Với tri thức và óc sáng tạo, người ta có thể làm cho rất nhiều ngành khác nhau, khác với trong sản xuất vật chất. Đặc biệt, nhân công tri thức chủ động và có khả năng hơn trong việc “học, quên và học mới” - yêu cầu cho mọi ngành trong thế kỷ 21.
Thực tại và cuộc săn tìm mô hình phát triển
Việt Nam rất khó khăn nếu phát triển dựa trên nền đại sản xuất vật chất. Với hạ tầng công nghiệp hiện nay (cả hữu hình và vô hình), kinh tế Việt khó lòng (nếu tránh từ không thể) đưa ra một sản phẩm công nghiệp (hay chuỗi giá trị) hoàn chỉnh nào mang tính cạnh tranh trong khu vực.
Ba thành phần chính của quá trình tạo ra sản phẩm (hay chuỗi giá trị): sản xuất vật chất, kinh doanh và nghiên cứu - thiết kế, lẽ ra cần khớp vào nhau, thì nay đang đang rã ra tùy theo sức kéo và hướng kéo của bên ngoài.
Xu hướng là: đoạn kinh doanh sẽ phình to ra, cả làm cho nội địa và làm cho nước ngoài. Đoạn sản xuất vật chất sẽ nở ra ở mảng làm cho bên ngoài và mảng cho nội địa thì co lại (nhân công ngành công nghiệp ôtô chắc sẽ ít đi khi giảm thuế nhập có hiệu lực) và phải "trượt xuống" làm các công đoạn với giá trị gia tăng thấp hơn nữa. Đoạn "chất xám", thiết kế thì ảm đạm hơn và thường phải nhờ vào các đoạn khác. Nguồn chất xám này đang bị bỏ phí.
Nếu tính toán kỹ, doanh nghiệp Việt sẽ thu lợi trong các ngành kinh tế dựa trên tri thức. Bài này chủ yếu nói về việc nhân công tri thức (skill worker) làm thuê cho bên ngoài chứ không phải về xây dựng nền kinh tế tri thức mang tính nhà nước.
Tuy nhiên, nếu có một nền quản trị chuyên nghiệp, nền kinh tế tri thức sẽ là mô hình thích hợp với Việt Nam. Đây thực chất là mô hình Đổi mới-Sáng tạo mở (Open Innovation) mà các nước đang phấn đấu.
Nhân công tri thức: Mạnh - yếu - cơ hội - đe dọa (SWOT)
Mặt mạnh:
- Người Việt có năng lực khá về tư duy logic, suy luận, toán, tổng hợp-phân tích,... so với các dân tộc khác. Sinh viên Việt học tốt những môn toán, lý, lý thuyết so với sinh viên nhiều nước khác.
- Việt nam đang có một số lượng "dôi dư" người làm các ngành dựa trên tri thức như kỹ sư, bác sỹ... Nói đúng hơn là: số người không bao giờ là đủ cho những nơi dùng được họ; nhưng lại là nhiều so với khả năng hấp thụ thực sự của nền kinh tế Việt hiện nay.
- Có nhiều Việt kiều đang làm việc ở nước ngoài trong các ngành kinh tế dựa trên tri thức,sáng tạo như lập trình, kỹ sư, nhà quản lý,...
- Người Việt có khả năng đáp ứng với các tình huống tốt, có tính tùy cơ ứng biến cao,... Người Việt giỏi sáng tạo, tìm ra các cách sửa chữa, thay thế các thiết bị, máy móc của nước ngoài (so với chính người nước chủ của máy đó). Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là người Việt giỏi trong thiết kế hay có tính sáng tạo cao nói chung.
- Người Việt từ xưa đã thích sự học, coi đó là cao quý. Nhiều người ngày nay vẫn cố theo đuổi nghiệp học cho dù chưa rõ nguồn lợi.
- Ta thích làm việc cụ thể, thấy trước lỗ lãi, chứ không thích mạo hiểm đứng ra tính toán, lo toan, chịu rủi ro trong thời gian dài. Các công ty đi thuê khoán lại giỏi các việc trên và hứng thú với thách thức, dám mạo hiểm. Tâm lý người kinh doanh nhỏ của người Việt thích hợp với việc làm thuê khoán. Điều này không liên quan đến phẩm chất con người mà chỉ là vấn đề thói quen, cách sống.
![](http://vef.vn/assets/images/canhthai3_1312614233.jpg) |
Việt Nam làm gì để có nguồn nhân công tri thức? |
Mặt yếu:
- Giáo dục của ta, từ nhà trẻ, phổ thông, đại học... chưa dạy, khuyến khích nhiều về sáng tạo (đúng hơn là hướng tới sự sơ cứng, hình thức). Thói quen trong đời sống của ta cũng chưa vị sáng tạo. Đây không chỉ là các kỹ năng cụ thể mà ngay từ cách nghĩ, quan điểm, văn hóa, bản năng. Đây là điểm chung của người châu Á so với người châu Âu - Mỹ chứ không riêng cho người Việt và đã được đề cập nhiều trong các kết quả nghiên cứu trên thế giới về tâm lý, xã hội học, giáo dục học...
Ngoài ra, quan điểm và phương pháp đào tạo trong thời gan qua cũng là một nguyên nhân.
- Ta thiếu trình độ, hiểu biết, kinh nghiệm thực tế, đặc biệt về công nghệ, công nghiệp. Muốn làm tốt việc thiết kế, lập trình không chỉ cần tư duy logic, lý thuyết tốt mà phải có cả kinh nghiệm, hiểu biết thực tế, tức là hiểu rõ quá trình hoạt động thực tế của cái mà ta thiết kế.
Cái kém này không chỉ ở tri thức hàn lâm (explicit knowledge) mà cả ở trong tiềm thức, văn hóa, văn minh công nghệ. Sinh viên ta khá khi học, nhất là các môn cơ bản, nhưng kém khi làm và ở các môn kỹ thuật, công nghệ.
- Doanh nghiệp, cá nhân Việt chưa biết nhiều về các quy trình, cách hoạt động, thể thức xin, tuyển chọn, cách thức khai báo, kỹ năng phỏng vấn cho các việc trong các ngành dựa trên tri thức. Chưa rõ cách họ tuyển dụng những "người có kỹ năng" hay nhân công tri thức (skill worker, đây là thuật ngữ pháp lý của nước phát triển, ví dụ Mỹ, để chỉ những người thuộc diện được ưu tiên, chào mời, cấp thị thực ưu tiên, đến làm việc lâu dài ở nước họ).
Họ là các nhà khoa học, người có tài, có kỹ năng hay chuyên môn mà ở nước mời đang thiếu. Cần lưu ý hai kỹ năng chính mà ta kém. Một là kỹ năng để ra nước ngoài làm trong các ngành thâm dụng tri thức. Hai là, ở Việt Nam làm "thuê khoán" các việc dùng nhiều tri thức, kỹ năng (Knowledge Process Outsourcing) như lập trình, công nghiệp nội dung, kế toán, thiết kế, vv. Nhóm hai lớn hơn và có ý nghĩa của một mô hình kinh tế. Nhiều người có năng lực chuyên môn nhưng không biết cách nộp đơn.
- Ta chưa có nhiều công ty lớn, với tính chuyên nghiệp cao, chuyên làm "thuê khoán" các việc liên quan đến tri thức. Các công ty nước ngoài muốn tìm các công ty lớn này để ký hợp đồng thuê khoán. Giá trị hợp đồng thuê khoán càng lớn hay càng quan trọng thì họ càng cần ký với các công ty chuyên nghiệp để có độ an toàn cao. Họ thích công ty với tính chuyên nghiệp, độ tin chắc cao, mặc dù giá cao, hơn những nơi rẻ nhưng chưa chắc về kết quả. Họ muốn chọn một công ty lớn thay vì phải làm việc với nhiều nhà thầu phụ.
Vì sao lại như vậy? Vì bên thuê khoán ở các nước phát triển sẽ thiệt hại hơn nhiều so với các bên làm thuê khoán nếu hợp đồng đổ bể. Công ty Boeing, Mỹ, thuê khoán các công ty Ấn Độ làm về CNTT hàng năm gần một tỷ đôla. Nếu các hợp đồng này đổ vỡ thì sẽ tác động dây chuyền, gây thiệt hại khôn lường.
Ông TS. John Vu, người chuyên đi thuê khoán về CNTT cho hãng Boing, muốn ta có một công ty lớn để ký hợp đồng thuê khoán nhưng ta chưa có. Khi ông Vu đề nghị các công ty của ta liên kết lại để làm thì họ cho biết là họ chỉ làm trực tiếp với ông Vu, chứ không thể hợp tác với nhau. Điều này cho thấy tính chuyên nghiệp của công ty Việt chưa cao, chưa thực sự vì lợi nhuận.
- Các viện, trường của ta thích làm dự án, đề tài... do ngân sách tài trợ nên "bỏ" không quan tâm đến tri thức, sự sáng tạo trong chuyên môn. Mà kỹ năng giành và làm dự án theo ngân sách khác xa với năng lực chuyên môn thế giới cần. Đó cũng là một loại "khôn trong cờ bạc".
Cơ hội:
- Đầu tư cho các ngành kinh tế dựa trên tri thức, sáng tạo như lập trình, thiết kế không cao như cho các ngành công nghiệp sản xuất vật chất như nhà máy, công nghệ.
- Có ngày càng nhiều cơ hội kinh doanh cho các ngành thâm dụng tri thức, sáng tạo. Nhân loại đang ở trong giai đoạn bùng nổ về tri thức, công nghệ (nhiều chuyên gia còn cho rằng tri thức đang bước vào giai đoạn mà con người không quản lý nổi một cách hiệu quả).
- Khi đã thuê khoán ngoài được nhiều, các nước tiên phong không ngồi chơi mà đi tìm những mô hình, công nghệ, triết lý phát triển mới. Những phát minh mang tính đột phá của họ mở ra những miền đất mới cho các nghiên cứu-ứng dụng cần nhiều thuê khoán về lao động tri thức.
- Nguồn nhân lực tri thức hôm nay, mặc dù hiện đang làm với bên ngoài, nhưng có thể sẽ đóng góp vào nền kinh tế nước nhà. CNTT Ấn Độ ngày nay mạnh do có rất nhiều chuyên gia CNTT Ấn làm cho nước ngoài từ nhiều thập kỷ. Đội bóng đá Senegal hẳn khó lòng hạ Pháp ở Chung kết bóng đá thế giới nếu cầu thủ của họ không đá thuê nhiều năm cho bóng đá châu Âu. Nhiều bộ óc chiến lược của Khu Tân Trúc, Silicon Valley của Đài Loan, là những nhà khoa học Đài Loan trở về sau khi làm việc cho Âu-Mỹ .
- Với tri thức, sáng tạo tốt người ta có thể làm cho rất nhiều ngành khác nhau, khác với trong sản xuất vật chất, thường kỹ năng chỉ cho một ngành cụ thể. Đặc biệt, nhân công tri thức chủ động và có khả năng hơn trong việc "học, quên và học mới" (learn, un-learn and re-learn) - yêu cầu cho mọi ngành trong thế kỷ 21. Điều này giúp họ có thể học mãi trong cuộc đời (life-long learning).
- Khi phát triển nguồn nhân lực tri thức, người chưa có cơ hội làm cho bên ngoài cũng sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động cho nền kinh tế Việt.
Đe dọa:
- Những người làm về tri thức cho nước ngoài sẽ ngày càng gắn chặt vào các chuỗi cung ứng (CCƯ) bên ngoài. Họ sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào các nền kinh tế bên ngoài. Chưa chắc sau này họ có thể hợp tác với nền kinh tế trong nước.
Ấn Độ cách đây 30 năm chưa nghĩ rằng mình sẽ có ngành CNTT mạnh như ngày nay. Sinh viên Trung Quốc, Đài Loan... ở Mỹ những năm cuối thế kỷ trước thường muốn làm cho bên ngoài sau khi tốt nghiệp (điều này nay đã thay đổi đáng kể).
Nền kinh tế quốc gia nhiều khả năng sẽ không cân đối. Khi các chuỗi giá trị tan rã, nhiều khả năng các ngành sản xuất vật chất Việt sẽ "trượt" xuống sâu hơn trong thang giá trị so với ngày nay (do thị trường bên ngoài đòi hỏi). Trong khi đó, nhân công tri thức có thể sẽ làm các việc có giá trị gia tăng cao hơn bây giờ. Đây là một thực tế mà ta nên tìm cách chung sống một cách tốt nhất với nó.
Ngoài ra, cho đến giờ chưa có nền kinh tế "đóng" nào mà phát triển tốt được trong toàn cầu hóa. Singapore, Phần Lan, Đài Loan, Mỹ,... gắn chặt và thăng trầm cùng với nền kinh tế thế giới. Ngày nay, nếu suy thoái hay thảm họa xảy ra thì các nước "đóng cửa" cũng không đứng ngoài được và cũng bị léo vào.
Nên làm gì?
Cần phát triển nguồn nhân lực về tri thức và sáng tạo, đặc biệt là hệ đại học, để làm việc được cho bên ngoài. Vì các ngành dùng tri thức, sáng tạo biến động rất nhanh nên phải nắm bắt kịp xu hướng của thị trường chất xám. Cần thuê khoán nước ngoài đào tạo nguồn nhân lực vì ta không thể làm được điều này trong thời gian ngắn. Việc này sẽ nằm trong chương trình lớn về chuyển đổi cấu trúc nền kinh tế.
Thu nhỏ lại quy mô các viện nghiên cứu, các dự án dùng ngân sách cho sao cho vừa đủ cho nhu cầu thực sự của nền kinh tế (chứ không phải đề ra dự án để tiêu tiền ngân sách).
Bên cạnh đó, chuyển các nguồn lực tri thức, sáng tạo còn lại (mà chắc là lớn hơn nhóm được bao cấp trên) sang làm cho các việc sử dụng tri thức bên ngoài. Định hướng của các khu công nghệ cao, viện nghiên cứu, trường đại học... là làm được các công việc về chuyên môn với bên ngoài (chứ không phải chủ yếu cho nội địa). Mời chuyên gia có khả năng mang lại hợp đồng nghiên cứu nước ngoài vào làm chủ các cơ sở này. Để cho họ quyền chọn người có khả năng chứ không nhất thiết phải người nội bộ.
Thay đổi quan điểm khi hợp tác nghiên cứu với nước ngoài. Từ chỗ "ngang hàng", coi trọng thành tích hình thức, như bạn có 3 báo cáo thì ta cũng có 3, sang hướng ta và bạn chia nhau các "đoạn" phù hợp với thực lực để cùng nhau đấu thầu các dự án được hiệu quả hơn.
Việt Nam có thể kinh doanh được với mô hình kinh tế tri thức. Khi không có ai chỉ lối, người dân cần tự tạo ra cơ hội cho mình. Đó là Sáng tạo - Đổi mới từ bên dưới (Bottom-up Innovation).
Tác giả: Đinh Thế Phong(*) (theo vietnamnet.vn)
_______________________
(*) Tác giả công tác tại Viện Chiến lược - Chính sách Khoa học - Công nghệ. Email:
Địa chỉ email này đang được bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó
|