Tuần 50 - Ngày 16/07/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
Đằng sau các kì tích kinh tế
24/07/2011


Vì sao một số nước không những không có tài nguyên thiên nhiên mà thậm chí còn trải qua hiểm họa lại có thể làm được những điều thần kì: đột nhiên trở thành giàu có, vượt lên trên các nước khác.  Tác nhân của các kì tích kinh tế đó là gì? Các nước khác có thể học tập kinh nghiệm để đạt được tốc độ phát triển cao như thế hay không?




Reuven Brenner*

Quảng trường Dam cuối thế kỷ 17,
tranh của Gerrit Adriaenszoon Berckheyde.
 


















Tác nhân của các kì tích kinh tế


Trong thế kỉ XVII kì tích kinh tế không xảy ra ở Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha – hai nước này đều thuộc loại “vớ được kho báu” – mà xảy ra ở Amsterdam, Hà Lan, một nước nằm dưới mặt nước biển và giàu lên, bất chấp các điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Sau này, Tây Đức cũng phát triển với một tốc độ thần kì ngay trên đống tro tàn của Chiến tranh Thế giới II. Một số nước châu Á như Hồng Kông và Singapore cũng tạo ra những kì tích  đáng chú ý. Còn một thí dụ nữa, đấy là Scotland, một kì tích suýt bị lãng quên nhưng có thể cho ta nhiều bài học đặc biệt giá trị.

Các kì tích kinh tế này có điểm nào chung?

Hà Lan là nước cộng hòa đầu tiên ở châu Âu có thái độ khoan dung với các tôn giáo (trong khi các nước khác vẫn còn thái độ kì thị với một số tôn giáo) và những bảo đảm về quyền sở hữu tài sản, tạo điều kiện cho thương mại và sáng kiến trong lĩnh vực tài chính phát triển một cách tương đối tự do.

Chính nhờ sự cởi mở đó mà Hà Lan đã thu hút được các thương nhân và những người “buôn tiền” (các chủ nhà băng ở miền Bắc nước Ý) có học và có quan hệ rộng tới Amsterdam – trong số đó bao giờ cũng có người Do Thái và người Huguenot, tức là những người bị cả châu Âu kì thị. Họ đã giúp đưa Amsterdam trở thành trung tâm thương mại và tài chính của thế giới. Thị trường cổ phiếu đầu tiên được thành lập ở đây, và người Pháp, người Ý từ Venise, Florence và Genoa, cũng như người Đức, Ba Lan, Hungaria, Tây Ban Nha, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Armenia, Ấn Độ, không chỉ mua bán trên thị trường cổ phiếu mà còn mua bán trên thị trường “phái sinh” phức tạp (sophisticated deriviatives) nữa.

Đây chính là “quá trình toàn cầu hoá” trong thế kỉ XVII, dù không có ai sử dụng khái niệm này. Sự khác nhau chủ yếu giữa thời đó và ngày hôm nay dĩ nhiên là ở tốc độ của thông tin. Những nhà buôn nhập cư có học và có nhiều tham vọng, có liên hệ với các bạn hàng trên khắp thế giới đã tạo ra trong thế kỉ XVII ở Amsterdam những kỳ tích kinh tế. Đấy cũng là những tác nhân đằng sau những kì tích kinh tế trong các quốc gia khác.

Lịch sử phát triển của Hamburg, Hồng Kông, Singapore, Đài Loan và Tây Đức có nhiều điểm chung với Amsterdam, dù những thành phố hay những nước này theo các tôn giáo khác nhau. Đó là Chính phủ các nước này đều bảo đảm pháp luật và trật tự, thuế suất tương đối thấp, động viên dân chúng tham gia làm ăn - biện pháp thu hút người nhập cư và doanh nhân từ khắp thế giới.

Đầu thế kỷ XIX, Sir Stamford Raffle (1781 – 1826) lập ra thành phố cảng Singapore và củng cố nó bằng một hệ thống hành chính, pháp luật phù hợp, cũng như hệ thống giáo dục mở rộng cửa cho mọi sắc tộc ở đây. Sự phát triển của thương mại trong điều kiện an ninh được bảo đảm đã mang lại phồn vinh cho những người nhập cư nghèo khổ từ Indonesia và đặc biệt là từ Trung Quốc. Sự phát đạt của Hồng Kông là do làn sóng di dân liên tiếp từ Trung Quốc, đặc biệt là các nhà buôn và các nhà tư bản tài chính xuất thân từ Thượng Hải sau khi Mao Trạch Đông “giải phóng” Trung Quốc vào năm 1949- giống như sự phát triển của Amsterdam khi các nhà buôn và các nhà tư bản tài chính chạy khỏi bán đảo Iberia, khi những người Huguenot chạy khỏi nước Pháp và khi người Do Thái rời bỏ nhiều nước châu Âu để đến Hà Lan vậy.

Kế hoạch Marshall

Kì tích kinh tế của Tây Đức sau Chiến tranh Thế giới II cũng phù hợp với xu hướng này, mặc dù người ta thường thổi phồng một cách quá đáng thành tích của Đức với kế hoạch Marshall.
Theo tính toán của các nhà kinh tế học, trong giai đoạn từ năm 1948 đến năm 1950 viện trợ của kế hoạch Marshall chiếm từ 5-10% tổng sản phẩm quốc gia (GNP) của các nước Âu châu, tuy nhiên con số này cũng chưa hẳn là chính xác. Trong thống kê của các nước Âu châu thời đó thu nhập quốc dân thường bị đánh giá thấp vì không tính được nền “kinh tế ngầm” rất phát đạt mà nguyên nhân là do chính sách điều tiết giá cả và thuế khóa như ăn cướp. Cũng nên biết rằng sau Thế chiến I đã không có bất kì kì tích kinh tế nào mặc dù các khoản vay và viện trợ cũng chiếm khoảng 5% GNP của châu Âu. Mặt khác, sau Thế chiến II cả thế giới đều giảm hàng rào thuế quan trong khi sau Thế chiến I thì không. Như vậy nghĩa là kì tích kinh tế chủ yếu là do giảm thuế chứ không phải là viện trợ từ nước ngoài.


Hồng Kông

Nước Đức ngày nay

Vậy đâu là chất xúc tác cho kì tích kinh tế của Tây Đức? Từ năm 1945 đến năm 1961 Tây Đức tiếp đón 12 triệu người di cư mà đa số là những người có tay nghề cao. Trong số này có 9 triệu người Đức từ Ba Lan và Tiệp Khắc, số còn lại là những người đến Đông Đức. Mặc dù thống kê thời đó không tính đến sự di chuyển của “nguồn vốn con người” nhưng có thể thấy ý nghĩa quan trọng của nó nếu biết rằng tỷ lệ người làm việc so với toàn bộ dân chúng ở Tây Đức trong những năm 1950-1960 cao hơn so với các nước khác: ở Tây Đức là 50%, trong khi ở Pháp là 45%, Anh là 40%, Mỹ là 42%, còn Canada chỉ có 36%. Khi dòng người từ Đông Âu chấm dứt thì lại có làn sóng người có tay nghề cao từ các nước vùng Địa Trung Hải tràn vào. Nói cách khác, kì tích kinh tế của Tây Đức không phải là do viện trợ nước ngoài mà là do các tác nhân đã từng và sẽ còn tạo ra những kì tích tương tự ở những nơi khác: những người nhập cư có tay nghề cao và mức thuế thấp.

Kì tích Scotland

Năm 1750 Scotland còn là một nước nghèo. Đất đai cằn cỗi, dân chúng mù chữ, chỉ sống bằng nghề nông cho qua ngày đoạn tháng, không có dòng sông nào có thể dùng làm phương tiện vận tải thủy, núi trọc và những dãy đồi đá cản trở mọi phương tiện đi lại khác. Hàng xuất khẩu chủ yếu là thuốc lá đã qua chế biến. Thế mà chưa đến một trăm năm sau Scotland cùng với Anh đã đứng vào hàng ngũ những nước có nền công nghiệp phát triển nhất thế giới, mức sống của người dân cũng tương tự như ở Anh?

Vào năm 1707, Scotland trở thành một phần lãnh thổ của Vương quốc Anh. Hệ thống luật pháp, thuế khóa và tiền tệ Anh cũng được áp dụng tại đây, người Scotland cũng được tiếp xúc với thị trường Anh từ đó. Nghị viện Scotland bị bãi bỏ cho mãi đến năm 1885 Scotland vẫn không có một cơ quan quản lí hành chính riêng. Nhưng hóa ra đấy lại là một điều may mắn (giống như Hồng Kông sau này, nhờ sự cai trị từ xa của Anh mà cũng đạt được thành tựu không kém) vì hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính đã phát triển phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế cá thể không phải là phương tiện để Chính phủ thi hành chính sách tài chính.
Đến năm 1810 Scotland đã có 40 ngân hàng độc lập. Quan niệm chung của thời đó là ngân hàng chỉ cho vay khi có bảo đảm bằng hàng hoá trên đường vận chuyển hoặc đang trong quá trình gia công, mà thời hạn cũng không quá 90 ngày. Ngược lại, ngân hàng Scotland cho vay vô thời hạn và không cần thế chấp. Các khoản cho vay của ngân hàng Scotland chính là tiền thân của trái phiếu lãi suất cao với nhiều rủi ro hiện nay (junk bond). Những khoản vay lớn nhất được dành cho các nhà sản xuất công nghiệp và thương nhân, những người này cùng với hai/ba người bảo lãnh chỉ cần kí nhận là đủ.

Cảng Thái Bình Dương trên sông Clyde là một ví dụ về sự đổi mới của Glasgow,
thành phố lớn nhất ở Scotland, và nỗ lực đa dạng hóa nền kinh tế
của nước này (ảnh: Wikipedia)

 

Ông A. W. Kerr, nhà sử học người Scotland, chuyên về lĩnh vực tài chính, đã mô tả tính chất đặc thù của thị trường tài chính của nước này như sau: “Ít bị các nhà làm luật can thiệp, đấy chính là đặc điểm của hệ thống ngân hàng Scotland cho đến năm 1844 và đấy cũng là điều may mắn của đất nước. Nó đã giữ cho hệ thống ngân hàng Scotland thoát khỏi sự điều tiết và hạn chế không cần thiết, tức là thoát khỏi chính những biện pháp đã cản trở và làm méo mó sự phát triển của hệ thống ngân hàng Anh quốc. Ở Scotland, người ta đã tạo điều kiện cho ngân hàng đồng hành với sự thăng tiến của đất nước về tài sản và tri thức. Hơn thế nữa, hệ thống ngân hàng còn có khả năng đưa đất nước vào con đường thịnh vượng và chuyển từ kinh nghiệm thực tế thành hệ thống ngân hàng tự nhiên và lành mạnh. Đấy là điều bất khả thi nếu nó cũng nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước như ở các nước khác trong cùng thời gian đó. Kinh nghiệm Scoltland cho thấy rằng đất nước, bắt đầu từ con số không muốn trở thành thịnh vượng thông qua con đường buôn bán và kinh doanh tài chính, phải không để cho hệ thống thuế khóa gây cản trở và được hệ thống chính trị và pháp lí ổn định che chở. (Xin nhớ rằng Adam Smith cũng là người Scotland).

Scotland nổi tiếng không chỉ nhờ hệ thống ngân hàng có một không hai, mà còn nhờ ở sự đầu tư vào hệ thống giáo dục nữa. R. H. Robertson, trong bài báo Năng suất lao động của các nhà khoa học Scotland đã đưa ra số liệu như sau. “Các nhà khoa học nổi tiếng” có năng suất lao động cao nhất vào giai đoạn 1800-1850, và giảm rất nhanh từ sau năm 1870. Lí do? Những người tài giỏi nhất bắt đầu di cư và kì tích kinh tế của Scotland cũng chấm dứt từ đấy.
Sự tụt hậu một cách tương đối của Scotland trong thế kỉ XX là do người ta đã chuyển hệ thống giáo dục và ngân hàng theo khuôn mẫu của nước Anh (việc “đồng hoá” hệ thống ngân hàng diễn ra từ năm 1845, nhưng tiến triển chậm). Nếu phần đông những người có tài và có chí đã ra đi, những người ở lại thì khó tiếp cận với ngân hàng hơn, vậy thì còn chờ gì nữa? Không tụt hậu mới là chuyện lạ!

Các sinh viên rồi sẽ trở thành thầy giáo và còn tiếp tục tìm hiểu huyền thoại kinh tế học vĩ mô và những ngộ nhận trong các chỉ số gộp. Sau một thời gian, một số người trong bọn họ có thể nhận ra rằng nhà “vua cởi truồng”, họ có thể sẽ phải đứng trước nan đề, giống như nhà thiên văn học Kepler đã từng gặp. Câu chuyện như sau: Kepler không tin môn chiêm tinh học, nhưng ông vẫn phải viết luận văn về chiêm tinh học vì các quân vương trả tiền cho những bài luận văn đó.
Các nhà kinh tế học đó sẽ phải, hoặc là bắt chước Kepler và che dấu niềm tin thực sự của mình hoặc là rút khỏi hoạt động “khoa học”. Những nhà khoa học tầm thường sẽ chọn phương án thứ nhất và tiếp tục phát triển môn kinh tế học vĩ mô: chính họ là những người đưa ra phần lớn “sản phẩm khoa học”, chính họ là những người kiểm tra và xuất bản các “sản phẩm” này và đòi hỏi rằng tất cả các kết quả nghiên cứu đều phải đi qua các kênh do họ kiểm soát. Đấy chính là lí do vì sao các tư tưởng sai lầm bao giờ cũng trở thành “khoa học”.

Từ trường hợp Scotland có thể rút ra được những bài học khác nữa. Tiết kiệm không phải là điều kiện tiên quyết cho sự thịnh vượng của người Scotland. Họ chẳng có gì mà tiết kiệm. Họ cũng chẳng nhận được một đồng viện trợ nào từ bên ngoài. Nhưng khi có cơ hội và thị trường tài chính phát triển một cách thuận lợi thì họ không chỉ tiết kiệm mà còn biết sử dụng đồng tiền tiết kiệm một cách có lợi nhất. Đó là tiền tiết kiệm được đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân, trong khi ở Anh và các nước khác lại được giao vào tay Chính phủ (tức là người dân giữ tiền mặt - ND). Người Scotland không cần Chính phủ động viên, “máu” kinh doanh của họ đã có sẵn trong huyết quản rồi. Khác với các kì tích kinh tế bên trên, không có nhiều người có tài từ khắp thế giới di cư đến Scotland. Nhưng kì tích Scotland chấm dứt ngay khi những người có tài ra đi, còn thị trường tài chính thì bị kiểm soát chặt chẽ và thuế khóa gia tăng.

Có thể rút ra được những bài học nào?

Thuế khóa và khả năng tiếp cận với dịch vụ ngân hàng.

Ưu điểm lớn nhất của thị trường tài chính tư nhân là chúng phi tập trung hóa quá trình ra quyết định và kịp thời sửa chữa các sai lầm. Kết quả là xí nghiệp nhỏ nào đáp ứng được thách thức tài chính thì sẽ phát triển. Nếu không, thiệt hại đối với xã hội sẽ rất nhỏ nếu so với sự đổ vỡ của các dự án khổng lồ do Nhà nước tài trợ- mà các dự án này lại thường được bơm thêm tiền để không bao giờ bị phá sản. Việc tiếp tục chi tiền cho các dự án như thế lại được một đội ngũ đông đảo các Nhà kinh tế học ăn lương Nhà nước - họ chính là những thầy trợ tế thời nay- sẵn sàng đưa ra ngay được những lí thuyết “sống sít” nói rằng các nhà quản lí và các quan chức khôn khéo, bất vụ lợi của Chính phủ có thể chữa được mọi khuyết tật của thị trường. Kết quả là “tiền thì mất mà tật vẫn mang”.

Có thể là trong tương lai các nhà kinh tế học sẽ tính được một cách chính xác đóng góp vào thành tích ngoạn mục của Mỹ từ những người nhập cư đầy tài năng, đầy tham vọng và có liên hệ rộng sau Chiến tranh Thế giới II đổ vào nước Mỹ từ khắp thế giới. Lúc đó chúng ta sẽ biết việc chuyển dịch cái vốn con người vô giá đó đã giúp khắc phục nhiều sai lầm đắt giá trong chính sách của Chính phủ Mỹ như thế nào.

Các Chính phủ đã có một loạt lựa chọn khi họ muốn tăng tốc phát triển. Một trong số đó là đưa ra gói thuế khóa và lợi nhuận có thể thu hút được người tài và đồng vốn từ nước ngoài. Nhưng vì chính sách này sẽ làm giảm đà tăng trưởng ở những nơi khác nên các nước khác sẽ có biện pháp đáp trả. Cho nên biện pháp hữu hiệu hơn phải là khuyến khích tính năng động của các doanh nhân trong nước. Đấy là giảm thuế thu nhập và giảm thuế lợi tức, điều đó sẽ làm gia tăng nhanh chóng số tiền mà dân chúng sẵn sàng đầu tư vào doanh nghiệp và đẩy nhanh việc tái định hướng đầu tư vào các dự án của doanh nghiệp. Và như thế hiệu quả đầu tư sẽ tăng – sai lầm (và giá phải trả) làm giảm tốc độ phát triển sẽ bị loại bỏ.

Tiêu chí tốt nhất để nói rằng thịnh vượng đã gia tăng? Dĩ nhiên là không phải con số thống kê của Nhà nước, vì đây là cách tính dựa trên phương pháp sai và lỗi thời. Đáng tin cậy nhất chính là sự thay đổi mạnh mẽ giá trị thị trường của chứng khoán hoá (securitization) - được tính bằng đơn vị tương đối ổn định như vàng chứ không phải bằng đơn vị dễ thay đổi như tiền giấy.

Dĩ nhiên là giá trị nói trên chưa phải là chỉ số dự báo hoàn hảo, nhưng đấy là chỉ số tốt nhất và đáng tin cậy nhất khi mà thị trường tài chính đã đi vào “chiều sâu”. Nghĩa là thị trường chứng khoán phải phản ánh được những kì vọng liên quan đến chính sách của Chính phủ và của ngân hàng Trung ương: luật lệ, chính sách của họ ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty tư nhân. Nếu xã hội có ít nguồn thông tin hoặc thông tin bị kiểm soát hay những người tham gia trên thị trường bị “trói chân, trói tay” thì thị trường chứng khoán không thực hiện được vai trò của mình. Thị trường thiếu “chiếu sâu” là thị trường không có giá trị.

Những nước, vì lí do chính trị, mà thông tin bị cản trở - thí dụ như Tân Hoa xã ở Trung Quốc ngăn chặn thông tin của Dow Jones - nhất định sẽ phải chứng kiến những dao động thất thường của thị trường chứng khoán, giống như thị trường New York cách đây một trăm năm, tức là trước khi Dow Jones phát hành newsletter và báo cáo hằng năm. Trong những trường hợp như thế, cả thị trường chứng khoán lẫn thống kê của Chính phủ đều không thể cho ta biết xu hướng phát triển của nền kinh tế cũng như có thịnh vượng hay không.

Giả khoa học về kinh tế vĩ mô

Mặc dù giả khoa học về kinh tế vĩ mô là huyền thoại chứ không phải dối trá, nhưng nó đã gây ra những thảm họa do làm người ta phải choáng váng, và biết bao lầm lẫn. Tại sao nó lại trở thành huyền thoại? Việc nó tập trung chú ý vào các chỉ số gộp (aggregate) của quốc gia đã che dấu một sự thật là có nước thì các con số này phản ánh những thứ mà nhân dân thích, còn ở nước khác thì đấy là những thứ mà nhà cầm quyền và giới quyền uy thích. Ngưới ta đã quên mất rằng khởi thủy các chỉ số gộp được tính trên cơ sở giả định rằng quan hệ giữa người cầm quyền và công dân là quan hệ trao đổi “dịch vụ’, tương tự như các giao dịch trên thị trường tư nhân vậy.

Các mô hình kinh tế vĩ mô, đưa hoạt động của nền kinh tế vào mấy phương trình đơn giản, với “sản lượng” và “đầu ra”, không thể dự đoán được là kinh tế sẽ phát triển hay sẽ dẫn đến thảm họa. Vì trong các phương trình đó người ta đã đem cộng thêm số người làm việc cho Chính phủ và “đầu ra” của Chính phủ vào các chỉ số tương ứng trong khu vực tư nhân - họ làm thế là có lí do, vì đôi khi Chính phủ có lí do chính đáng (tuy không liên quan gì đến kinh tế học vĩ mô) để can thiệp – và sẽ không có gì ngạc nhiên khi chi tiêu của Chính phủ tạo ra công ăn việc làm và sản phẩm.

Các nhà kinh tế học đã sử dụng những con số này một cách thiếu thận trọng và nhờ sự trợ giúp của các cơ quan thống kê và các viện nghiên cứu, được Nhà nước tài trợ một cách hào phóng, họ đã biến cái ý tưởng ích kỉ về mặt chính trị đó thành những cuộc thảo luận “khoa học” và “khách quan” về các con số và phương pháp thống kê, mà bỏ qua vai trò của các định chế chính trị. Kết quả là kinh tế học vĩ mô đã trở thành một lí thuyết vô hại cho nhà cầm quyền và được giảng dạy ở nhiều trường đại học trên khắp thế giới.

Rất nhiều bằng chứng lịch sử đã cho thấy rằng con đường dẫn đến thịnh vượng sẽ dễ dàng hơn nếu Chính phủ chỉ làm mỗi một việc là tạo ra những định chế mà chức năng của chúng là bảo đảm cho các doanh nghiệp và thị trường tài chính hoạt động một cách năng động nhất. Có thể khẳng định: tư tưởng cho rằng nhà nước cần phải thường xuyên can thiệp vào thị trường chỉ là kết  quả của việc tạo dựng huyền thoại do chính nhà nước tài trợ mà thôi.

Phạm Nguyên Trường dịch (theo tiasang.com.vn)
Nguồn: www.cato.org/pubs/policy_report/v20n3/econgrowth.pdf
* Reuven Brenner — là giáo sư kinh tế thuộc trường McGill University (Montreal Canada), đã xuất bản 7 tác phẩm về những vấn đề kinh tế khác nhau.

Cập nhật ( 23/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày càng đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com