Tuần 50 - Ngày 16/07/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam
09/06/2012



Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam: Quan điểm, giải pháp và một số kinh nghiệm


(Bài phát biểu của đồng chí ÐINH THẾ HUYNH, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng, Trưởng ban Tuyên giáo T.Ư, Chủ tịch Hội đồng Lý luận T.Ư Ðảng CS Việt Nam)

Thưa đồng chí Lưu Vân Sơn, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng ban Tuyên truyền T.Ư Ðảng CS Trung Quốc, Trưởng đoàn đại biểu Ðảng CS Trung Quốc;

Thưa các đồng chí và các bạn! 

Hội thảo lý luận hằng năm đã trở thành cơ chế hợp tác quan trọng và thiết thực giữa Ðảng CS Việt Nam và Ðảng CS Trung Quốc. Các cuộc hội thảo đã góp phần làm phong phú và sâu sắc thêm nhận thức của chúng ta về các vấn đề lý luận và thực tiễn cùng quan tâm, đồng thời tăng cường hơn nữa mối quan hệ hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa hai Ðảng và nhân dân hai nước. Hội thảo Lý luận lần thứ 8 được tổ chức tại TP Hạ Long xinh đẹp và năng động của tỉnh Quảng Ninh hôm nay chắc chắn sẽ là một bước mới có ý nghĩa. Thay mặt Ðoàn đại biểu Ðảng CS Việt Nam, tôi xin nhiệt liệt chào mừng đồng chí Lưu Vân Sơn, các đồng chí trong Ðoàn đại biểu Ðảng CS Trung Quốc và các nhà khoa học, các nhà quản lý của Việt Nam tham dự Hội thảo hôm nay. Chúc các đồng chí dồi dào sức khỏe, chúc Hội thảo của chúng ta thành công tốt đẹp.

Hội thảo lần này có chủ đề "Ðổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam và chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế ở Trung Quốc", được tổ chức vào thời điểm mang tính bước ngoặt trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước. Ðại hội XI của Ðảng CS Việt Nam (tháng 1-2011) xác định cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Kế hoạch năm năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020. Ðại hội XVII Ðảng CS Trung Quốc (tháng 10-2007) xác định việc thực hiện điều chỉnh cơ cấu và chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế, một sự điều chỉnh mang tính chiến lược trong tiến trình cải cách mở cửa.

Có thể nói rằng, các nhiệm vụ trọng tâm mà hai Ðảng chúng ta đang đề cập hiện nay không hoàn toàn là những điều chỉnh chính sách kinh tế mang tính tình thế, thậm chí không đơn thuần là việc điều chỉnh các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Về thực chất, cơ cấu lại nền kinh tế là sự thay đổi một cách căn bản việc huy động và phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế nhằm đạt hiệu quả hơn, còn đổi mới mô hình tăng trưởng chính là sự thay đổi căn bản cách thức, động lực bảo đảm sự tăng trưởng, phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế. Về phương diện lý luận, đây thực chất là bước chuyển biến lớn tiếp theo những bước tiến vượt bậc sau hơn 25 năm đổi mới ở Việt Nam và gần 35 năm cải cách mở cửa ở Trung Quốc. Những mâu thuẫn, bất cập thể hiện tập trung nhất ở cơ cấu kinh tế bất hợp lý, mô hình tăng trưởng, phương thức phát triển không còn phù hợp, trở thành lực cản khiến cho sự phát triển của nền kinh tế trở nên kém hiệu quả và không bền vững, kéo theo nguy cơ gây bất ổn xã hội, suy kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Tác động của các lực cản này ngày càng trở nên phức tạp trước những thay đổi to lớn trong nền kinh tế thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua.

Trong bối cảnh đó, một lần nữa học thuyết kinh tế của C.Mác lại soi rọi con đường đi lên CNXH của chúng ta. Sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đòi hỏi phải thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và nền kinh tế thị trường XHCN đặc sắc Trung Quốc đòi hỏi phải chuyển đổi phương thức phát triển.

Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức một cách sâu sắc rằng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế luôn là công việc gian nan, phức tạp. Ðể thực hiện công việc này một cách có kết quả đòi hỏi không chỉ có ý chí, quyết tâm chính trị lớn, mà còn phải có sự lãnh đạo sáng suốt của hai Ðảng với tư duy đổi mới, tầm nhìn bao quát và với các giải pháp, lộ trình, bước đi phù hợp trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Chính vì những lý do đó, Hội thảo lý luận giữa hai Ðảng lần này có mục đích làm sâu sắc thêm nhận thức của chúng ta về yêu cầu cấp bách và những định hướng nội dung của cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam và chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế ở Trung Quốc; tập trung phân tích, tổng kết thực tiễn, đánh giá các mặt thành công, cũng như các mặt còn hạn chế trong chặng đường phát triển vừa qua của mỗi nước. Ðây là dịp để các nhà lý luận của hai Ðảng cùng nhau trao đổi các quan điểm, các bài học kinh nghiệm và giải pháp thực tiễn trong lĩnh vực kinh tế, từ đó đúc rút những phương châm chỉ đạo, những định hướng lớn, góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển của mỗi nước, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước chúng ta lên một tầm cao mới.

Trong khuôn khổ Báo cáo đề dẫn này, tôi xin trình bày một cách khái quát về thực trạng, quan điểm, giải pháp và một số kinh nghiệm bước đầu của Ðảng CS Việt Nam trong việc thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.   

1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam     

Công cuộc đổi mới hơn 25 năm qua ở Việt Nam do Ðảng CS Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục ở mức tương đối cao, thực hiện đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xóa đói giảm nghèo, cải thiện mức sống của nhân dân, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2001-2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 7,26%/năm; GDP theo giá thực tế năm 2011 tăng gấp 3,8 lần so với năm 2001; GDP bình quân đầu người tăng hơn ba lần và đạt trên 1.200 USD; thu nhập bình quân trên đầu người tăng khoảng 2,3 lần; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 26% xuống còn 9,5% hiện nay. Ðặc biệt là từ cuối thập niên 1990 của thế kỷ trước đến cuối thập niên đầu của thế kỷ này, nền kinh tế đã vững vàng vượt qua hai thử thách lớn là cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 và cuộc khủng hoảng tài chính kéo theo suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009, phục hồi được đà tăng trưởng, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.

Một trong những nguyên nhân căn bản của những thành tựu to lớn đó là nhờ việc chuyển đổi mô hình kinh tế tổng quát từ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giải phóng lực lượng sản xuất, hình thành những động lực phát triển mới cho nền kinh tế. Trên thực tế, những thay đổi sâu sắc được thực hiện thông qua việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

Quan hệ sở hữu chuyển đổi theo hướng đa dạng hóa các hình thức sở hữu, từng bước phân định quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền quản lý. Hình thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, cùng hợp tác, cạnh tranh phát triển trong môi trường kinh doanh ngày càng được thể chế hóa thống nhất, thông thoáng, bình đẳng. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tỷ trọng kinh tế nhà nước trong GDP và tổng đầu tư xã hội đã giảm đáng kể, trong khi tỷ trọng khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng, hiện chiếm khoảng 65% GDP, hơn 2/3 giá trị sản lượng công nghiệp và khoảng 60% vốn đầu tư toàn xã hội. Trong giai đoạn 2001-2010, đã sắp xếp, cơ cấu lại 4.757 doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ phần hóa 3.388 doanh nghiệp, hình thành 12 tập đoàn kinh tế và gần 100 tổng công ty lớn. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực then chốt, bảo đảm vai trò trụ cột cho nền kinh tế. Số lượng doanh nghiệp tư nhân hiện đã lên tới hơn 600 nghìn doanh nghiệp, sử dụng trên 10% lực lượng lao động và sản xuất ra khoảng 12% GDP. Từng bước hình thành một số doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn, phát triển thương hiệu Việt Nam, vươn ra cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.

Quan hệ quản lý được chuyển đổi từng bước từ hành chính, mệnh lệnh, tập trung, quan liêu sang phân công, phân cấp, phối hợp, tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 thu được những kết quả đáng khích lệ, từng bước xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, nâng cao tính hiệu lực và hiệu quả theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chức năng, nhiệm vụ, bộ máy tổ chức, phương thức hoạt động của Nhà nước được điều chỉnh hợp lý hơn theo hướng giảm các đầu mối và khâu trung gian, thực hiện nguyên tắc bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; tách quản lý nhà nước với hoạt động sản xuất kinh doanh, cơ quan hành chính công với tổ chức sự nghiệp cung cấp dịch vụ công. Nhà nước giảm dần sự can thiệp trực tiếp vào các hoạt động thị trường, từng bước chuyển sang chức năng định hướng, hỗ trợ và kiến tạo phát triển. Trên thực tế, thể chế hành chính ngày càng được hoàn thiện và chuẩn hóa. Công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tăng cường trật tự kỷ cương thu được những kết quả nhất định. Nhìn chung, môi trường kinh doanh của Việt Nam đã có những bước cải thiện đáng kể, trở thành một trong những thị trường mới nổi giàu tiềm năng và là địa chỉ hấp dẫn của các nhà đầu tư quốc tế.  

Quan hệ phân phối thay đổi theo hướng phân bổ công bằng và hiệu quả các nguồn lực phát triển như đất đai, vốn, lao động, cũng như cơ hội, điều kiện phát triển theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước và nguyên tắc thị trường; thực hiện phân phối thu nhập và lợi ích theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng góp các nguồn lực, cũng như thông qua hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.

Những thay đổi trên đây đã phản ánh rõ nét trong sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo lãnh thổ, cũng như cơ cấu phân bổ lao động, đầu tư, thu nhập... Cụ thể là:

Thứ nhất, cơ cấu kinh tế theo ngành đã có những bước chuyển dịch vững chắc theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy lợi thế so sánh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tỷ trọng các ngành kinh tế trong GDP thay đổi đáng kể, cụ thể là năm 2010 lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đã đạt 41%, lĩnh vực dịch vụ - 39%, lĩnh vực nông nghiệp giảm xuống còn 20%. Cơ cấu của từng lĩnh vực kinh tế này cũng có những chuyển biến sâu sắc.

Thứ hai, cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ đã được điều chỉnh theo hướng hình thành bốn vùng kinh tế trọng điểm phát triển nhanh, đóng góp gần 64% GDP, hơn 90% giá trị xuất khẩu, thu hút trên 90% số dự án đầu tư nước ngoài và gần 90% thu ngân sách của cả nước. Các vùng kinh tế trọng điểm từng bước phát huy được tác động lan tỏa, thúc đẩy phát triển các vùng, miền khác.

Thứ ba, cơ cấu đầu tư và lao động thay đổi phù hợp với các chuyển dịch trong cơ cấu ngành, vùng kinh tế. Thực hiện xóa bỏ cơ chế bao cấp đầu tư, đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư, cho phép đạt tỷ lệ huy động vốn đầu tư toàn xã hội khá cao, ở mức trên 40% GDP, trong đó các nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 70%, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khoảng 20% và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) khoảng 10%. Ðầu tư nhà nước đã tập trung hơn vào phát triển cơ sở hạ tầng, các dịch vụ công ích, hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, phát triển các vùng sâu, vùng xa. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động ở nông thôn xuống còn 70%, lao động nông nghiệp xuống còn 48%, tăng dần tỷ lệ lao động được đào tạo nghề.

Thứ tư, cơ cấu tiền lương, tiền công, thu nhập từng bước được điều chỉnh phù hợp với kết quả và năng suất lao động, hạn chế sự phân hóa xã hội, bảo đảm sự đồng thuận, trật tự, an toàn xã hội. Hàng năm tạo ra được hơn 1,6 triệu việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị từ 6,42%  vào năm 2000 xuống còn khoảng 4,6% vào năm 2010, tăng thời gian sử dụng lao động ở nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân. Ðặc biệt là đã hạn chế được chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn từ 2,3 lần vào năm 2000 xuống còn hai lần hiện nay. Hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội được phát triển đồng bộ trên các hướng: xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm, ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội, mở rộng các dịch vụ xã hội công cộng, tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về văn hóa, y tế và giáo dục. Bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 13,4% dân số vào năm 2000 lên khoảng 62% vào năm 2010. Ðã thực hiện chính sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối tượng chính sách, người nghèo và hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo... Hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giáo dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, cung cấp điện, nước sinh hoạt, bảo đảm điều kiện đi lại... đã được quan tâm phát triển, nhất là ưu tiên đầu tư cho các vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Có thể nói, trong hơn 25 năm đổi mới, hội nhập và phát triển, nhất là trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Ðảng CS Việt Nam đã có bước đổi mới rõ nét về tư duy phát triển, đã sớm nhìn nhận vai trò của đổi mới cơ cấu kinh tế, thực hiện nhất quán chủ trương dịch chuyển cơ cấu kinh tế trên nguyên tắc phát huy tối đa các lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh quốc gia; tôn trọng các nguyên tắc thị trường và kiên định bảo đảm định hướng XHCN; coi đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế như một phương thức để tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, những thành công của Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh tế là rất căn bản, đã trở thành nền tảng quan trọng, tạo thế và lực mới cho đất nước để thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trong giai đoạn tới.

Tuy nhiên, cùng với thời gian, Ðảng CS Việt Nam cũng đã nhận thức rất sâu sắc các hạn chế, bất cập trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Cụ thể là:

Thứ nhất, cơ cấu lại nền kinh tế chưa gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng trong khi bản thân mô hình tăng trưởng kinh tế lại thiên về chiều rộng, dựa nhiều vào việc tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng nhiều lao động ít kỹ năng, trong khi các nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu như: đổi mới công nghệ, tổ chức quản lý, năng suất lao động,... chưa được coi trọng đúng mức (1).

Thứ hai, cơ cấu kinh tế vẫn còn bất hợp lý cả về ngành, vùng lãnh thổ và thành phần kinh tế; không gian kinh tế xét trên tổng thể quốc gia còn chưa đạt tới sự kết nối, phối hợp, bổ sung lẫn nhau một cách có hiệu quả; môi trường kinh doanh chưa thật sự bình đẳng, tình trạng kém hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước còn tương đối phổ biến. Trong điều kiện nền kinh tế có độ mở lớn và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cơ cấu kinh tế hiện tại cũng là một trong những nguyên nhân làm trầm trọng hơn mất cân đối kinh tế vĩ mô, giảm sút sức cạnh tranh, gia tăng nguy cơ dễ bị tổn thương trước các biến động của nền kinh tế toàn cầu và, theo kinh nghiệm quốc tế, điều này sẽ tạo trở ngại đối với tiến trình nâng cao vị thế của nền kinh tế trong chuỗi giá trị khu vực và mạng sản xuất toàn cầu để vượt qua giai đoạn gia công, lắp ráp giản đơn có giá trị gia tăng thấp.

Thứ ba, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chậm được hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ và hiệu quả chưa cao. Các yếu tố của kinh tế thị trường chưa hình thành đầy đủ. Thị trường hàng hóa trong nước chưa được khai thác hiệu quả; thị trường lao động chưa linh hoạt; thị trường đất đai còn sơ khai; thị trường tài chính phát triển chưa cân đối, nhất là về thị trường vốn dài hạn; thị trường khoa học-công nghệ phát triển chưa cao. Giá cả một số hàng hóa và dịch vụ chưa theo cơ chế thị trường. Môi trường kinh doanh chậm được cải thiện, thủ tục hành chính còn rườm rà. Trong một số trường hợp, Nhà nước vẫn can thiệp trực tiếp bằng các biện pháp hành chính vào hoạt động của thị trường, năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, khắc phục những tác động tiêu cực của thị trường.

2. Một số kinh nghiệm bước đầu trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam

Một là, Ðảng thật sự đi đầu, không ngừng sáng tạo, lãnh đạo thống nhất.

Ðảng CS Việt Nam nhận thức một cách sâu sắc rằng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đòi hỏi phải vượt qua những trở lực không nhỏ xuất phát từ sức ỳ của cơ cấu, mô hình cũ. Do đó, đây thật sự là một cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, đòi hỏi ý chí, quyết tâm và sức mạnh đoàn kết của toàn hệ thống chính trị. Bài học kinh nghiệm đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua là, để thắng được những trở lực này, tổ chức đảng phải thật sự đi đầu, thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo nhất quán từ trung ương đến cơ sở, bám sát thực tế, nắm chắc tình hình, có những quyết sách kịp thời vào những thời điểm bước ngoặt, không nửa vời, nể nang, bao biện. Mặt khác, Ðảng phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tạo được sự đồng thuận xã hội và sự ủng hộ của nhân dân về chủ trương, lộ trình, giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng, không qua loa, đại khái.

Cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng thật sự là quá trình đổi mới, sáng tạo, nên để lãnh đạo thực hiện thắng lợi quá trình này đòi hỏi Ðảng phải không ngừng đổi mới, sáng tạo. Tính chất phức tạp của quá trình này đòi hỏi phải có sự phân tích, đánh giá đúng tình hình, xác định đúng vấn đề, đề xuất đúng các giải pháp, nhất là các giải pháp mang tính đột phá đối với những vấn đề then chốt. Tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm quốc tế, vận dụng linh hoạt, có bổ sung và phát triển lý luận về cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam là điều kiện tối cần thiết cho sự thành công của quá trình này. 

Hai là, phải có lộ trình, bước đi phù hợp; coi trọng thực hiện công bằng xã hội.

Cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng đòi hỏi phải huy động những nguồn lực không nhỏ. Trên cơ sở đó xác định lộ trình, thứ tự các nhiệm vụ ưu tiên, tránh thực hiện ồ ạt, dàn trải. Mặt khác, quá trình này không tránh khỏi gây ra những tác động xã hội, có thể ảnh hưởng đến đời sống của một bộ phận người dân. Vì vậy, phải gắn cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng với việc sắp xếp, đào tạo lại việc làm cho các lao động trong diện chuyển đổi, cải thiện căn bản hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, thực hiện công bằng xã hội trong từng bước đi, từng chính sách phát triển. Ðây là bài học kinh nghiệm song đồng thời cũng là vấn đề có tính nguyên tắc, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN.

Ba là, cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng phải gắn với đẩy mạnh hội nhập quốc tế.

 Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc, cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng của đất nước không thể thoát ly khỏi xu hướng chung của thế giới, mà trái lại, phải hướng tới vị thế ngày càng cao trong phân công lao động khu vực và toàn cầu. Kinh nghiệm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam cho thấy, hội nhập quốc tế cho phép tạo ra những xung lực to lớn, cũng như thu hút các nguồn lực bên ngoài cho quá trình đổi mới trong nước, đặc biệt là đổi mới về thể chế, công nghệ và cơ cấu kinh tế. Chủ động, tích cực thực hiện nghiêm chỉnh lộ trình xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN (CAFTA) và các hiệp định thương mại tự do khác chính là điều kiện tốt để cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam.

3. Quan điểm cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam

Trên cơ sở nhận diện đúng những điểm nghẽn của tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, Ðại hội lần thứ XI của Ðảng CS Việt Nam đã xác định ba đột phá chiến lược: Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường canh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống hạ tầng giao thông và hạ tầng đô thị lớn.

Tháo gỡ kịp thời những điểm thắt nút của nền kinh tế vừa cho phép thực hiện ổn định kinh tế vĩ mô, vừa khơi dòng cho các nguồn lực chuyển dịch theo tín hiệu lành mạnh của thị trường đến các ngành, vùng miền, doanh nghiệp, công nghệ và sản phẩm giàu tiềm năng, tạo nên sự phát triển hiệu quả, bền vững. Ðặc biệt, để nâng cao chất lượng tăng trưởng, các động lực mới phải được hình thành, trong đó khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực có kỹ năng, hạ tầng hiện đại đi trước một bước... phải là các trụ lực chính của mô hình tăng trưởng mới. Và như một lẽ tự nhiên, không đổi mới mô hình tăng trưởng, mọi sự thay đổi cơ cấu sẽ không có định hướng. Ðó cũng là lý do tại sao cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trở thành định hướng phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020.

Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam không chỉ là việc tích cực khắc phục những yếu kém nội tại, đáp ứng đòi hỏi phát triển tự thân của đất nước, mà còn là sự chủ động thích ứng với những thay đổi của bối cảnh quốc tế và khu vực. Nền kinh tế thế giới sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009 bước vào giai đoạn thay đổi lớn về cấu trúc nhằm vượt qua những mất cân đối nghiêm trọng, phục hồi các động lực tăng trưởng, đặc biệt là  thúc đẩy các nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu và bền vững dựa vào tri thức, công nghệ "xanh", sạch, thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu, ít phát thải các-bon, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. Ðối với một nền kinh tế đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng như nền kinh tế Việt Nam, "chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát triển kinh tế tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh" (2) thật sự vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là đòi hỏi xuyên suốt giai đoạn phát triển 10 năm tới. Ðây cũng chính là một chủ trương lớn được Ðại hội lần thứ XI của Ðảng CS Việt Nam thông qua.

Theo chủ trương này, mô hình tăng trưởng mới chú trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, có hàm lượng công nghệ, tri thức ngày càng lớn; đó là mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào tăng năng suất lao động với nguồn nhân lực có kỹ năng thay vì dựa nhiều vào đất đai, tài nguyên và lao động giản đơn; sẽ là sự đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư thay vì dựa nhiều vào tăng trưởng tín dụng; sẽ là tăng trưởng dựa vào tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia, không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng của thị trường trong nước và thị trường quốc tế thay vì vẫn còn ỷ lại vào cơ chế tập trung, bao cấp; sẽ là mô hình tăng trưởng dựa vào một nhà nước quản lý hiệu quả và kiến tạo phát triển thay vì Nhà nước làm thay thị trường hay thị trường lấn át nhà nước; đó sẽ là mô hình tăng trưởng "lấy dân làm gốc" với con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.

Tuy nhiên, một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả, một mô hình tăng trưởng năng động, bền vững không thể xây dựng trong một sớm, một chiều. Ðó là một quá trình tích lũy những nhân tố tăng trưởng mới, tạo lập vững chắc các nền tảng về thể chế, khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời vẫn phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề việc làm, xóa đói giảm nghèo, vấn đề nông thôn - nông nghiệp - nông dân, bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, trật tự, an toàn xã hội.

Nhận thức rõ rằng cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ quan trọng, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải được triển khai đồng bộ ở tất cả các ngành, vùng, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và từng địa phương, Ðảng CS Việt Nam quán triệt quan điểm tiếp cận tổng thể: lấy cơ cấu lại nền kinh tế làm khuôn khổ chung, lấy liên kết vùng làm trọng điểm, lấy xác định các ngành, sản phẩm, lĩnh vực có hiệu quả cao, đóng góp lớn và sức lan tỏa rộng trong nền kinh tế, nhất là các ngành dựa trên công nghệ và tri thức tiên tiến làm khâu đột phá. Ðồng thời, Ðảng cũng quán triệt quan điểm chỉ đạo: thực hiện tăng trưởng hợp lý, bền vững, ưu tiên chất lượng tăng trưởng; gắn cơ cấu lại nền kinh tế với ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội, các giải pháp ngắn hạn, trước mắt, tình thế với các giải pháp trung, dài hạn, mang tính chiến lược; cơ cấu lại nền kinh tế không tách rời với tích cực và chủ động hội nhập quốc tế; gắn cơ cấu lại nền kinh tế với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường; tiến hành cơ cấu lại kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng vừa đồng bộ, tuần tự từng bước, vừa có những bước đột phá, vượt trước. Ðây chính là sự cụ thể hóa quan điểm phát triển bền vững xuyên suốt Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020.

4. Những giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam

Xuất phát từ những quan điểm trên, Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI) của Ðảng đã xác định ba nội dung ưu tiên của cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trong kế hoạch 5 năm 2011-2015  là "cơ cấu lại đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước; cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng" (3).

Vấn đề mấu chốt trước tiên trong cơ cấu lại đầu tư là cải thiện một bước căn bản chất lượng công tác quy hoạnh, tăng cường kỷ cương, hiệu lực quản lý nhà nước trong quy hoạch phát triển. Tất cả các ngành, các địa phương phải rà soát lại quy hoạch phát triển tổng thể, xác định lại cơ cấu của ngành mình, cơ cấu kinh tế-xã hội của địa phương mình theo hướng phù hợp với quy hoạch chung của cả nước, tăng cường tính phối hợp giữa các ngành và các địa phương, bảo đảm phát triển bền vững. Ðổi mới cơ chế huy động, phân bổ, quản lý vốn đầu tư nhà nước theo hướng nâng cao hiệu quả, hiệu suất sử dụng vốn, hiệu lực quản lý đầu tư, đưa toàn bộ vốn đầu tư công vào cân đối ngân sách. Sớm ban hành Luật Quản lý đầu tư công nhằm tăng cường kỷ luật và trách nhiệm trong lĩnh vực trọng yếu này. Một mặt sửa đổi cơ chế phân cấp quản lý đầu tư theo hướng tăng cường các thể chế giám sát đầu tư; mặt khác khuyến khích hoạt động giám sát của cộng đồng đối với các dự án đầu tư công. Công khai, minh bạch hóa thông tin về đầu tư công, xây dựng danh mục lĩnh vực ưu tiên đầu tư, chuẩn hóa quy trình, thủ tục đối với các dự án đầu tư, bảo đảm  đầu tư tập trung, đồng bộ, dứt điểm. Tăng cường kỷ luật tài khóa, thực hiện giảm tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư toàn xã hội xuống mức hợp lý, đồng thời hoàn thiện thể chế thị trường và tạo lập môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài. Từng bước mở cửa các lĩnh vực kinh doanh do các tập đoàn và tổng công ty nhà nước hiện nắm quyền chi phối cho các doanh nghiệp ngoài nhà nước, hạn chế và kiểm soát hiệu quả các doanh nghiệp độc quyền.

Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước thực hiện theo hướng chỉ tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành, lĩnh vực trọng yếu, then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu là các ngành liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công thiết yếu. Trước năm 2015, kiên quyết chấm dứt tình trạng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải ra ngoài ngành, ngoài lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính. Hoàn tất quá trình sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Ðổi mới toàn diện và sâu sắc cơ cấu và cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường trách nhiệm giải trình, bảo đảm công khai, minh bạch. Thực hiện quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp, tăng cường công tác giám sát đối với hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, làm tốt công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp, nâng cao vai trò của các tổ chức đảng, tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp này. Tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng, tuân thủ pháp luật, tăng cường công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong doanh nghiệp nhà nước.

Cơ cấu lại lĩnh vực đầu tư công và khu vực doanh nghiệp nhà nước phải đi đôi với cơ cấu lại thị trường tài chính, mà trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính nhỏ để có số lượng phù hợp các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính có quy mô và uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản và an toàn hệ thống. Ðổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán, bất động sản, tiền tệ, vàng và ngoại tệ, khắc phục tình trạng đô la hoá nền kinh tế. Thiết lập hệ thống quản lý rủi ro hiệu quả đối với hệ thống tài chính-ngân hàng. Kiểm soát các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư vào bất động sản, chứng khoán và các nguồn vốn nóng khác. Giảm dần tỷ lệ cấp vốn cho đầu tư phát triển từ hệ thống ngân hàng thương mại xuống mức hợp lý. Cải thiện quản trị ngân hàng, áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế, tăng cường tính minh bạch, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng.

Thưa các đồng chí!

Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam và cải cách mở cửa ở Trung Quốc một lần nữa lại đặt ra những thách thức mới về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đòi hỏi các đảng cộng sản cầm quyền phải biết vận dụng và phát triển lý luận Mác - Lê-nin một cách sáng tạo để tìm ra lời giải đáp đúng đắn. Lê-nin từng nói: "Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng". Hội thảo giữa hai Ðảng lần này sẽ đi sâu làm rõ những vấn đề thuộc về cơ sở lý luận của yêu cầu cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và phương thức phát triển kinh tế ở hai nước, những đặc điểm cơ bản của quá trình này, cũng như trao đổi các kinh nghiệm của mỗi nước. Tôi tin tưởng rằng, với tinh thần đồng chí tin cậy, thật sự cởi mở và cầu thị, Hội thảo này chắc chắn sẽ góp phần giúp hai Ðảng trau dồi nhận thức, mài sắc lý luận, thực hiện thắng lợi sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng ở mỗi nước.

Một lần nữa, xin chúc các đồng chí và các bạn sức khỏe, hạnh phúc và thành công. Chúc Hội thảo lý luận của chúng ta thành công tốt đẹp.

Xin trân trọng cảm ơn!

(theo nhandan.com.vn)

(1) Theo xếp hạng của Viện Ngân hàng Thế giới (WBI) về chỉ số kinh tế tri thức, Việt Nam đứng thứ 102 trên 133 nền kinh tế được đánh giá vào năm 2008 với 3,02 điểm, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của nhóm các nước có thu nhập trung bình là 4,1.
(2) Ðảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo chính trị tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Ðảng, tháng 1-2011.
(3) Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3 (khóa XI) của Ðảng CS Việt Nam.

Kiên trì điều phối tổng thể, nắm bắt trọng điểm chiến lược, đẩy nhanh hơn nữa chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế

(Bài phát biểu của đồng chí LƯU VÂN SƠN, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Trưởng ban Tuyên truyền T.Ư Ðảng CS Trung Quốc)






Cập nhật ( 21/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com