Tuần -13 - Ngày 04/05/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Ngăn chặn suy giảm kinh tế Việt Nam
13/05/2009

Trước những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, Chính phủ Việt Nam đã chủ động có các chính sách ngăn chặn suy giảm và kích thích kinh tế. Bước đầu, các gói giải pháp này đã mang lại những kết quả khả quan, được xã hội ghi nhận.

Tuy nhiên, để chính sách ngăn chặn suy giảm và kích thích kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới có hiệu quả hơn, cần có những đánh giá khách quan của các nhà khoa học, các ý kiến đề xuất, đóng góp của các nhà doanh nghiệp. Ngày 9-5, tại Hà Nội, Trường Đại học Kinh tế quốc dân phối hợp với Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tổ chức hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Ngăn chặn suy giảm kinh tế Việt Nam”.


Mục tiêu của hội thảo là tổng kết những vấn đề lý thuyết và kinh nghiệm ngăn chặn suy giảm, kích thích kinh tế của một số nước và đề xuất các cơ chế, chính sách nhằm ngăn chặn suy giảm, kích thích tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

Trên 120 tham luận của các nhà khoa học, quản lý, các nhà doanh nghiệp thuộc các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học, các bộ, ban, ngành trong cả nước và nhiều nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài đã bàn thảo khá toàn diện, từ cả góc độ lý thuyết đến thực tế, những vấn đề liên quan đến khủng hoảng và ngăn chặn suy giảm kinh tế trên thế giới và Việt Nam.

Có thể khái quát lại ở một số nội dung chính sau:

1. Lý thuyết kích cầu và những vấn đề cần quan tâm

Các dấu mốc của suy thoái kinh tế thế giới:
 
2006 - 7-2007 nước Mỹ bên bờ khủng hoảng: từ đầu năm 2006, Bộ trưởng Tài chính của Chính quyền Bush đã nhận thấy các dấu hiệu rủi ro trên thị trường tài chính Mỹ và nhanh chóng lập ra các nhóm nghiên cứu giải pháp đối phó khủng hoảng nếu có thể xảy ra trên diện rộng.

Ngày 6-8-2007: American Home Mortage (Tổ chức thế chấp nhà của Mỹ - một tổ chức cho vay thế chấp để mua nhà vào loại bậc nhất nước Mỹ) nộp đơn xin phá sản.

Tháng 9-2008, Northern Rock - Ngân hàng cho vay thế chấp để mua nhà lớn nhất của Anh sắp phá sản. Chính phủ phải quốc hữu hóa để cứu ngân hàng này.

15-9-2008, Lehman Brothers Holding ngân hàng lớn thứ tư ở Mỹ nộp đơn xin phá sản sau 158 năm hoạt động. Merill Linch tuyên bố sáp nhập với Bank of America với trị giá 50 tỉ USD do thua lỗ.

26-9-2008, Washing Mutuel Inc. - ngân hàng tiết kiệm lớn nhất của Mỹ thành lập năm 1889 với tổng tài sản 307 tỉ USD và 2300 chi nhánh tại 15 bang đã lỗ 19 tỉ USD và được bán cho ngân hàng GP Morgan Chase (để tránh phá sản).

29-9-2008, Chính phủ Anh quốc hữu hóa tập đoàn cho vay kinh doanh bất động sản lớn nhất của Anh là Bradforg & Bingley Plc.

Tháng 10-2008, ngân hàng kinh doanh bất động sản lớn thứ hai của Đức Hypo Real Estate có nguy cơ phá sản. Chính phủ Đức phải mua lại một phần cổ phần để cứu nguy.

Trong năm 2008 đã có 25 ngân hàng Mỹ bị phá sản. Hai tháng đầu năm 2009 có thêm 16 ngân hàng Mỹ bị phá sản.

1-2009: Tập đoàn Citygroup, từng là ngân hàng lớn nhất thế giới với chi nhánh tại hơn 100 quốc gia, năm 2008 đã lỗ 18,72 tỉ USD, giá cổ phiếu của tập đoàn giảm 87% giá trị trong năm 2008

Xuất phát từ thực tế các nước sử dụng các biện pháp để kích cầu, kích thích kinh tế, nhiều ý kiến phát biểu cho rằng, cần phải phân tích kỹ lý thuyết của J.M. Keynes về khủng hoảng kinh tế và biện pháp khắc phục được trình bày trong cuốn “Lý thuyết tổng quát về việc làm và biện pháp khắc phục”. J.M.Keynes cho rằng, nếu để nền kinh tế tự điều tiết thì sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng và kéo dài, vì thế Chính phủ cần phải can thiệp, điều chỉnh để nền kinh tế tránh bị sụp đổ quá mức, cũng như quá trình phục hồi được diễn ra nhanh hơn. Cuộc khủng hoảng kinh tế lần này làm cho tư tưởng kinh tế học của Keynes về kích cầu lại một lần nữa trở thành nền tảng cho các giải pháp cứu cánh của chính phủ các nước đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng. Để điều chỉnh kinh tế, lý thuyết của Keynes tập trung vào những chính sách: đảm bảo đầu tư nhà nước và kích thích đầu tư tư nhân; sử dụng hệ thống tài chính - tín dụng và lưu thông tiền tệ với tư cách là công cụ kinh tế vĩ mô để điều tiết kinh tế; mở rộng các hình thức tạo việc làm; khuyến khích tiêu dùng.

Trên cơ sở lý thuyết Keynes, các gói kích cầu được triển khai trên cơ sở tác động trực tiếp đến các yếu tố cấu thành tổng cầu (tiêu dùng của các hộ gia đình; đầu tư tư nhân; chi tiêu chính phủ; xuất khẩu ròng). Đầu tư nhà nước sẽ có tác dụng mạnh mẽ đến tạo việc làm, làm tăng tiêu dùng, đồng thời làm tăng cầu đầu tư.

Tuy nhiên, việc các nước thực hiện chính sách kích cầu hiện nay cũng đang đặt ra một vấn đề: liệu các chính sách kích cầu lần này có mang lại hiệu quả và đưa nền kinh thế giới thoát khỏi suy thóai? Nhiều nhà kinh tế cũng lo ngại rằng, gia tăng chi tiêu chính phủ sẽ tiềm ẩn gia tăng “thất bại” của chính phủ và làm cho tình hình kinh tế có thể tồi tệ thêm, thậm chí còn đưa ra cảnh báo về khả năng của một số giải pháp kích cầu ở một số nước là làm theo Keynes “một cách cứng nhắc và mù quáng”.

Nhiều ý kiến đã trích dẫn 3 tiêu chí để thực hiện gói kích cầu có hiệu quả của giáo sư kinh tế Lawrence Summers, đó là: đúng lúc, trúng đích và vừa đủ. Đúng lúc tức là thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp chưa thu hẹp sản xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Trúng đích tức là hướng tới những chủ thể kinh tế nào tiêu dùng nhanh hơn khoản tài chính được hưởng nhờ kích cầu và do đó sớm gây ra tác động lan tỏa tới tổng cầu hơn; đồng thời, hướng tới những chủ thể kinh tế nào bị tác động bất lợi hơn cả bởi suy thoái kinh tế. Vừa đủ tức là gói kích cầu sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế đã trở lại tốt hơn.

2. Một số gói kích cầu điển hình của các quốc gia trên thế giới

Do mức độ trầm trọng và lan rộng của cuộc khủng hoảng, chính phủ các nước là trụ cột của nền kinh tế thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản và hàng loạt các nước khác đã phải phối hợp sử dụng các gói giải pháp cứu trợ và kích thích chống suy giảm nền kinh tế với trị giá hàng nghìn tỉ USD. Tính đến đầu tháng 2-2009, tổng hợp các gói kích cầu lớn ở EU, Mỹ, Nhật có thể xếp lại theo quy mô như sau:

- Mỹ đứng đầu, có thể chi tới 819 tỉ USD trong vòng hai năm 2009 - 2010.

- Thứ hai là Nhật Bản với 95 tỉ USD.

- Đức đứng thứ ba với 49,25 tỉ ơ-rô.

- Pháp đứng tiếp sau với 26 tỉ ơ-rô.

- Sau Pháp là Anh với 23,7 tỉ ơ-rô.

- Tiếp đến là Tây Ban Nha với 11 tỉ ơ-rô.

- Thứ bảy là I-ta-li-a với 2,4 tỉ ơ-rô.

Qua nghiên cứu các gói giải pháp cứu trợ và ngăn chặn suy giảm, kích thích kinh tế của các nước phát triển (Mỹ, Nhật Bản, Anh và EU, Hàn Quốc) và các nước đang phát triển (Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Ma-lai-xi-a) có thể thấy: Một là, các gói giải cứu và ngăn chặn suy giảm kích thích kinh tế được thiết kế tùy theo đặc điểm nền kinh tế từng nước. Hai là, các gói kích cầu kích thích tăng trưởng kinh tế, tùy theo hoàn cảnh mỗi nước có thể chỉ bao gồm các công cụ của chính sách tài khóa hoặc có thể bao gồm cả các công cụ của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Ba là, các nhóm biện pháp trong kích cầu của các nước có thể chia thành bốn nhóm chính: kích thích tiêu dùng; kích thích đầu tư của doanh nghiệp; kích thích thông qua đầu tư công; nhóm biện pháp phụ trợ.

3. Kinh tế Việt Nam trong bối cảnh của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới

Các đại biểu cho rằng, cần nhìn nhận rõ thực trạng kinh tế Việt Nam năm 2008 - năm kinh tế thế giới rơi vào suy thoái để có cách tiếp cận đúng với các biện pháp được sử dụng để ngăn chặn suy giảm kinh tế ở nước ta trong thời gian qua, cũng như các giải pháp cần thực hiện để đón đầu cơ hội tăng trưởng trở lại của nền kinh tế.

Thứ nhất, tình hình kinh tế Việt Nam năm 2008 có rất nhiều biến động trái chiều. Vào những tháng đầu năm 2008, lạm phát tăng cao, Chính phủ đưa ra gói giải pháp kiềm chế lạm phát, chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, sản xuất thu hẹp, số người mất việc làm tăng. Đến những tháng cuối năm, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, nền kinh tế xuất hiện dấu hiệu suy giảm, Chính phủ lại phải chuyển sang thực hiện nhóm giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế.

Trong bối cảnh đó, để triển khai các nhóm giải pháp của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước phải linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ, chuyển mạnh từ chính sách tiền tệ thắt chặt sang chính sách tiền tệ nới lỏng chỉ trong một thời gian rất ngắn. Sự điều chỉnh quá nhanh đó đã gây ra một số tác động tiêu cực trước tiên là cho hoạt động ngân hàng sau đó là đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.

Thứ hai, nhiều lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế chịu tác động mạnh của khủng hoảng. Một là, xuất khẩu. Nền kinh tế nước ta chủ yếu dựa vào xuất khẩu, thêm vào đó, thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là Mỹ và EU (chiếm khoảng gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu) - là những nền kinh tế rơi vào suy thoái nặng nề nhất, nên xuất khẩu bị thu hẹp, tác động xấu tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhiều mặt hàng xuất khẩu Việt Nam còn phải đối mặt với những rào cản thương mại ngày càng nhiều, với các hành vi bảo hộ thương mại ngày càng tinh vi tại các thị trường lớn để bảo hộ sản xuất nội địa.

Cũng do nền kinh tế phát triển lệch, thiên về xuất khẩu nên thị trường nội địa bị sao nhãng. Khi xuất khẩu khó khăn, thị trường nội địa không đóng được vai trò là “phao” đỡ cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Trong thời gian xuất khẩu gặp khó khăn, các doanh nghiệp lại cùng đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa, trong khi doanh thu nội địa cũng giảm do sức mua của người tiêu dùng kém, thu nhập thực tế giảm, thất nghiệp tăng; xu hướng tiêu dùng hàng giá rẻ tăng nhanh và, hàng nước ngoài giá rẻ có điều kiện thuận lợi tràn vào, gây sức ép cạnh tranh lớn đối với hàng nội địa.

Hai là, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). FDI đóng góp rất lớn vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, khi nhu cầu tiêu thụ của thế giới sụt giảm việc giải ngân FDI cho các dự án sẽ chậm lại đáng kể. Dòng vốn đầu tư gián tiếp cũng khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn hơn. Dòng kiều hối vào Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Với con số từ 8 - 10 tỉ USD/năm, kiều hối là nguồn thu rất quan trọng của Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế toàn cầu khó khăn, nguồn vốn này có sự sụt giảm nhất định.

Ba là, du lịch. Du lịch là một trong những nguồn thu ngoại tệ và nguồn tạo việc làm quan trọng của Việt Nam, nhưng do thu nhập giảm nên lượng khách giảm, đồng thời khách du lịch cũng thắt chặt chi tiêu, dẫn tới nguồn thu từ du lịch cũng sụt giảm. Trong khi đó, các ngân hàng Việt Nam đã cho vay hàng tỉ đồng đầu tư vào các dự án xây dựng khách sạn và phát triển du lịch, nếu những dự án này thất bại, ngân hàng sẽ đối mặt với rất nhiều khó khăn.

Thứ ba, cơ hội tái cơ cấu kinh tế và đón đầu tăng trưởng. Cuộc suy thoái kinh tế làm bộc lộ rõ những bất cập trong cơ cấu kinh tế, quản lý điều hành, tư tưởng nóng vội làm giàu; nhận thức rõ hơn về giá trị tăng trưởng; làm cho những nhà hoạch định chính sách làm quen với việc phản úng với những tác động của khủng hoảng để có thể đưa ra các chính sách ứng phó một cách thật linh hoạt, góp phần đưa đất nước tiến lên.

Đối với doanh nghiệp, đây cũng là một dịp sàng lọc để loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém, qua đó làm tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp nhận rõ hơn những điểm yếu trong quản trị và kinh doanh của mình; tìm hiểu loại thị trường, cơ cấu thị trường, đối tác để hình thành ý tưởng và hoạch định những chiến lược phù hợp từng bước kinh doanh có bài bản và định hướng rõ ràng hơn.

Với ý nghĩa đó, các ý kiến phát biểu tại hội thảo đều thống nhất cho rằng, khủng hoảng tạo ra nhiều cơ hội, thậm chí cơ hội “vàng” cho các doanh nghiệp. “Khủng hoảng tạo ra cải cách”.

4. Các chính sách ngăn chặn suy giảm và kích thích kinh tế của Việt Nam

Một số chính sách ngăn chặn suy giảm kinh tế của Việt Nam
 
- Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.

- Quyết định số 12/2009/QD-TTg ngày 19/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ.

- Quyết định 131/2009QD-TTg ngày 23/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh.

- Quyết định số 16/2009/QD-TTg ngày 21/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành một số giải pháp về thuế nhằm thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

- Quyết định 14/QD-TTg ngày 21/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại.

- Quyết định 443/QD-TTg ngày 4/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung và dài hạn ngân hàng để thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất kinh doanh.

- Quyết định 497/QD-TTg ngày 17/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ lãi suất vay vốn mua máy móc thiết bị vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn.

- Quyết định 30/2009/QD-TTg ngày 23/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ đối với người lao động mất việc làm trong doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế.

- Thông tư số 02/2009/TT-NHNN ngày 3/2/2009 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh.

- Thông tư số 05/2009/TT-NHNN ngày 7/4/2009 của Ngân hàng Nhà nước quy định chi tiết thi hành hỗ trợ lãi suất đối với các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân hàng, thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất kinh doanh.

- Thông tư số 03/2009/TT-BTC ngày 13/1/2009 của Bộ Tài chính về giảm, gia hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.

- Thông tư 04/2009/TT-BTC ngày 13/1/2009 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thực hiện hoàn thuế VAT theo Nghị quyết 30/2008/NQ-CP.

- Thông tư 05/2009/TT-BTC ngày 13/1/2009 của Bộ Tài chính về thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu.

Đây là vấn đề được hội thảo đặc biệt quan tâm và được xem xét dưới nhiều góc độ: người quản lý, nhà nghiên cứu, nhà doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc xem xét, đánh giá hiệu quả các giải pháp kích cầu, theo nhiều đại biểu, cần xuất phát từ thực trạng nền kinh tế Việt Nam.

Thứ nhất, các công cụ chủ yếu để thực hiện kích cầu của Chính phủ. Các chính sách của Chính phủ đưa ra trong thời gian qua cho thấy, về tổng thể, những “át chủ bài” quan trọng nhất thực hiện gói kích cầu của Chính phủ gồm: giảm thuế, giãn thuế, hoàn thuế; hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp; hạ lãi suất cơ bản và tỷ lệ dự trữ bắt buộc; tăng đầu tư công cho kết cấu hạ tầng từ nguồn trái phiếu Chính phủ và hỗ trợ trực tiếp cho người dân thông qua các Chính sách an sinh xã hội. Các công cụ đó đã hướng tới bốn nhóm đối tượng là: doanh nghiệp; hộ gia đình; Chính phủ và hoạt động xuất nhập khẩu, và, được thực hiện trên tổng thể ba nhóm biện pháp kích cầu: kích thích tiêu dùng nội địa; kích thích đầu tư của doanh nghiệp; kích thích thông qua đầu tư công.

Để kích cầu, ở một số nước, chính phủ hỗ trợ trực tiếp tiền cho dân để tăng sức mua, hoặc chuyển tiền cho doanh nghiệp, ngân hàng, nhưng Việt Nam không thể áp dụng cách thức đó vì lượng dự trữ có hạn, tiềm lực còn hạn chế, vì thế phải dùng hình thức khác như bù lãi suất, cho vay không lãi; hỗ trợ mua bảo hiểm y tế,... Đó là cách làm của các nước đang phát triển, các nước có điều kiện kinh tế eo hẹp.

Thứ hai, đánh giá hiệu quả gói kích cầu. Nhìn chung, các ý kiến của các nhà khoa học, doanh nghiệp, quản lý đều cho rằng, hai gói giải pháp kích cầu đầu tư của Chính phủ đã mang lại nhiều hiệu ứng tích cực, trong đó đáng kể nhất là giảm một phần chi phí vốn vay cho doanh nghiệp, đảm bảo giải quyết những khó khăn trước mắt cho các dự án đang thiếu vốn, các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, qua đó giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập cho người lao động...Chẳng hạn, phát biểu tại Hội thảo, giám đốc một doanh nghiệp khẳng định rằng, Quyết định 131/2009QD-TTg ngày 23-1-2009 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức và cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh là biện pháp cấp cứu kịp thời, giúp doanh nghiệp thoát hiểm, hồi sinh.

Thứ ba, những vấn đề đặt ra sau một thời gian triển khai gói kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất.

Cho đến thời điểm hiện nay, trọng tâm chính trong các biện pháp ứng phó của Chính phủ là hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp. Ngày 23-1-2009, Chính phủ công bố gói kinh tế lần một với lãi suất hỗ trợ 4%. Gói kích thích kinh tế lần hai được Chính phủ công bố hôm 6-4 nhằm cấp bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp song hướng vào các nguồn vốn trung và dài hạn trong khoảng thời gian tối đa 24 tháng.

Để ngăn chặn suy giảm kinh tế và kích cầu, gói hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ là một giải pháp tốt, tuy nhiên, cần phải tiên liệu được tính hiệu quả của nó và phải có sự điều chỉnh do những yếu tố sau.

Một là, hiện tượng đảo nợ rất dễ xảy ra khi mà nhiều doanh nghiệp muốn được vay hỗ trợ lãi suất để trả những khoản vay trước đó với lãi suất cao. Thực tế, hoạt động đảo nợ có thể diễn ra theo nhiều kiểu, nhiều cách và ngân hàng cũng khó kiểm soát được.

Để minh họa khả năng này, có ý kiến đã dẫn chứng: Tính đến hết tháng 2-2009, lượng vốn cho vay trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chỉ lớn hơn lượng vốn thu hồi về (nợ) khoảng 23.200 tỉ đồng. Nếu so với chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng toàn ngành năm 2009 là 21-22%, thì tốc độ tăng tổng dư nợ 0,46% của Thành phố Hồ Chí Minh là quá thấp. Vòng quay vay - trả, trả - vay đã được đẩy nhanh như vậy không loại trừ khả năng sử dụng vốn vay hỗ trợ lãi suất để trả nợ cũ. Vốn trở về ngân hàng nhanh như vậy thì mục tiêu kích cầu không đạt được kết quả như mong muốn. Vì thế, cần tăng cường công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện công việc cho vay, hỗ trợ lãi suất, tránh tiêu cực, gây khó khăn cho người vay, hoặc thông đồng với người vay để tư lợi cá nhân, thực hiện đảo nợ. Đảo nợ tuy có lợi cho người vay và ngân hàng nhưng không tạo thêm được sản phẩm, hàng hóa và việc làm cho người lao động.

Một dẫn chứng khác, sau một thời gian thực hiện, theo thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, dư nợ cho vay tín dụng lãi suất thấp đến thời điểm ngày 10/4 là hơn 200 nghìn tỉ đồng, tương ứng với mức tăng trưởng tín dụng khoảng 15-17%. Tuy nhiên, trong thực tế, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế từ đầu năm đến nay ước tính khoảng gần 3%. Điều đó cho thấy phần lớn các khoản tín dụng hỗ trợ lãi suất đã đảo trở về các ngân hàng. Chính xác là có đến hơn 80% dư nợ tín dụng hỗ trợ lãi suất thực chất đã được đảo nợ chứ không phải cho khu vực sản xuất kinh doanh thực của nền kinh tế. Như vậy, tác động của gói kích cầu lần một rất hạn chế. Vì thế, cần đưa mục tiêu tạo việc làm như một điều kiện quan trọng để tiếp cận với hỗ trợ lãi suất thấp.

Về vấn đề này có nhiều ý kiến cho rằng, thực trạng trên là khó tránh khỏi, tuy nhiên, việc các doanh nghiệp xây dựng các dự án mới để mở rộng sản xuất trên cơ sở các dự án “cũ” đang vay vốn ngân hàng cũng giống như việc tái cơ cấu các khoản vay ngắn hạn. Và như vậy, các dự án mới hoàn toàn có thể là các dự án cũ được xây dựng lại để chuyển thành những khoản vay mới được hỗ trợ lãi suất. Có thể gọi hiện tượng này là “đảo dự án” mà cả doanh nghiệp và ngân hàng đều có thể thực hiện nhanh chóng. Không phải mọi trường hợp “đảo nợ” đều là xấu.

Hai là, biện pháp hỗ trợ lãi suất khó đạt được kết quả mong đợi vì thị trường của các sản phẩm xuất khẩu lớn của Việt Nam như dệt may, da giày, thủy sản, gỗ đang thu hẹp nhiều do suy thoái kinh tế toàn cầu, nên các doanh nghiệp trong các ngành này hầu như không mặn mà đối với các khoản vay này bởi họ không muốn tăng thêm nợ. Do vậy, gói hỗ trợ lãi suất của Chính phủ khó đạt được mục tiêu tạo việc làm, do những người mất việc chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có vốn đầu tư ngước ngoài.

Ba là, gói hỗ trợ lãi suất của Chính phủ dường như mới chỉ chú trọng vào kích cầu sản xuất chứ chưa kích cầu tiêu dùng. Khuyến khích tiêu thụ sản phẩm nên chăng cần thông qua biện pháp giảm thuế mà không sử dụng biện pháp hỗ trợ lãi suất. Hỗ trợ lãi suất dễ làm tăng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp để doanh nghiệp duy trì sản xuất. Như vậy rất có thể làm tăng thêm ứ đọng sản phẩm. Giảm thuế sẽ có tác dụng tăng thêm thu nhập cho doanh nghiệp giống như hỗ trợ lãi suất mà không phải qua nhiều thủ tục phiền phức.

Bốn là, cần có cơ chế quản lý chặt chẽ để đảm bảo rằng lượng vốn vay hỗ trợ lãi suất được sử dụng đúng mục đích, tránh tình trạng dùng vốn đó vào các hoạt động đầu cơ, gây nguy cơ lạm phát sau này của nền kinh tế.

5. Kiến nghị, đề xuất những hướng cần đầu tư để sử dụng có hiệu quả gói kích cầu của Chính phủ, và đón đầu cơ hội tăng trưởng kinh tế

Một là, giải pháp ngăn chặn suy thoái kinh tế phải hướng vào việc tạo ra những doanh nghiệp mới, cần áp dụng chính xác hỗ trợ lãi suất cho những doanh nghiệp mới có phương án kinh doanh khả thi để thu hút số lao động đã mất việc và tạo ra công ăn việc làm mới. Hai trọng tâm mà chính sách hỗ trợ cần bảo đảm là: thứ nhất, tập trung vào những khu vực tạo việc làm để ngăn chặn thất nghiệp; thứ hai, ưu tiên hỗ trợ những nhóm dễ bị tổn thương nhất cho nền kinh tế.

Hai là, kích cầu nông thôn trên cơ sở nhìn nhận lại vai trò của nông nghiệp và các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực. Thực tế mấy chục năm qua cho thấy, mỗi khi nền kinh tế rơi vào tình trạng khó khăn, nông nghiệp lại nổi lên như một sự trợ giúp đáng kể. Trong những tháng đầu năm 2009, giá dầu sụt giảm kỷ lục, nhiều mặt hàng xuất khẩu lao đao, thị trường xuất khẩu thu hẹp thì xuất khẩu gạo lại nhộn nhịp, góp phần đáng kể vào việc hạn chế mức giảm xuất khẩu. Các nhà kinh tế cho rằng, dù kinh tế thế giới suy giảm thì nhu cầu đối với lương thực, các mặt hàng nông sản không bị sụt giảm như đối với các hàng tiêu dùng cao cấp, xa xỉ. Hiện tượng này cho thấy, chúng ta cần có cách nhìn mới đối với vai trò của nông nghiệp để có sự đầu tư đúng mức, thỏa đáng, nhất là trong bối cảnh tỷ lệ người nghèo đói trên thế giới tăng nhanh do khủng hoảng kinh tế, và nhiều nước đã rơi vào khủng hoảng lương thực, dẫn tới xung đột, bạo lực, bất ổn về chính trị - xã hội.

Việc kích cầu nông thôn cần gắn liền với chiến lược phát triển khu vực kinh tế - xã hội rộng lớn này. Nhất là trong bối cảnh do tác động của khủng hoảng, lao động mất việc làm có xu hướng quay trở về nông thôn. Trước mắt, Chính phủ cần có chính sách kích cầu nông thôn (qua tín dụng tiêu dụng, ưu đãi cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nông thôn và các giải pháp khác) để tăng sức mua của người dân. Do thu nhập còn thấp và nhu cầu thiết yếu còn đơn giản, không cao như những vùng khác nhưng vẫn chưa được đáp ứng nên chỉ một sự kích cầu không lớn cũng có thể mang lại tác động đủ mạnh, hiệu quả cao. Đồng thời, Nhà nước nên tiếp tục đẩy mạnh phát triển hạ tầng nông thôn ở nhiều vùng. Đó không chỉ là giải ngân vốn đầu tư phát triển của Nhà nước, tạo việc làm và giúp các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa có liên quan mà còn tạo điều kiện rất quan trọng để các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp trong nước nhanh chóng phát triển và mở rộng được hệ thống phân phối của mình đến địa bàn chiến lược quan trọng này.

Ba là, ngoài kích cầu thông qua lãi suất, chính phủ cũng cần chú trọng các nhóm giải pháp khác như xúc tiến thương mại, đẩy mạnh hoàn thiện các dự án và công trình đầu tư xây dựng cơ bản. Hỗ trợ lao động mất việc làm thông qua kinh phí dự phòng; trợ cấp cho người nghèo, người có thu nhập thấp, chi cho nông nghiệp để đẩy mạnh sản xuất.

Bốn là, điều chỉnh chiến lược thị trường theo hướng khai thác mạnh mẽ nhu cầu trong nước. Với gần 90 triệu dân, thị trường nội địa là đáng kể. Cần khắc phục tâm lý coi trọng xuất khẩu, xem nhẹ sản phẩm và tiêu dùng hàng nội địa. Nhà nước nên xây dựng chương trình khuyến khích phát triển thị trường nội địa, ưu tiên cho một số ngành có tiềm năng lớn về đầu ra nội địa, và ngành sử dụng nhiều lao động, thí dụ như dệt may, da giày, thủ công nghiệp. Ngân sách nhà nước nên dành ngân khoản đặc biệt cho chương trình này như là một khoản kích cầu đặc thù. Đây có thể coi là một giải pháp đòn bẩy tài chính trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu. Cần phát triển, khuyến khích phát triển một cách cân đối giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, tránh việc “sính ngoại” mà quên mất thị trường trong nước.

Năm là, Nhà nước đầu tư vào xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng: làm đường, làm cầu, xây bay, bến cảng... theo quy hoạch. Đây cần được coi là khâu đột phá trong kích cầu ở Việt Nam hiện nay. Việc thực hiện kích cầu cũng cần hết sức lưu ý bảo đảm cân đối liên ngành, xác lập các cân đối vĩ mô. Tránh lặp lại tình trạng do có quá nhiều công trình của Nhà nước được khởi công trong những năm 2006-2007, đã làm cho cầu vật liệu xây dựng tăng cao và đẩy giá tăng nhanh, thậm chí gây “sốt” giá. Khi đầu tư nhà nước làm tăng đầu tư tư nhân, giải pháp tài chính - tiền tệ: hạ lãi suất, hỗ trợ lãi suất, giảm thuế... sẽ phát huy tác dụng.

Sáu là, cần chú trọng công tác thu thập thông tin chính xác, cập nhật về các tín hiệu thị trường để có thể xử lý kịp thời. Có chiến lược quản lý rủi ro một cách hiệu quả./.

Hiền Thư (theo Tạp chí Cọng sản)

Cập nhật ( 27/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com