gì khác. Nếu xây dựng NTM mà chỉ khang trang về cơ sở hạ tầng thì chưa đủ, cần tính toán đến thu nhập và việc làm của người dân nữa.

Bác gái Lê Thị Thức, nãy giờ ngồi theo dõi câu chuyện, xen vào: "Giờ đồng ruộng cấy lúa rất ít, đã chuyển sang trồng rau dưa xuất khẩu, chăn nuôi lợn siêu nạc, gà siêu trứng. Tiếng là làm nông nghiệp có lãi, nhưng dịch bệnh cứ lo canh cánh, giá sản phẩm thấp, trong khi chi phí giống, phân bón, giá tiêu dùng tăng cao, nông dân chúng tôi có bao giờ giàu được đâu".

Ở Tân Thịnh, nông dân thôn Lèo được coi là điển hình về làm ăn năng động. Nhờ thuận lợi về nước tưới, khi huyện, xã đưa giống cây, con mới vào đồng ruộng, người dân trong thôn đều hưởng ứng. Toàn thôn có 100 mẫu canh tác, trong vụ đông, vụ hè đều được phủ kín thuốc lá, dưa bao tử, rau, ngô xuất khẩu. Nhờ làm ăn tốt, việc huy động nhân dân góp vốn đối ứng xây dựng NTM rất thuận lợi. Trưởng thôn Ðặng Ðình Cương cho biết, tổng số tiền bà con đóng góp xây dựng từ nay đến cuối năm khoảng 100 triệu đồng, mặc dù UBND tỉnh chỉ vừa phê duyệt đề án, bắt đầu triển khai từ giữa tháng 10 này, nhưng buổi họp dân đầu tháng 9, thôn thu được gần 20 triệu đồng.

Theo đề án xây dựng xã NTM Tân Thịnh của UBND tỉnh Bắc Giang, từ nay đến 2011, Tân Thịnh sẽ đầu tư 91,267 tỷ đồng cho xây dựng NTM, trong đó ngân sách Nhà nước hỗ trợ khoảng 37,3 tỷ đồng, ngân sách địa phương hỗ trợ 8,3 tỷ đồng, nhân dân đóng góp 8,5 tỷ đồng, còn lại huy động từ các nguồn khác. Cơ cấu vốn đầu tư sẽ dành 83,1% cho xây dựng cơ bản, vốn sự nghiệp 14,3% và vốn phát triển sản xuất nông nghiệp chỉ là 2,6%. Mặc dù là xã trung du, nhưng diện tích đất nông nghiệp của Tân Thịnh chỉ có 520 ha, trong đó đất lâm nghiệp còn 3,4 ha trồng rừng rải rác. Xã có vùng thuốc lá 170 ha/năm, vùng dưa chuột, ngô bao tử xuất khẩu 50 ha/năm. Năm 2008, thu nhập bình quân của xã đạt 11,9 triệu đồng/năm, cao hơn 0,38 lần bình quân tỉnh Bắc Giang; GDP đạt 104 tỷ đồng, trong đó từ sản xuất nông nghiệp 45 tỷ đồng, từ dịch vụ và ngoài tỉnh chuyển về 59 tỷ đồng. Ðây là mức thu nhập khá cao của một xã vùng trung du, là yếu tố quan trọng để Tân Thịnh được lựa chọn là xã điểm xây dựng mô hình NTM.

Qua rà soát, UBND xã Tân Thịnh xác định, so với 19 tiêu chí xã NTM do Chính phủ ban hành, Tân Thịnh đã đạt tám tiêu chí về trường học, bưu điện, thu nhập bình quân đầu người/năm, tỷ lệ hộ nghèo, có HTX hoạt động hiệu quả, trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, hệ thống chính trị vững mạnh và trật tự, an ninh xã hội bảo đảm. Trong số 11 tiêu chí còn lại cần phấn đấu hoàn thành vào năm 2011, Tân Thịnh xác định tiêu chí khó đạt mục tiêu đề ra là giải quyết cơ cấu lao động trong nông nghiệp. Ðồng chí Ðặng Quang Tạo, Chủ tịch UBND xã cho biết, xã có hơn 5.100 người trong độ tuổi lao động, trong đó lao động nông nghiệp hơn 60%. Ðến 2011, nghĩa là chỉ 20 tháng nữa, xã phải giải quyết việc làm cho 800 lao động nông nghiệp. Ðiều này khó, vì thời gian gấp quá, nhưng đã có hướng giải quyết. Xã được quy hoạch đến năm 2015 có 200 ha đất nông nghiệp chuyển sang xây dựng khu công nghiệp. Hiện nay, một tập đoàn kinh tế của nước ngoài dự định thuê 50 ha đất của xã. Nếu những dự án này được triển khai, có thể hy vọng giải quyết được vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp.

Cách làm ở xã Nhân Quyền

Ở tỉnh Hải Dương, nói về xây dựng NTM, nhiều người nhắc tới xã Nhân Quyền (huyện Bình Giang). Ðáng chú ý là, dù không thuận lợi như nhiều xã thuần nông vùng đồng bằng sông Hồng bởi đất chật, người đông, diện tích đất canh tác bình quân của Nhân Quyền chỉ hơn 600 m2/người, với thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp, nhưng với bước đi đúng, có nhiều sáng tạo, dù vốn đầu tư của Nhà nước không nhiều, vùng quê này đang dần "thay da, đổi thịt".

Trong mười năm trở lại đây, Nhân Quyền sớm chủ trương xây dựng cơ sở hạ tầng khang trang. Theo Phó Chủ tịch UBND xã Nhân Quyền, Phạm Hoàng Bình, đến nay xã có hệ thống trường học, trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; mọi con đường liên xã, liên thôn, ngõ, xóm (khoảng 25 km) được bê-tông hóa; cơ bản "cứng hóa" đường giao thông nội đồng (11 km) và gần 12 km hệ thống kênh mương; cả bốn thôn có nhà văn hóa và đạt tiêu chuẩn Làng văn hóa; trụ sở làm việc khang trang; các thôn đều có tổ thu gom vệ sinh; số học sinh đỗ đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ngày càng tăng (bình quân gần 100 em/năm). Từ năm 2000 đến nay, xã huy động gần 30 tỷ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng, chủ yếu từ nguồn vốn đấu giá quyền sử dụng đất.

Ðể có thành công trên, điều quan trọng là khi xây dựng các công trình, Nhân Quyền thực hiện theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Người dân trực tiếp tham gia, kiểm tra, giám sát việc xây dựng các công trình phúc lợi. Vì thế, nhiều năm nay, xã luôn chủ động nguồn vốn trong đầu tư cơ sở hạ tầng.

Với việc đầu tư thiết thực, cách làm phù hợp, trên vùng đất lúa đồng bằng sông Hồng và trung du miền núi phía bắc, đã thấy thấp thoáng hình dáng những làng mới, xã mới, với "bộ mặt" khang trang hơn, sạch đẹp hơn và quan trọng là đời sống nông dân khá giả hơn.
 
Phần 2: Ðời sống nông dân, thước đo của nông thôn mới

Chăm sóc rau mùa ở HTX Hòa Bình,
phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông (Hà Nội).

Nông thôn sau hơn 20 năm đổi mới

Sau hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, mặc dù gặp nhiều khó khăn thách thức, nhưng đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Ở khu vực nông thôn giá trị sản lượng nông nghiệp tăng trưởng trung bình 4,5-5%/năm. Ngành nghề, dịch vụ và làng nghề truyền thống tăng trưởng 15%/năm. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực theo hướng đa dạng. Tỷ trọng ngành nghề và dịch vụ tăng lên 35%. Nhiều nghề truyền thống như thêu, dệt thổ cẩm, gốm sứ, mây tre đan được khôi phục. Ðến nay, 95% số xã có đường ô-tô đến khu trung tâm, hơn 85% xã có điện. Tỷ lệ dân nông thôn có nước sinh hoạt đạt 62%.

Trong gần mười năm qua, Bộ NN và PTNT đã hai lần triển khai mô hình xây dựng NTM. Năm 2001, Ban Kinh tế T.Ư phối hợp Bộ NN và PTNT chọn 14 xã xây dựng NTM (sau tăng lên 18 xã), đồng thời các tỉnh cũng chọn thêm 200 xã xây dựng mô hình thí điểm. Ðến năm 2007, Bộ NN và PTNT triển khai đề án xây dựng NTM cấp thôn, bản theo chủ trương dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ. Theo đánh giá của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, qua hai lần triển khai thí điểm, bên cạnh việc làm thay đổi rõ nét bộ mặt cơ sở hạ tầng các xã được đầu tư thì cũng có nhiều bài học kinh nghiệm được tổng kết, như phần lớn các xã thường quá chú trọng đến đầu tư xây dựng cơ bản, chưa quan tâm đúng mức phát triển sản xuất, chưa đầu tư thỏa đáng cho phát triển ngành nghề, công nghiệp nông thôn, dịch vụ. Ða số các dự án còn dàn trải, quy hoạch phát triển chưa phù hợp do đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Các phương án quy hoạch xã điểm đều do các cơ quan tư vấn soạn thảo, thiếu tính khả thi, chưa sát với thực tiễn địa phương và nhu cầu thiết thực của người dân. Phương châm đầu tư là dựa vào nguồn lực tại chỗ là chính, Nhà nước hỗ trợ một phần, nhưng chỉ có khoảng một nửa số xã, nhân dân đóng góp 47 - 55% tổng vốn đầu tư, còn lại mức huy động chỉ đạt 10% tổng vốn đầu tư. Do không xác định rõ nguồn vốn, quá trình triển khai thiếu nguồn lực cụ thể, không thu hút được đóng góp của dân, dẫn đến hiệu quả còn hạn chế.

Khơi dậy sự sáng tạo

Thực tế tại nhiều địa phương cho thấy, việc xây dựng chương trình NTM trong những năm gần đây chủ yếu vẫn mang tính đơn lẻ, mỗi địa phương có cách làm khác nhau. Tiến độ xây dựng NTM vẫn dừng lại ở dạng mô hình thí điểm. Rất ít địa phương có chương trình tổng thể, hoặc có nhưng còn lúng túng, thụ động, chưa quyết liệt trong triển khai, thực hiện.

Theo đồng chí Nguyễn Minh Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục PTNT Bắc Giang, toàn tỉnh hiện có 230 xã, phường. Trong 19 tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM, các xã mới chỉ đạt khoảng 63% các tiêu chí đó, trong đó riêng tiêu chí về chuyển dịch cơ cấu lao động mới chỉ đạt gần 40%. Bắc Giang đã xây dựng kế hoạch đến năm 2011 có chín xã đạt tiêu chuẩn NTM (tám xã triển khai cùng lúc với Tân Thịnh), năm 2015 có 40 xã và 2020 có 85 xã đạt 19 tiêu chí này. Xác định chặng đường như thế, nhưng "Nếu không giải quyết triệt để vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp thì rất khó đạt mục tiêu đề ra". Ðây cũng là khó khăn lớn nhất của hầu hết các địa phương khác trong quá trình xây dựng NTM.

Nam Ðịnh nằm trong vùng trọng điểm sản xuất lương thực - thực phẩm của đồng bằng Bắc Bộ, mỗi năm sản xuất khoảng một triệu tấn lương thực, hơn 50 nghìn tấn lợn thịt, có gần 80% dân số sống ở nông thôn. Theo Sở NN và PTNT Nam Ðịnh, việc xây dựng NTM là nhiệm vụ lớn, nhiều vấn đề mới, nhưng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các bộ, ngành chưa cụ thể, đồng bộ, cho nên việc triển khai gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Nhu cầu vốn lớn, trong khi khả năng đầu tư của địa phương và đóng góp của dân hạn chế. Một số huyện chưa thật sự quan tâm xây dựng mô hình NTM nên tiến độ triển khai chậm. Chi cục trưởng Chi cục HTX và PTNT Nam Ðịnh Nguyễn Mạnh Quyết cho biết: Ngoài mô hình NTM ở Hải Ðường, Nam Ðịnh lựa chọn mười xã cùng làm thí điểm mô hình NTM với kỳ vọng sự thành công của các mô hình này sẽ tạo tiền đề để nhân rộng ra toàn tỉnh.

Tỉnh Hải Dương hiện có 263 xã, phường, thị trấn, trong đó có 234 xã vùng nông thôn, có gần 1,1 triệu người trong độ tuổi lao động và 80% lao động làm nông nghiệp. Hơn 20 năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn và nông dân Hải Dương có nhiều chuyển biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp của tỉnh ba năm (2006-2008) đạt bình quân 3%/năm; giá trị một ha đất canh tác tăng từ 42,7 triệu đồng lên 67,2 triệu đồng/năm. Ðến hết năm 2008, số hộ nghèo của tỉnh vẫn còn ở mức cao (9,9%); thu nhập bình quân đầu người đạt 10,5 triệu đồng/năm (mức trung bình ở vùng đồng bằng sông Hồng). Trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân đang bộc lộ nhiều bất cập: Chỉ có gần 10% số lao động nông nghiệp được đào tạo; hơn 15 nghìn lao động nông nghiệp không có việc làm do bị thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp, nhưng việc đào tạo nghề và chuyển nghề cho nông dân vùng bị thu hồi đất còn hạn chế; khoảng cách giàu-nghèo ngày càng xa; một số chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp chưa phát huy hiệu quả; quy hoạch phát triển nông thôn chậm; ô nhiễm môi trường nông thôn ngày càng tăng.

Là xã trung du thuộc huyện Lạng Giang (Bắc Giang), Tân Dĩnh thuận lợi nhờ có vị trí địa lý tương đối bằng phẳng, nằm ở vùng ngoại ô TP Bắc Giang, dân cư sống tập trung và có thu nhập bình quân 13 triệu đồng/người/năm. Gần mười năm trước, Tân Dĩnh là một trong ba xã đầu tiên trong tỉnh được Bộ NN và PTNT đầu tư xây dựng mô hình NTM. Hầu hết các hạng mục đầu tư chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, kiên cố hóa kênh mương, hệ thống nước sạch, hình thành tổ dọn rác. Tuy nhiên, theo Bí thư Ðảng ủy xã Nghiêm Ðình Vân, cái được lớn nhất là cơ sở hạ tầng được xây dựng, thuận tiện cho phát triển sản xuất, nhưng cách làm, cách đầu tư thì cần phải rút kinh nghiệm. Trong nhận thức của các cấp chính quyền còn coi đó là dự án của T.Ư đầu tư, nên chưa tập trung nội lực và huy động các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh vào cuộc.

Thay đổi cách đầu tư

Theo TS Vũ Trọng Bình, Giám đốc Trung tâm PTNT, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ NN và PTNT), đạt chuẩn NTM không phải chỉ là phần cứng (hạ tầng nông thôn) mà còn về tổ chức xã hội, thể chế mới, văn hóa mới, một nông thôn vừa giữ được tính truyền thống mà vẫn đáp ứng được yêu cầu văn minh hiện đại. Khó khăn lớn nhất vẫn là cơ chế, chính sách để cộng đồng dân cư nông thôn, các doanh nghiệp, chính quyền địa phương chủ động vào cuộc, không trông chờ ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc bố trí vốn ngân sách hỗ trợ, cơ chế sử dụng vốn cũng là điều cần thay đổi so với các chương trình dự án trước kia. Do vậy, ưu tiên hàng đầu là Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng chính sách, cơ chế mới theo định hướng khuyến khích hộ gia đình, doanh nghiệp, các địa phương, các hiệp hội, HTX, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ... xây dựng NTM. Hơn nữa, để không đi vào "lối mòn" các chương trình trước kia, nguồn vốn cho xây dựng NTM nên dành một phần xây dựng các Quỹ hỗ trợ phát triển của từng xã để cho nông dân, doanh nghiệp, hộ kinh doanh vay đầu tư hạ tầng, sản xuất.

Quy hoạch nông thôn và cơ cấu lao động trong nông nghiệp

Thực tế tại các địa phương đang triển khai xây dựng phong trào NTM, chúng tôi nhận thấy hai tiêu chí quy hoạch và giải quyết cơ cấu lao động nông nghiệp là những vấn đề khó giải quyết, nhất là đối với các tỉnh trung du. Theo thống kê, cả nước hiện chỉ có khoảng 2% số xã được quy hoạch, phần lớn các phong trào xây dựng NTM vẫn phát triển theo kiểu tự phát, đầu tư thiếu đồng bộ, chưa hiệu quả và bền vững, nguyên nhân chính vẫn do thiếu một quy hoạch tổng thể, bền vững. Theo mục tiêu đề ra, đến năm 2010 sẽ có 100% số xã phải hoàn thành quy hoạch. Tại các tỉnh trung du, miền núi, công tác quy hoạch lại càng khó khăn hơn do địa hình chia cắt, đời sống nhân dân còn nghèo.

Theo TS Vũ Trọng Bình, để giải quyết vấn đề quy hoạch nông thôn, cần nghiên cứu xác định rõ chiến lược, định hướng phát triển kinh tế-xã hội nông thôn cả nước, từng vùng. Quy hoạch nông thôn cần phù hợp với từng vùng, nhằm bảo đảm tính đặc trưng, có ranh giới công khai, để các địa phương tiến hành quy hoạch chi tiết. Việc quy hoạch ổn định 20-50 năm theo vùng, theo đúng các quy định của pháp luật là hết sức cần thiết để doanh nghiệp, người dân yên tâm đầu tư lâu dài và làm cho thị trường đất đai ổn định, không làm giá đất nông thôn xáo trộn. Kinh nghiệm từ triển khai xây dựng NTM cấp thôn, bản cho thấy, để có thể hoàn thành sớm công tác quy hoạch, ngoài sự giúp sức của các cơ quan chức năng, ở mỗi xã, thôn cũng cần tự xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch của làng mình trên cơ sở sự tham gia trực tiếp của cộng đồng dân cư.

Ở các tỉnh đồng bằng và những nơi thuận lợi về giao thông, được quy hoạch phát triển gắn với khu công nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp thuận lợi hơn những xã thuần nông hoặc có địa hình, điều kiện sinh thái khó khăn. Chính vì vậy, để phong trào xây dựng NTM ở những xã nghèo có tính khả thi, vấn đề mấu chốt là thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Chúng tôi nhớ mãi lời của bác Chức ở thôn Lèo: "Không thể xây dựng NTM nếu như người dân còn nghèo khổ. Cho dù có đầu tư nhiều tiền xây dựng bộ mặt làng, xã khang trang, nhưng đời sống nhân dân nghèo, thu nhập thấp sẽ không đủ "lực" để góp vốn, không thể xây dựng NTM".

19 tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới
Ngày 16-4-2009, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 491/QÐ-TTg, ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM bao gồm 19 tiêu chí, được chia thành năm nhóm cụ thể: nhóm tiêu chí về quy hoạch, về hạ tầng kinh tế-xã hội, về kinh tế và tổ chức sản xuất, về văn hóa-xã hội-môi trường và về hệ thống chính trị. Ðó là các tiêu chí quy hoạch và thực hiện quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư, thu nhập bình quân đầu người/năm, tỷ lệ hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất, giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường, hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và an ninh, trật tự xã hội...

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM đề ra mục tiêu đến năm 2020, trên 50% số xã đạt chuẩn, cơ bản xây dựng kết cấu hạ tầng theo chuẩn nông thôn mới, tăng thu nhập của người dân lên gấp 2,5 lần hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo dưới 3%... Từ nay đến 2010, phấn đấu sẽ quy hoạch xong 100% xã NTM. Các xã NTM phải đáp ứng được 19 tiêu chí. Sẽ có 11 đề án để hiện thực hóa chương trình này. Trung bình, mỗi xã cần đầu tư 120-150 tỷ đồng, trong đó 6-7 hạng mục dự kiến được Nhà nước hỗ trợ 100% hoặc một phần (30-90%) tùy từng vùng và nội dung hỗ trợ.

BẢO TRUNG, HẢI PHƯƠNG,
QUANG DŨNG và HOÀNG HÙNG (theo Nhandan.com.vn)
Cập nhật ( 13/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:
“ Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hiện được hẳn hoi, hơn một trăm chương trình to tát mà làm không được.”
 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com