Năm 2008 là năm đầu tiên triển khai Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định định về Khu công nghiệp, Khu chế xuất và Khu kinh tế. Trong năm 2008, Việt Nam triển khai các cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trên các lĩnh vực đầu tư, thương mại… Trong điều kiện tình hình khủng hoảng tài chính thế giới chưa được ngăn chặn và có những diễn biến phức tạp ở những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước EU, trước bối cảnh đổi mới sâu sắc về thể chế, môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, công tác quản lý nhà nước KCN, KKT cũng như bản thân hoạt động của các KCN, KKT đã có những điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, năng lực, chương trình và trọng tâm công tác để thích nghi với điều kiện mới. Nhờ đó, các KCN, KKT trong năm 2008, một mặt, tiếp tục đà tăng trưởng những năm trước, mặt khác, có những nét phát triển mới mang tính đột phá. I. Tình hình phát triển KCN, KCX, KKT năm 2008 Năm 2008 là năm đầu tiên triển khai Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định định về Khu công nghiệp, Khu chế xuất và Khu kinh tế. Trong năm 2008, Việt Nam triển khai các cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trên các lĩnh vực đầu tư, thương mại… Trong điều kiện tình hình khủng hoảng tài chính thế giới chưa được ngăn chặn và có những diễn biến phức tạp ở những nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản và một số nước EU, trước bối cảnh đổi mới sâu sắc về thể chế, môi trường đầu tư kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, công tác quản lý nhà nước KCN, KKT cũng như bản thân hoạt động của các KCN, KKT đã có những điều chỉnh về cơ cấu tổ chức, năng lực, chương trình và trọng tâm công tác để thích nghi với điều kiện mới. Nhờ đó, các KCN, KKT trong năm 2008, một mặt, tiếp tục đà tăng trưởng những năm trước, mặt khác, có những nét phát triển mới mang tính đột phá. Trong năm 2008, công tác xây dựng và phát triển hệ thống các KCN, KKT đã đạt được một số kết quả nổi bật sau đây: 1. Thành lập và mở rộng các KCN, KKT Trong năm 2008, có 48 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thành lập mới 40 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 15.675,6 ha (tăng 73% so với năm 2007) và mở rộng 8 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 2.810,8 ha (tăng 41,1% so với năm 2007). Năm 2008 là năm có số lượng KCN được thành lập mới và mở rộng nhiều nhất trong gần 17 năm xây dựng và phát triển KCN. Kết quả này xuất phát từ nhu cầu phát triển KCN của các địa phương nhằm tận dụng cơ hội thu hút đầu tư hiện đang tăng cao trên cả nước. Mặt khác, do nhiệm vụ cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho Dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN đã được phân cấp về địa phương, nên đã tạo điều kiện cho các địa phương chủ động và đẩy nhanh quá trình thực hiện thủ tục đầu tư. Tính đến cuối tháng 12/2008, cả nước đã có 219 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên là 61.472,4 ha, phân bố trên 54 tỉnh, thành phố trên cả nước. Trong đó, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê theo quy hoạch đạt gần 40. 000 ha, chiếm 65% diện tích đất công nghiệp. Theo quy hoạch, từ nay đến năm 2015 sẽ thành lập thêm 91 KCN với tổng diện tích 20.839 ha và mở rộng thêm 22 KCN với tổng diện tích 3.543 ha. Dự kiến đến năm 2015 sẽ có thêm 24.381 ha đất KCN. Qua kết quả thành lập mới và mở rộng KCN trong năm 2008, có thể thấy rằng mặc dù sự phân bố KCN đã được điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện cho một số địa bàn đặc biệt khó khăn ở Tây Bắc (Yên Bái, Tuyên Quang, Hòa Bình, Sơn La, Bắc Kạn), Tây Nguyên (Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng), Tây Nam Bộ (Hậu Giang, An Giang, Sóc Trăng…) phát triển KCN để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, song các KCN vẫn tập trung ở các địa phương thuộc ba Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Đến cuối tháng 12/2008, với 149 KCN và tổng diện tích đất tự nhiên 49.232 ha, ba Vùng kinh tế trọng điểm chiếm tới 68% tổng số KCN và 80,9% tổng diện tích đất tự nhiên các KCN cả nước. Trong năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập và ban hành quy chế hoạt động cho 2 KKT: Nam Phú Yên (Phú Yên), Hòn La (Quảng Bình), nâng tổng số KKT được thành lập lên 13 KKT với tổng diện tích cả mặt đất và mặt nước là 612.229 ha. 2. Tình hình thu hút đầu tư Năm 2008, vốn đầu tư tăng thêm trong các KCN đạt được mức cao nhất từ trước tới nay xét cả khu vực đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trong năm 2008, chưa kể tới vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN, các KCN trên cả nước đã thu hút được 12,79 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó vốn của các dự án cấp mới đạt 10,45 tỷ USD với 540 dự án và 2,34 tỷ USD vốn tăng thêm với 537 lượt điều chỉnh dự án. Dẫn đầu trong thu hút đầu tư nước ngoài năm 2008 là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với tổng vốn đầu tư thu hút là 4,5 tỷ USD. Ngoài ra có 3 tỉnh thu hút được trên 1 tỷ USD là Bắc Ninh (1,14 tỷ USD), Bình Dương (1,08 tỷ USD), Đồng Nai (1,01 tỷ USD). Tính đến 31/12/2008, các KCN trong cả nước thu hút được 3.564 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký 42,667 tỷ USD; trong năm 2008, các KKT cả nước thu hút 18,23 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, trong đó cấp mới 18 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký là 15,78 tỷ USD và 12 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư là 2,45 tỷ USD. Lũy kế đến 31/12/2008, các KKT đã thu hút được 72 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký gần 20 tỷ USD. Cơ cấu vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm cho thấy trong năm 2008, tại các KCN có nhiều nhà đầu tư mới, lần đầu đầu tư vào Việt Nam triển khai các dự án làm cho vốn đầu tư cấp mới tăng 4,45 lần so với vốn đầu tư mở rộng. Trong khi đó tại các KKT vốn đầu tư mở rộng gấp trên 13 lần so với vốn đăng ký mới. Về thu hút đầu tư trong nước, năm 2008, các KCN đã thu hút 59.199,57 tỷ đồng (gần 3,5 tỷ USD), trong đó có 524 dự án mới với tổng vốn đăng ký là 53.254, 87 tỷ đồng và điều chỉnh 173 dự án với tổng vốn đầu tăng thêm đạt 5.944,7 tỷ đồng. Lũy kế đến 31/12/2008, các KCN của cả nước thu hút được 3.588 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký là 251.541,57 tỷ đồng (tương đương 14,8 tỷ USD). Trong năm 2008, các KKT đã thu hút được 31.491,2 tỷ đồng (tương đương 1,85 tỷ USD) vốn đầu tư trong nước, trong đó có 74 dự án mới với tổng vốn đăng ký là 30.746 tỷ đồng và 8 dự án tăng vốn với tổng vốn đăng ký là 745,2 tỷ đồng. Lũy kế đến 31/12/2008, các KKT cả nước đã thu hút được 230 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký đạt 111.114 tỷ đồng (tương đương 6,5 tỷ USD). 3. Các KCN, KKT tiếp tục tăng trưởng nhanh và ổn định về sản xuất kinh doanh và thực hiện vốn đầu tư Mặc dù gặp phải nhiều khó khăn do sự biến động tiêu cực của thị trường thế giới, song các dự án trong KCN, KKT vẫn triển khai với tốc độ khá cao. Trong năm 2008, các dự án đầu tư nước ngoài trong KCN, KKT đã thực hiện thêm được 2,5 tỷ USD, bằng 22% tổng số vốn đầu tư nước ngoài giải ngân được trong năm. Tỷ trọng vốn giải ngân này cho thấy các KCN, KKT đã đóng góp đáng kể vào hiệu quả thực hiện vốn đầu tư nước ngoài trên cả nước. Tính đến cuối tháng 12/2008, các KCN cả nước đã có 2.250 dự án FDI và 2.258 dự án trong nước đã đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 16,2 tỷ USD và 121,1 nghìn tỷ đồng, tương ứng 38% và 49% tổng vốn đầu tư nước ngoài và trong nước đăng ký vào KCN. Các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các KCN trong năm 2008 đã đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước. Các doanh nghiệp KCN đã đạt tổng doanh thu 28,9 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN đạt 14,5 tỷ USD, tăng 34% so với năm 2007 và chiếm 24,7% giá trị xuất khẩu của cả nước. 4. Nhiều KCN hoàn thành cơ bản hạ tầng kỹ thuật, nhanh chóng thu hút đầu tư, góp phần nâng cao lấp đầy diện tích đất công nghiệp và hiệu quả sử dụng đất Một trong những điểm nổi bật trong năm 2008 là số lượng các KCN triển khai xong công tác xây dựng hạ tầng và có mặt bằng cho nhà đầu tư thuê khá nhiều, trong đó phải kể đến một số KCN ở Đồng Nai, Bình Dương như Nhơn Trạch II-Lộc Khang, Bàu Xéo, Thạnh Phú. Đặc biệt là một số KCN ở địa bàn có điều kiện khó khăn như Gia Lai, Vĩnh Long, Bến Tre, Quảng Bình, Quảng Trị đã thu hút đầu tư và lấp đầy diện tích đất công nghiệp tương đối tốt. Trong số 219 KCN cả nước có 118 KCN đã đi vào hoạt động, 101 KCN đang xây dựng cơ bản chủ yếu là các KCN mới thành lập trong hai năm gần đây (2007, 2008). Tổng diện tích đất đã cho thuê của các KCN đã đi vào hoạt động đạt 14.904 ha, đạt tỷ lệ lấp đầy 64% diện tích đất công nghiệp . Tính chung các KCN cả nước thì tỷ lệ lấp đầy đạt 46% với 17.107 ha đất công nghiệp đã cho thuê. Như vậy, mặc dù số lượng KCN bắt đầu có đất hoàn chỉnh hạ tầng cho thuê trong năm 2008 lớn, tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp của nhóm các KCN đã vận hành vẫn tiếp tục tăng so với năm 2007. Giá trị sản xuất kinh doanh trên 1 ha diện tích đất công nghiệp đã cho thuê đạt 1,68 triệu USD/ha. KCN tiếp tục góp phần vào giải quyết việc làm và thu ngân sách. Tại thời điểm 31/12/2008, các KCN đã thu hút trên 1 triệu lao động trực tiếp. Tính bình quân 1 ha đất công nghiệp đã cho thuê thu hút 73 lao động. Các doanh nghiệp KCN năm 2008 đã nộp Ngân sách khoảng 1,3 tỷ USD. 5. Công tác xây dựng, hướng dẫn cơ chế, chính sách và thanh tra, kiểm tra KCN, KKT được triển khai tích cực Trong năm 2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức nhiều đợt tập huấn cho các Ban quản lý KCN, KKT, các cơ quan, doanh nghiệp về pháp luật đầu tư và doanh nghiệp, đồng thời hướng dẫn các địa phương trong quá trình triển khai. Qua thông tin phản hồi của các địa phương trong quá trình triển khai, nhiều vấn đề chưa thống nhất, rõ ràng trong pháp luật đầu tư và doanh nghiệp đã được phát hiện kịp thời và hướng dẫn thống nhất cho các địa phương thực hiện. Một số văn bản hướng dẫn Luật Đầu tư và Doanh nghiệp đã được ban hành nhằm khắc phục những quy định còn chồng chéo, không hợp lý trong pháp luật hiện hành. Trong năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định quy định về KCN, KCX và KKT, trong đó quy định thống nhất hoạt động của KCN, KCX, KKT trên các lĩnh vực theo hướng đẩy mạnh phân cấp cho Ban quản lý KCN, KKT. Cuối năm 2008, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức sơ kết tình hình hình triển khai Nghị định 29/1008/NĐ-CP. Nhìn chung, các địa phươngđã triển khai nghiêm túc việc thực hiện Nghị định số 29 trong đó đặc biệt là các Ban quản lý KCN, KKT đã tích cực chủ động hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của mình để thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Trong năm qua, cùng với cơ chế phân cấp, công tác thanh tra, kiểm traKCN, KKT đã được các cơ quan quản lý nhà nước về KCN, KKT được xác định là nhiệm vụ trọng tâm cần đẩy mạnh. ở địa phương, Ban quản lý KCN, KKT đã tích cực phối hợp với các sở, ngành tiến hành thanh, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp KCN, đặc biệt là vấn đề xây dựng và môi trường. ở cấp trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các bộ, ngành đã triển khai thanh tra một số KCN tại Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu, Vĩnh Phúc và kiểm tra tình hình triển khai quy hoạch KCN và sử dụng vốn ngân sách Trung ương xây dựng cơ sở hạ tầng KCN ở những địa bàn kinh tế-xã hội khó khăn tại Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, Các tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ. Nhờ đó, các thiếu sót cũng như các vướng mắc của các địa phương đã được, giải quyết kịp thời, tạo điều kiện nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của KCN, KKT. Thông qua các chuyến đi xúc tiến đầu tư nước ngoài do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức, phối hợp với các địa phương, môi trường đầu tư vào KCN, KKT nói riêng và Việt Nam nói chung được quảng bá, rộng rãi với các nhà đầu tư nước ngoài; chương trình xúc tiến đầu tư đã được xây dựng và điều chỉnh theo hướng tập trung, có trọng điểm, đồng thời Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tổ chức hỗ trợ các địa phương xúc tiến các dự án của các tập đoàn lớn như Hồng Hải, Sam sung… 6. Môi trường KCN đã dần được cải thiện Với những biện pháp kiên quyết và thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở của các bộ, ngành trung ương và địa phương, công tác xử lý chất thải trong KCN, KKT đã được cải thiện. Trong năm 2008, 10 dự án xử lý nước thải tập trung trong KCN đã đi vào vận hành, nâng tổng số nhà máy xử lý nước thải tập trung lên 60 nhà máy, đạt gần 1/2 mục tiêu kế hoạch đến năm 2010, 100% các KCN đã vận hành có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Ngoài ra, các KCN đang xây dựng 20 nhà máy xử lý nước thải tập trung và dự kiến hoàn thành trong năm 2009. Trong năm 2008, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự thảo Quy chế bảo vệ môi trường KCN, KKT. Dự kiến Quy chế sẽ được ban hành trong năm 2009 và sẽ là cơ sở quan trọng trong triển khai công tác bảo vệ môi trường KCN, KKT. II. Định hướng điều hành hoạt động của các KCN, KCX và KKT năm 2009 Tình hình kinh tế thế giới năm 2009 sẽ còn khó khăn, kinh tế Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng nhất định và phải mất thời gian dài mới có sự phục hồi, theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, phải mất từ 1 đến 1,5 năm. Giai đoạn khủng hoảng chỉ kết thúc khi kinh tế Hoa Kỳ ngừng sụt giảm và sau đó kinh tế châu á phục hồi sẽ kéo theo cả thế giới phục hồi. Năm 2009, Việt Nam sẽ phải giải quyết nhiều khó khăn về tình hình xuất nhập khẩu, hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp… Trong bối cảnh đó, định hướng điều hành hoạt động của các KCN, KCX và KKT cần giải quyết tốt một số vấn đề sau: Về việc thành lập và mở rộng KCN, các địa phương khi thành lập mới và mở rộng KCN phải đáp ứng đầy đủ điều kiện tỷ lệ lấp đầy và đưa hệ thống xử lý nước thải vào hoạt động theo quy định tại Quyết định số 1107/QĐ-TTg ngày 21/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển các KCN của Việt Nam đến năm 2015 định hướng đến 2020. Tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và trong nước tại các KCN, KCX và KKT của cả nước, đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KKT, các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao, có giá trị xuất khẩu lớn. Xử lý dứt điểm các vướng mắc trong quá trình triển khai xây dựng và hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề giải phóng mặt bằng. Về cơ chế, chính sách Trong năm 2009, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ: - Trình Thủ tướng Chính phủ Ban hành Quyết định về cơ chế hỗ trợ vốn từ ngân sách Trung ương để đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu kinh tế ven biển cũng như triển khai Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật KCN tại các địa phương có điều kiện kinh tế –xã hội khó khăn thay thế Quyết định 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ. - Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Đôn đốc các bộ, ngành, và các địa phương khẩn trương và nghiêm túc thực hiện nội dung, nhiệm vụ, quyền hạn về quản lý nhà nước đối với các KCN, KCX và KKT đã được quy định cụ thể tại Nghị định 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ. - Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hóa, thể thao…) cho người lao động làm việc trong các KCN, KCX và KKT. - Thực hiện các giải pháp nhằm đưa luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn chặn tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: Nắm vững số lượng lao động trong các KCN, KCX và KKT bị mất việc; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động; nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp trong KCN, KCX và KKT để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc; duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa bộ Kế hoạch và Đầu tư, Lãnh đạo UBND cấp tỉnh với các nhà đầu tư để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật hiện hành, đảm bảo cho các hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới. Về bảo vệ môi trường trong năm 2009, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải có quyết tâm cao kết hợp với các biện pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu tỷ lệ KCN, KCX đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 65%. (TS. Trần Ngọc Hưng-Phó Vụ trưởng Vụ quản lý các KKT) |