Kể từ khi KKT ven biển đầu tiên là KKTM Chu Lai được thành lập vào năm 2003 đến nay đã có 14 KKT được thành lập, gồm: 2 KKT ở vùng Đồng bằng sông Hồng là: Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh) và Đình Vũ – Cát Hải (thành phố Hải Phòng); 10 KKT ở vùng Duyên hải miền Trung là Nghi Sơn (tỉnh Thanh Hóa), Đông Nam Nghệ An (tỉnh Nghệ An), Vũng áng (tỉnh Hà Tĩnh), Hòn La (tỉnh Quảng Bình), Chân Mây-Lăng Cô (tỉnh Thừa Thiên Huế), Chu Lai (tỉnh Quảng Nam), Dung Quất (tỉnh Quảng Ngãi), Nhơn Hội (tỉnh Bình Định), Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Nam Phú Yên (tỉnh Phú Yên); và 2 KKT ở miền Nam là KKT đảo Phú Quốc và cụm đảo Nam An Thới (tỉnh Kiên Giang) và Định An (tỉnh Trà Vinh). Tổng diện tích mặt đất và mặt nước biển của 14 KKT là 627.633 ha.
I. Tổng quan về các khu kinh tế ven biển của cả nước
1. Tình hình phát triển các khu kinh tế ven biển
Kể từ khi KKT ven biển đầu tiên là KKTM Chu Lai được thành lập vào năm 2003 đến nay đã có 14 KKT được thành lập, gồm: 2 KKT ở vùng Đồng bằng sông Hồng là: Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh) và Đình Vũ – Cát Hải (thành phố Hải Phòng); 10 KKT ở vùng Duyên hải miền Trung là Nghi Sơn (tỉnh Thanh Hóa), Đông Nam Nghệ An (tỉnh Nghệ An), Vũng áng (tỉnh Hà Tĩnh), Hòn La (tỉnh Quảng Bình), Chân Mây-Lăng Cô (tỉnh Thừa Thiên Huế), Chu Lai (tỉnh Quảng Nam), Dung Quất (tỉnh Quảng Ngãi), Nhơn Hội (tỉnh Bình Định), Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Nam Phú Yên (tỉnh Phú Yên); và 2 KKT ở miền Nam là KKT đảo Phú Quốc và cụm đảo Nam An Thới (tỉnh Kiên Giang) và Định An (tỉnh Trà Vinh). Tổng diện tích mặt đất và mặt nước biển của 14 KKT là 627.633 ha.
Theo Đề án “Quy hoạch phát triển các Khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2008 thì đến năm 2020 sẽ hình thành nên hệ thống 15 KKT ven biển. Sau năm 2010 sẽ thành lập KKT Năm Căn, tỉnh Cà Mau và tiếp tục đầu tư phát triển theo quy hoạch, kế hoạch phát triển đã được điều chỉnh, bổ sung đối với 14 KKT ven biển đã được thành lập trước năm 2010.
Đến nay, ngoài 9 KKT là Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn, Vũng áng, Chân Mây – Lăng Cô, Vân Phong, Vân Đồn, Nam Phú Yên đã cơ bản hoàn thành các công tác quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết các phân khu chức năng và đang tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội, xây dựng các khu tái định cư, các KKT khác hiện đang trong giai đoạn xây dựng quy hoạch, chuẩn bị và hoàn thiện bộ máy và nhân sự, chuẩn bị các điều kiện tiền đề cho việc lập dự án và huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, triển khai công tác đền bù giải phóng mặt bằng các khu chức năng.
Tính đến năm 2009, các KKT đã thu hút được 550 dự án trong nước và nước ngoài với tổng vốn đầu tư 24.415,9 triệu USD và 294.157 tỷ đồng. Trong đó, có một số dự án lớn và quan trọng tại các KKT như: các nhà máy lọc dầu ở các KKT Nghi Sơn, Dung Quất và Nam Phú Yên; các nhà máy đóng tàu ở các KKT Nghi Sơn, Dung Quất; Nhà máy thép Quảng Liên, Khu liên hợp gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương, Nhà máy cơ khí nặng Doosan, các nhà máy nhiệt điện tại các KKT Nghi Sơn, Vũng áng, Dung Quất, Định An. Ngoài ra, dự án kênh quan Chánh Bố (Định An), cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, sân bay Phú Quốc cũng đang khẩn trương triển khai đầu tư xây dựng.
Hiện tại, một số dự án lớn và quan trọng tại các KKT đã hoàn thành và đi vào hoạt động như Nhà máy Lọc dầu số 1, Nhà máy đóng tàu, Nhà máy cơ khí nặng Doosan tại KKT Dung Quất, sân bay Chu Lai, Nhà máy ô tô Trường Hải tại KKT mở Chu Lai, các nhà máy xi măng tại KKT Nghi Sơn,... góp phần đáng kể cho việc tăng năng lực sản xuất trong ngành công nghiệp và phát triển kinh tế vùng.
2. Các cơ chế, chính sách đối với các khu kinh tế ven biển
Trên cơ sở chủ trương cho phép nghiên cứu triển khai thí điểm mô hình Khu kinh tế mở tại Chu Lai, tỉnh Quảng Nam của Bộ Chính trị tại Thông báo số 232-TB/TW ngày 10/7/1999 của Ban Chấp hành Trung ương và ý kiến của Bộ Chính trị về Đề án xây dựng Khu kinh tế mở Chu Lai tại Thông báo số 79-TB/TW ngày 27/9/2002 của Ban Chấp hành Trung ương, Khu kinh tế mở Chu Lai được thành lập và hoạt động theo quy chế hoạt động ban hành kèm theo các Quyết định số 108/2003/QĐ-TTg ngày 05/6/2003 và số 253/2006/QĐ-TTg ngày 6/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Từ quy định chung áp dụng tại KKTM Chu Lai, các cơ chế, chính sách đối với các khu kinh tế ven biển bắt đầu dần được từng bước xây dựng và cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư, đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân. Ngoài ra, cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách trung ương đối với đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KKT ven biển và phương thức tổ chức và hoạt động của một số khu chức năng trong KKT như khu thương mại tự do, khu phi thuế quan cũng được nghiên cứu ban hành để tạo ra những động lực mới cho các KKT ven biển phát triển.
Theo các quy định hiện hành của Luật Đầu tư số 59/2005/QH11; Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư; Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và KKT; Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp; Quyết định số 126/2009/QĐ-TTg ngày 26/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách trung ương đối với đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KKT ven biển thì các dự án đầu tư vào KKT ven biển được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư như đối với các dự án đầu tư vào khu vực có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn (thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong 15 năm; miễn 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo; giảm 50% thuế thu nhập cá nhân; miễn thuế nhập khẩu tạo tài sản cố định; miễn thuế nhập khẩu 5 năm đầu đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất nhập khẩu để phục vụ sản xuất...); được ngân sách trung ương hỗ trợ vốn đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội thiết yếu nhằm đảm bảo cho sự hoạt động và phát triển của các KKT ven biển. Ngoài ra, mô hình, cơ chế và chức năng quản lý nhà nước đối với KKT được chuyển từ cơ chế “ủy quyền” sang cơ chế “phân cấp và giao nhiệm vụ trực tiếp” cho Ban quản lý KKT một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực từ đầu tư tới lao động, thương mại - xuất nhập khẩu, xây dựng, đất đai - môi trường, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm hành chính,... đối với đầu tư trong nước và nước ngoài trong KKT.
3. Các vấn đề đặt ra đối với phát triển các KKT ven biển của Việt Nam:
Quá trình nghiên cứu, triển khai xây dựng và phát triển các KKT trong thời gian qua đặt ra một số vấn đề cần tập trung nghiên cứu giải quyết cụ thể gồm:
- Việc hình thành các KKT trong bối cảnh luật pháp ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, vì vậy các cơ chế, chính sách ưu đãi và mô hình tổ chức và quản lý đối với các KKT phải được điều chỉnh cho phù hợp và thay đổi nhiều lần nên có ảnh hưởng tới sự phát triển của các KKT và hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, do các cơ chế, chính sách ưu đãi đối với KKT còn bị khống chế bởi quy định khung của pháp luật do vậy cũng chỉ có thể nghiên cứu áp dụng các cơ chế, chính sách ưu đãi cao nhất trong khung pháp luật hiện hành đối với các KKT.
- Một số Bộ, ngành vẫn còn có xu hướng chỉ đạo theo ngành dọc hoặc dẫn chiếu các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành nên việc thực hiện một số chức năng quản lý nhà nước đối với KKT chưa được cụ thể hóa hoặc khó triển khai trên thực tế, đặc biệt trên các lĩnh vực như: quản lý lao động, môi trường, thương mại, xây dựng, du lịch, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính...
- Trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ công chức của một số Ban quản lý KKT còn hạn chế nên chưa xây dựng quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển chiến lược dài hạn triển khai đồng bộ các chức năng, nhiệm vụ đã được giao. Đồng thời, các Bộ, ngành cũng chưa quan tâm tới việc đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức của Ban quản lý.
- Chưa xây dựng và thực hiện được một chương trình quảng bá và xúc tiến đầu tư quốc gia đối với các KKT ven biển ở nước ngoài với quy mô lớn và có hệ thống. Đồng thời thiếu vắng một chiến lược thu hút các dự án đầu tư mang tính động lực, có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển ngành và lĩnh vực tại các KKT.
- Mặc dù thời gian nghiên cứu triển khai thí điểm mô hình KKTM tại Chu Lai theo ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị diễn ra khá dài nhưng chỉ ngay sau khi KKTM Chu Lai được thành lập, số lượng các khu kinh tế ven biển được quy hoạch và thành lập đã tăng lên nhanh chóng.
- Phần lớn các KKT đều được thành lập ở những tỉnh có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội khó khăn và ở những khu vực mà hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật thiết yếu còn chưa được đầu tư xây dựng đồng bộ nên việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng của các KKT chủ yếu phải dựa vào nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương. Tuy nhiên, do nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương còn rất hạn chế trong khi số lượng các KKT được thành lập tăng nhanh nên mức vốn hỗ trợ cho các KKT được thành lập trong 3 năm gần đây có xu hướng giảm và chỉ đáp ứng được rất hạn chế nhu cầu của các địa phương về vốn hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật – xã hội của các KKT. Theo ước tính sơ bộ thì tổng nguồn vốn hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương, vốn trái phiếu Chính phủ, để lại nguồn thu, vốn ODA đã cấp từ năm 2004 đến hết năm 2009 cho các KKT mới chỉ đáp ứng một phần tổng nhu cầu vốn đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng của các KKT đã được thành lập (tính đến hết năm 2015). Với nhu cầu này thì khả năng bảo đảm cân đối nguồn từ ngân sách nhà nước là rất khó thực hiện. Do vậy, để có thể đạt được mục tiêu đề ra trong quy hoạch phát triển các KKT ven biển đã được phê duyệt thì đòi hỏi trong quá trình triển khai đầu tư xây dựng và phát triển các KKT phải huy động tổng hợp được từ nhiều nguồn lực khác nhau.
II. Định hướng phát triển các KKT ven biển của Việt Nam:
1. Định hướng phát triển các KKT ven biển được xác định như sau:
- Phát triển KKT phải gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương và của vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cao nhất và bảo đảm phát triển bền vững; phát triển KKT phải hướng tới hiện đại; đảm bảo sử dụng một cách hiệu quả cả quỹ đất, mặt nước và không gian của KKT, phải hướng tới hình thành khu chức năng nòng cốt, chủ đạo và gắn kết chặt chẽ với phát triển vùng.
Phát triển các KKT phải theo từng giai đoạn, phù hợp với điều kiện cụ thể và phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của cả nước.
Phát triển các KKT phải chú ý tới yêu cầu bảo vệ môi trường và yêu cầu an ninh, quốc phòng.
Các mục tiêu phát triển KKT ven biển Việt Nam:
- Trong kế hoạch 5 năm 2011-2015 sẽ thành lập KKT Năm Căn, tỉnh Cà Mau đồng thời quy hoạch mở rộng KKT Dung Quất; xem xét bổ sung vào quy hoạch phát triển KKT từ 2-3 KKT mới, nâng tổng số các KKT được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập lên khoảng 18 KKT với tổng diện tích cả mặt đất và mặt nước khoảng 740-760 nghìn ha.
- Đến năm 2015, các KKT thu hút được khoảng 1.000 - 1.100 dự án, trong đó có 450-500 dự án đầu tư nước ngoài và 550-600 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 45-47 tỷ USD và 240-260 nghìn tỷ đồng.
Các khu kinh tế ven biển đóng góp vào tổng GDP của cả nước khoảng 5% và tạo ra việc làm phi nông nghiệp cho khoảng 300 – 500 nghìn người.
- Đến năm 2020, các KKT thu hút được khoảng 1.500- 2.000 dự án, trong đó khoảng 60% là dự án đầu tư nước ngoài và 40% là dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 70-80 tỷ USD và 320- 350 nghìn tỷ đồng.
Các KKT ven biển đóng góp vào tổng GDP của cả nước khoảng 15 – 20% và tạo ra việc làm phi nông nghiệp cho khoảng 1,3 – 1,5 triệu người.
2. Một số giải pháp để phát triển các KKT ven biển Việt Nam
- Xây dựng các tuyến giao thông ven biển nối liền các KKT làm cơ sở để tạo mối liên kết, tương hỗ lẫn nhau giữa các khu kinh tế ven biển, làm tiền đề hình thành trục động lực phát triển ven biển, trong đó có sự phân công chặt chẽ trong phát triển ngành, lĩnh vực giữa các KKT.
- Nghiên cứu hình thành, phát triển các mô hình KKT mới gắn với cơ chế chính sách đặc thù theo hướng mở (ví dụ như: thành phố công nghiệp) để tạo bước đột phá phát triển cho các KKT ven biển; trước mắt, lựa chọn 01- 02 KKT ven biển có đủ điều kiện và vị trí địa lý hợp lý, có khả năng tạo sức phát triển lan toả mạnh để thí điểm.
- Tập trung phát triển các dự án động lực hiện đã thu hút được và các cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu trong các KKT để làm tiền đề cho việc hình thành khu vực phát triển công nghiệp chiến lược trong các KKT và thu hút các nhà đầu tư khác.
- Huy động tổng hợp các nguồn vốn (ODA, FDI, Ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ) để tiếp tục đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu, quan trọng trong các KKT để tạo điều kiện đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển các KKT.
- Xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia cho các KKT ven biển Việt Nam tại nước ngoài vào thời điểm thích hợp, trước mắt có thể xây dựng trang Web chung cho các KKT để quảng bá thương hiệu KKT ven biển Việt Nam.
Trần Duy Đông - Phó Vụ trưởng Vụ quản lý các Khu kinh tế - Theo TC KCNVN |