Theo Ðề án Chương trình xây dựng thí điểm mô hình nông thôn mới (NTM) được Ban Bí thư T.Ư Ðảng thông qua, mô hình NTM được thực hiện thí điểm tại 11 xã, đại diện cho các vùng kinh tế - văn hóa trong cả nước. So với 19 tiêu chí quốc gia về NTM, trong khi một số xã thuận lợi dễ đạt các chỉ tiêu đề ra, thì hầu hết các xã còn lại gặp không ít khó khăn. Nghị quyết của T.Ư Ðảng, Chương trình của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã đề ra nhiều giải pháp xây dựng NTM, nhưng vẫn còn nhiều việc cần phải giải quyết, đặc biệt là về quy hoạch, chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao đời sống nông dân...
Phần 1: Diện mạo mới của làng, xã
|
Làng nông thôn mới Hoành Đồn
(Hải Đường, Hải Hậu, Nam Định). |
Trên vùng đất lúa
Hải Ðường, huyện Hải Hậu (Nam Ðịnh) là xã thuần nông, có trình độ thâm canh khá. Năm 2008, năng suất lúa của xã đạt bình quân 125 tạ/ha, sản lượng lương thực đạt 7.121 tấn (bình quân lương thực gần 600kg/người), giá trị sản xuất đạt 50 triệu/ha/năm. Người dân trong xã có nhiều nghề như đan móc sợi, nề, cơ khí, chế biến cau, gia công may, trồng cây cảnh, sản xuất vật liệu xây dựng, mộc... Trên địa bàn xã, có làng Hoành Ðồn là 1/17 làng trong cả nước được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) chọn làm làng điểm xây dựng NTM từ năm 2007, được đánh giá khá thành công.
Ðến làng Hoành Ðồn, xã Hải Ðường, chúng tôi ngỡ ngàng trước một quy hoạch khoa học và môi trường xanh, sạch sẽ, nếp sống văn minh mà ít thấy ngôi làng nào ở đồng bằng Bắc Bộ có được. Trưởng ban PTNT mới của làng, anh Nguyễn Văn Dương cho biết: Sau hơn hai năm xây dựng, với sự đầu tư 660 triệu đồng của Nhà nước và đóng góp của nhân dân, Hoành Ðồn đầu tư hơn một tỷ đồng xây dựng quy hoạch hạ tầng, khuôn viên các khu dân cư, mở rộng đường nhánh trong ngõ, hệ thống thoát nước, cải tạo vườn tạp, phát triển nghề trồng nấm... Ðặc biệt, chương trình nâng cao ý thức xây dựng tính cộng đồng, nếp sống văn hóa, tạo không khí thi đua sản xuất cho người dân... Thành công của Hoành Ðồn tạo điều kiện để Hải Ðường được Ban Bí thư T.Ư Ðảng chọn là 1/11 xã thí điểm mô hình NTM. Chủ tịch UBND xã Nguyễn Trung Dũng cho biết: Hải Ðường là xã trung bình khá của huyện, có quy hoạch hạ tầng giao thông, trường học, hệ thống thủy lợi, nhà văn hóa, khu dân cư, nay chỉ cần tôn tạo, nâng cấp là xong. Xã có 26 xóm, thì cả 26 xóm đều có nhà văn hóa. Hai trường tiểu học, mầm non đều đạt chuẩn quốc gia, phấn đấu năm tới hai trường trung học cơ sở đạt chuẩn, thu nhập bình quân đạt bảy triệu đồng/người/năm... Mặc dù vậy, sản xuất nông nghiệp ở đây vẫn nhỏ lẻ, thiếu quy hoạch, chưa tạo được vùng sản xuất hàng hóa, ngành nghề nông thôn chậm phát triển. Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp. Nhìn chung, vấn đề việc làm, đời sống, môi trường nông thôn đang là những thách thức lớn đặt ra với đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hải Ðường trong quá trình xây dựng NTM.
Hiện nay, trong 19 tiêu chí quốc gia về NTM, Hải Ðường có năm tiêu chí đạt: Ðiện, nhà ở dân cư, hình thức tổ chức sản xuất, hệ thống tổ chức chính trị xã hội và an ninh, trật tự xã hội. Theo Chủ tịch UBND xã Nguyễn Trung Dũng, khó khăn lớn nhất ở Hải Ðường là phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất, cơ cấu lao động. Hiện nay lao động nông nghiệp của xã chiếm tới 85%, còn lại 15% làm nghề và dịch vụ kinh doanh. Các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, chưa có làng nghề, quy mô chăn nuôi chưa mạnh, do đó, việc chuyển đổi lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ và nâng cao mức thu nhập của người dân là rất khó. Ðể đạt mức thu nhập từ bảy triệu đồng như hiện nay lên chín triệu đồng/người/năm theo yêu cầu, cần khoảng 5-7 năm. Thời gian xây dựng NTM của xã chỉ còn hơn hai năm, trong khi khối lượng công việc còn rất lớn. Nguồn vốn đầu tư chưa được chủ động và việc triển khai xây dựng nông thôn mới giao cho xã khá nhiều từ khâu xây dựng dự án, khảo sát, giám sát, thiết kế thi công..., trong khi trình độ năng lực của cán bộ xã có hạn. Ngân sách của địa phương hạn hẹp nên một số công trình đòi hỏi kinh phí đối ứng khó khăn.
Ở vùng đất trung du
Nằm ở phía tây bắc huyện Lạng Giang (Bắc Giang), xã Tân Thịnh có địa hình bán sơn địa, ruộng bậc thang xen lẫn gò đồi. Những ngày tháng 10 này, chuyện thời sự nhất được người dân và chính quyền trong xã quan tâm là việc xây dựng NTM. Ði khắp các thôn làng, ở đâu cũng thấy người dân bàn bạc về chuyện đóng góp, chuyện quy hoạch, chuyện việc làm. Trụ sở UBND xã, nhà văn hóa "nóng ran" bởi các cuộc họp của dân. Lẫn trong niềm vui bừng lên trên những khuôn mặt người dân, vẫn là chút âu lo về việc làm, về tương lai...
Tình cờ có mặt tại nhà bác Ðặng Văn Chức ở thôn Lèo, chúng tôi chứng kiến buổi nói chuyện sôi nổi. Căn nhà ba gian, mái ngói, nền gạch rất sạch và thoáng mát. Ngày nông nhàn, nhiều bác trai, bác gái ngồi góp chuyện bên ấm trà đặc quánh. Chủ đề mọi người nói đến là chuyện đóng tiền xây dựng NTM. Bác Chức nhẩm tính, từ nay đến hết năm, nhà bác sẽ đóng chừng một triệu đồng xây dựng hệ thống kênh mương và làm đường. Năm 2010, chưa biết đóng bao nhiêu. Chúng tôi hỏi bác Chức:
- Gia đình bác có thấy mức đóng góp cao quá không?
- So với thu nhập của nông dân như chúng tôi thì hơi cao, nhưng cũng phải cố để xây dựng NTM. Với lại, mình già rồi, đóng góp để cho con, cho cháu...
Nhà bác Chức có ba người con, nhưng cả ba đều đi làm ăn xa, chỉ còn hai bác ở lại thôn Lèo. Tuy đã lớn tuổi, nhưng hai bác vẫn canh tác bốn sào lúa, màu, nuôi một lợn nái và hai lợn choai, tổng thu nhập mỗi năm chừng 20 triệu đồng. Bác Chức bảo: "Chả giấu gì nhà báo, mỗi năm vợ chồng già này cũng để dành được vài triệu, lo dưỡng già. Thực ra, vườn ruộng ít thế, nhưng biết cách làm và chịu khó thì vẫn sống thoải mái. Có điều, lớp trẻ bây giờ, cứ nôn nóng làm giàu ở đâu đâu, bí lắm mới về lập nghiệp ở quê. Lo lắm, giờ ở thôn toàn người già, trẻ em".
Nỗi lo của bác Chức là có cơ sở. Cả thôn Lèo có 250 hộ, nhưng chỉ còn chừng hai chục thanh niên vừa học xong trung học phổ thông vẫn bám trụ là vì "chưa kịp" đi đâu. Hầu hết thanh niên đi làm thuê khắp nơi, vào cả miền nam. Nhân nói đến chuyện thu nhập, bác Ðặng Ðình Lượng, 72 tuổi, nguyên là Chủ nhiệm HTX nông nghiệp xã Tân Thịnh cho biết: Ðếm cả thôn, hộ có thu nhập 20 triệu đồng/năm chỉ chừng hơn chục hộ, vì ngoài vườn, đồi và ruộng bậc thang ra, thì không còn thu nhập gì khác. Nếu xây dựng NTM mà chỉ khang trang về cơ sở hạ tầng thì chưa đủ, cần tính toán đến thu nhập và việc làm của người dân nữa.
Bác gái Lê Thị Thức, nãy giờ ngồi theo dõi câu chuyện, xen vào: "Giờ đồng ruộng cấy lúa rất ít, đã chuyển sang trồng rau dưa xuất khẩu, chăn nuôi lợn siêu nạc, gà siêu trứng. Tiếng là làm nông nghiệp có lãi, nhưng dịch bệnh cứ lo canh cánh, giá sản phẩm thấp, trong khi chi phí giống, phân bón, giá tiêu dùng tăng cao, nông dân chúng tôi có bao giờ giàu được đâu".
Ở Tân Thịnh, nông dân thôn Lèo được coi là điển hình về làm ăn năng động. Nhờ thuận lợi về nước tưới, khi huyện, xã đưa giống cây, con mới vào đồng ruộng, người dân trong thôn đều hưởng ứng. Toàn thôn có 100 mẫu canh tác, trong vụ đông, vụ hè đều được phủ kín thuốc lá, dưa bao tử, rau, ngô xuất khẩu. Nhờ làm ăn tốt, việc huy động nhân dân góp vốn đối ứng xây dựng NTM rất thuận lợi. Trưởng thôn Ðặng Ðình Cương cho biết, tổng số tiền bà con đóng góp xây dựng từ nay đến cuối năm khoảng 100 triệu đồng, mặc dù UBND tỉnh chỉ vừa phê duyệt đề án, bắt đầu triển khai từ giữa tháng 10 này, nhưng buổi họp dân đầu tháng 9, thôn thu được gần 20 triệu đồng.
Theo đề án xây dựng xã NTM Tân Thịnh của UBND tỉnh Bắc Giang, từ nay đến 2011, Tân Thịnh sẽ đầu tư 91,267 tỷ đồng cho xây dựng NTM, trong đó ngân sách Nhà nước hỗ trợ khoảng 37,3 tỷ đồng, ngân sách địa phương hỗ trợ 8,3 tỷ đồng, nhân dân đóng góp 8,5 tỷ đồng, còn lại huy động từ các nguồn khác. Cơ cấu vốn đầu tư sẽ dành 83,1% cho xây dựng cơ bản, vốn sự nghiệp 14,3% và vốn phát triển sản xuất nông nghiệp chỉ là 2,6%. Mặc dù là xã trung du, nhưng diện tích đất nông nghiệp của Tân Thịnh chỉ có 520 ha, trong đó đất lâm nghiệp còn 3,4 ha trồng rừng rải rác. Xã có vùng thuốc lá 170 ha/năm, vùng dưa chuột, ngô bao tử xuất khẩu 50 ha/năm. Năm 2008, thu nhập bình quân của xã đạt 11,9 triệu đồng/năm, cao hơn 0,38 lần bình quân tỉnh Bắc Giang; GDP đạt 104 tỷ đồng, trong đó từ sản xuất nông nghiệp 45 tỷ đồng, từ dịch vụ và ngoài tỉnh chuyển về 59 tỷ đồng. Ðây là mức thu nhập khá cao của một xã vùng trung du, là yếu tố quan trọng để Tân Thịnh được lựa chọn là xã điểm xây dựng mô hình NTM.
Qua rà soát, UBND xã Tân Thịnh xác định, so với 19 tiêu chí xã NTM do Chính phủ ban hành, Tân Thịnh đã đạt tám tiêu chí về trường học, bưu điện, thu nhập bình quân đầu người/năm, tỷ lệ hộ nghèo, có HTX hoạt động hiệu quả, trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, hệ thống chính trị vững mạnh và trật tự, an ninh xã hội bảo đảm. Trong số 11 tiêu chí còn lại cần phấn đấu hoàn thành vào năm 2011, Tân Thịnh xác định tiêu chí khó đạt mục tiêu đề ra là giải quyết cơ cấu lao động trong nông nghiệp. Ðồng chí Ðặng Quang Tạo, Chủ tịch UBND xã cho biết, xã có hơn 5.100 người trong độ tuổi lao động, trong đó lao động nông nghiệp hơn 60%. Ðến 2011, nghĩa là chỉ 20 tháng nữa, xã phải giải quyết việc làm cho 800 lao động nông nghiệp. Ðiều này khó, vì thời gian gấp quá, nhưng đã có hướng giải quyết. Xã được quy hoạch đến năm 2015 có 200 ha đất nông nghiệp chuyển sang xây dựng khu công nghiệp. Hiện nay, một tập đoàn kinh tế của nước ngoài dự định thuê 50 ha đất của xã. Nếu những dự án này được triển khai, có thể hy vọng giải quyết được vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp.
Cách làm ở xã Nhân Quyền
Ở tỉnh Hải Dương, nói về xây dựng NTM, nhiều người nhắc tới xã Nhân Quyền (huyện Bình Giang). Ðáng chú ý là, dù không thuận lợi như nhiều xã thuần nông vùng đồng bằng sông Hồng bởi đất chật, người đông, diện tích đất canh tác bình quân của Nhân Quyền chỉ hơn 600 m2/người, với thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp, nhưng với bước đi đúng, có nhiều sáng tạo, dù vốn đầu tư của Nhà nước không nhiều, vùng quê này đang dần "thay da, đổi thịt".
Trong mười năm trở lại đây, Nhân Quyền sớm chủ trương xây dựng cơ sở hạ tầng khang trang. Theo Phó Chủ tịch UBND xã Nhân Quyền, Phạm Hoàng Bình, đến nay xã có hệ thống trường học, trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; mọi con đường liên xã, liên thôn, ngõ, xóm (khoảng 25 km) được bê-tông hóa; cơ bản "cứng hóa" đường giao thông nội đồng (11 km) và gần 12 km hệ thống kênh mương; cả bốn thôn có nhà văn hóa và đạt tiêu chuẩn Làng văn hóa; trụ sở làm việc khang trang; các thôn đều có tổ thu gom vệ sinh; số học sinh đỗ đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ngày càng tăng (bình quân gần 100 em/năm). Từ năm 2000 đến nay, xã huy động gần 30 tỷ đồng xây dựng cơ sở hạ tầng, chủ yếu từ nguồn vốn đấu giá quyền sử dụng đất.
Ðể có thành công trên, điều quan trọng là khi xây dựng các công trình, Nhân Quyền thực hiện theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Người dân trực tiếp tham gia, kiểm tra, giám sát việc xây dựng các công trình phúc lợi. Vì thế, nhiều năm nay, xã luôn chủ động nguồn vốn trong đầu tư cơ sở hạ tầng.
Với việc đầu tư thiết thực, cách làm phù hợp, trên vùng đất lúa đồng bằng sông Hồng và trung du miền núi phía bắc, đã thấy thấp thoáng hình dáng những làng mới, xã mới, với "bộ mặt" khang trang hơn, sạch đẹp hơn và quan trọng là đời sống nông dân khá giả hơn.
Phần 2: Ðời sống nông dân, thước đo của nông thôn mới
|
Chăm sóc rau mùa ở HTX Hòa Bình,
phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông (Hà Nội). |
Nông thôn sau hơn 20 năm đổi mới
Sau hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, mặc dù gặp nhiều khó khăn thách thức, nhưng đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Ở khu vực nông thôn giá trị sản lượng nông nghiệp tăng trưởng trung bình 4,5-5%/năm. Ngành nghề, dịch vụ và làng nghề truyền thống tăng trưởng 15%/năm. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch tích cực theo hướng đa dạng. Tỷ trọng ngành nghề và dịch vụ tăng lên 35%. Nhiều nghề truyền thống như thêu, dệt thổ cẩm, gốm sứ, mây tre đan được khôi phục. Ðến nay, 95% số xã có đường ô-tô đến khu trung tâm, hơn 85% xã có điện. Tỷ lệ dân nông thôn có nước sinh hoạt đạt 62%.
Trong gần mười năm qua, Bộ NN và PTNT đã hai lần triển khai mô hình xây dựng NTM. Năm 2001, Ban Kinh tế T.Ư phối hợp Bộ NN và PTNT chọn 14 xã xây dựng NTM (sau tăng lên 18 xã), đồng thời các tỉnh cũng chọn thêm 200 xã xây dựng mô hình thí điểm. Ðến năm 2007, Bộ NN và PTNT triển khai đề án xây dựng NTM cấp thôn, bản theo chủ trương dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ. Theo đánh giá của Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, qua hai lần triển khai thí điểm, bên cạnh việc làm thay đổi rõ nét bộ mặt cơ sở hạ tầng các xã được đầu tư thì cũng có nhiều bài học kinh nghiệm được tổng kết, như phần lớn các xã thường quá chú trọng đến đầu tư xây dựng cơ bản, chưa quan tâm đúng mức phát triển sản xuất, chưa đầu tư thỏa đáng cho phát triển ngành nghề, công nghiệp nông thôn, dịch vụ. Ða số các dự án còn dàn trải, quy hoạch phát triển chưa phù hợp do đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Các phương án quy hoạch xã điểm đều do các cơ quan tư vấn soạn thảo, thiếu tính khả thi, chưa sát với thực tiễn địa phương và nhu cầu thiết thực của người dân. Phương châm đầu tư là dựa vào nguồn lực tại chỗ là chính, Nhà nước hỗ trợ một phần, nhưng chỉ có khoảng một nửa số xã, nhân dân đóng góp 47 - 55% tổng vốn đầu tư, còn lại mức huy động chỉ đạt 10% tổng vốn đầu tư. Do không xác định rõ nguồn vốn, quá trình triển khai thiếu nguồn lực cụ thể, không thu hút được đóng góp của dân, dẫn đến hiệu quả còn hạn chế.
Khơi dậy sự sáng tạo
Thực tế tại nhiều địa phương cho thấy, việc xây dựng chương trình NTM trong những năm gần đây chủ yếu vẫn mang tính đơn lẻ, mỗi địa phương có cách làm khác nhau. Tiến độ xây dựng NTM vẫn dừng lại ở dạng mô hình thí điểm. Rất ít địa phương có chương trình tổng thể, hoặc có nhưng còn lúng túng, thụ động, chưa quyết liệt trong triển khai, thực hiện.
Theo đồng chí Nguyễn Minh Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục PTNT Bắc Giang, toàn tỉnh hiện có 230 xã, phường. Trong 19 tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM, các xã mới chỉ đạt khoảng 63% các tiêu chí đó, trong đó riêng tiêu chí về chuyển dịch cơ cấu lao động mới chỉ đạt gần 40%. Bắc Giang đã xây dựng kế hoạch đến năm 2011 có chín xã đạt tiêu chuẩn NTM (tám xã triển khai cùng lúc với Tân Thịnh), năm 2015 có 40 xã và 2020 có 85 xã đạt 19 tiêu chí này. Xác định chặng đường như thế, nhưng "Nếu không giải quyết triệt để vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp thì rất khó đạt mục tiêu đề ra". Ðây cũng là khó khăn lớn nhất của hầu hết các địa phương khác trong quá trình xây dựng NTM.
Nam Ðịnh nằm trong vùng trọng điểm sản xuất lương thực - thực phẩm của đồng bằng Bắc Bộ, mỗi năm sản xuất khoảng một triệu tấn lương thực, hơn 50 nghìn tấn lợn thịt, có gần 80% dân số sống ở nông thôn. Theo Sở NN và PTNT Nam Ðịnh, việc xây dựng NTM là nhiệm vụ lớn, nhiều vấn đề mới, nhưng các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các bộ, ngành chưa cụ thể, đồng bộ, cho nên việc triển khai gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Nhu cầu vốn lớn, trong khi khả năng đầu tư của địa phương và đóng góp của dân hạn chế. Một số huyện chưa thật sự quan tâm xây dựng mô hình NTM nên tiến độ triển khai chậm. Chi cục trưởng Chi cục HTX và PTNT Nam Ðịnh Nguyễn Mạnh Quyết cho biết: Ngoài mô hình NTM ở Hải Ðường, Nam Ðịnh lựa chọn mười xã cùng làm thí điểm mô hình NTM với kỳ vọng sự thành công của các mô hình này sẽ tạo tiền đề để nhân rộng ra toàn tỉnh.
Tỉnh Hải Dương hiện có 263 xã, phường, thị trấn, trong đó có 234 xã vùng nông thôn, có gần 1,1 triệu người trong độ tuổi lao động và 80% lao động làm nông nghiệp. Hơn 20 năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn và nông dân Hải Dương có nhiều chuyển biến tích cực. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp của tỉnh ba năm (2006-2008) đạt bình quân 3%/năm; giá trị một ha đất canh tác tăng từ 42,7 triệu đồng lên 67,2 triệu đồng/năm. Ðến hết năm 2008, số hộ nghèo của tỉnh vẫn còn ở mức cao (9,9%); thu nhập bình quân đầu người đạt 10,5 triệu đồng/năm (mức trung bình ở vùng đồng bằng sông Hồng). Trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân đang bộc lộ nhiều bất cập: Chỉ có gần 10% số lao động nông nghiệp được đào tạo; hơn 15 nghìn lao động nông nghiệp không có việc làm do bị thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp, nhưng việc đào tạo nghề và chuyển nghề cho nông dân vùng bị thu hồi đất còn hạn chế; khoảng cách giàu-nghèo ngày càng xa; một số chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp chưa phát huy hiệu quả; quy hoạch phát triển nông thôn chậm; ô nhiễm môi trường nông thôn ngày càng tăng.
Là xã trung du thuộc huyện Lạng Giang (Bắc Giang), Tân Dĩnh thuận lợi nhờ có vị trí địa lý tương đối bằng phẳng, nằm ở vùng ngoại ô TP Bắc Giang, dân cư sống tập trung và có thu nhập bình quân 13 triệu đồng/người/năm. Gần mười năm trước, Tân Dĩnh là một trong ba xã đầu tiên trong tỉnh được Bộ NN và PTNT đầu tư xây dựng mô hình NTM. Hầu hết các hạng mục đầu tư chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, kiên cố hóa kênh mương, hệ thống nước sạch, hình thành tổ dọn rác. Tuy nhiên, theo Bí thư Ðảng ủy xã Nghiêm Ðình Vân, cái được lớn nhất là cơ sở hạ tầng được xây dựng, thuận tiện cho phát triển sản xuất, nhưng cách làm, cách đầu tư thì cần phải rút kinh nghiệm. Trong nhận thức của các cấp chính quyền còn coi đó là dự án của T.Ư đầu tư, nên chưa tập trung nội lực và huy động các ban, ngành, đoàn thể của tỉnh vào cuộc.
Thay đổi cách đầu tư
Theo TS Vũ Trọng Bình, Giám đốc Trung tâm PTNT, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ NN và PTNT), đạt chuẩn NTM không phải chỉ là phần cứng (hạ tầng nông thôn) mà còn về tổ chức xã hội, thể chế mới, văn hóa mới, một nông thôn vừa giữ được tính truyền thống mà vẫn đáp ứng được yêu cầu văn minh hiện đại. Khó khăn lớn nhất vẫn là cơ chế, chính sách để cộng đồng dân cư nông thôn, các doanh nghiệp, chính quyền địa phương chủ động vào cuộc, không trông chờ ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc bố trí vốn ngân sách hỗ trợ, cơ chế sử dụng vốn cũng là điều cần thay đổi so với các chương trình dự án trước kia. Do vậy, ưu tiên hàng đầu là Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng chính sách, cơ chế mới theo định hướng khuyến khích hộ gia đình, doanh nghiệp, các địa phương, các hiệp hội, HTX, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ... xây dựng NTM. Hơn nữa, để không đi vào "lối mòn" các chương trình trước kia, nguồn vốn cho xây dựng NTM nên dành một phần xây dựng các Quỹ hỗ trợ phát triển của từng xã để cho nông dân, doanh nghiệp, hộ kinh doanh vay đầu tư hạ tầng, sản xuất.
Quy hoạch nông thôn và cơ cấu lao động trong nông nghiệp
Thực tế tại các địa phương đang triển khai xây dựng phong trào NTM, chúng tôi nhận thấy hai tiêu chí quy hoạch và giải quyết cơ cấu lao động nông nghiệp là những vấn đề khó giải quyết, nhất là đối với các tỉnh trung du. Theo thống kê, cả nước hiện chỉ có khoảng 2% số xã được quy hoạch, phần lớn các phong trào xây dựng NTM vẫn phát triển theo kiểu tự phát, đầu tư thiếu đồng bộ, chưa hiệu quả và bền vững, nguyên nhân chính vẫn do thiếu một quy hoạch tổng thể, bền vững. Theo mục tiêu đề ra, đến năm 2010 sẽ có 100% số xã phải hoàn thành quy hoạch. Tại các tỉnh trung du, miền núi, công tác quy hoạch lại càng khó khăn hơn do địa hình chia cắt, đời sống nhân dân còn nghèo.
Theo TS Vũ Trọng Bình, để giải quyết vấn đề quy hoạch nông thôn, cần nghiên cứu xác định rõ chiến lược, định hướng phát triển kinh tế-xã hội nông thôn cả nước, từng vùng. Quy hoạch nông thôn cần phù hợp với từng vùng, nhằm bảo đảm tính đặc trưng, có ranh giới công khai, để các địa phương tiến hành quy hoạch chi tiết. Việc quy hoạch ổn định 20-50 năm theo vùng, theo đúng các quy định của pháp luật là hết sức cần thiết để doanh nghiệp, người dân yên tâm đầu tư lâu dài và làm cho thị trường đất đai ổn định, không làm giá đất nông thôn xáo trộn. Kinh nghiệm từ triển khai xây dựng NTM cấp thôn, bản cho thấy, để có thể hoàn thành sớm công tác quy hoạch, ngoài sự giúp sức của các cơ quan chức năng, ở mỗi xã, thôn cũng cần tự xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch của làng mình trên cơ sở sự tham gia trực tiếp của cộng đồng dân cư.
Ở các tỉnh đồng bằng và những nơi thuận lợi về giao thông, được quy hoạch phát triển gắn với khu công nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp thuận lợi hơn những xã thuần nông hoặc có địa hình, điều kiện sinh thái khó khăn. Chính vì vậy, để phong trào xây dựng NTM ở những xã nghèo có tính khả thi, vấn đề mấu chốt là thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Chúng tôi nhớ mãi lời của bác Chức ở thôn Lèo: "Không thể xây dựng NTM nếu như người dân còn nghèo khổ. Cho dù có đầu tư nhiều tiền xây dựng bộ mặt làng, xã khang trang, nhưng đời sống nhân dân nghèo, thu nhập thấp sẽ không đủ "lực" để góp vốn, không thể xây dựng NTM".
19 tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới
Ngày 16-4-2009, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 491/QÐ-TTg, ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM bao gồm 19 tiêu chí, được chia thành năm nhóm cụ thể: nhóm tiêu chí về quy hoạch, về hạ tầng kinh tế-xã hội, về kinh tế và tổ chức sản xuất, về văn hóa-xã hội-môi trường và về hệ thống chính trị. Ðó là các tiêu chí quy hoạch và thực hiện quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư, thu nhập bình quân đầu người/năm, tỷ lệ hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất, giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường, hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và an ninh, trật tự xã hội...
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM đề ra mục tiêu đến năm 2020, trên 50% số xã đạt chuẩn, cơ bản xây dựng kết cấu hạ tầng theo chuẩn nông thôn mới, tăng thu nhập của người dân lên gấp 2,5 lần hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo dưới 3%... Từ nay đến 2010, phấn đấu sẽ quy hoạch xong 100% xã NTM. Các xã NTM phải đáp ứng được 19 tiêu chí. Sẽ có 11 đề án để hiện thực hóa chương trình này. Trung bình, mỗi xã cần đầu tư 120-150 tỷ đồng, trong đó 6-7 hạng mục dự kiến được Nhà nước hỗ trợ 100% hoặc một phần (30-90%) tùy từng vùng và nội dung hỗ trợ.
|
BẢO TRUNG, HẢI PHƯƠNG,
QUANG DŨNG và HOÀNG HÙNG (theo Nhandan.com.vn)
|