Tuần 50 - Ngày 16/07/2024
SỰ KIỆN TRONG TUẦN
Hỏi:

Em cảm thấy vô hướng quá  

Em chào thầy ạ, em là 1 sinh viên đang theo học tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội và cũng đang học trong lớp Kiến trúc Công nghiệp của thầy ạ. Em có 1 số vấn đề nội tâm rất mong muốn được thầy giúp đỡ và mách bảo ạ. 
Vấn đề chính em đang gặp phải là em cảm thấy rất vô hướng như trong tiêu đề ạ. Em thấy bản thân mình không có tý năng lực nào để mai sau có thể hành nghề kiến trúc sư. Hiện tại em bị nản chí và cũng lo sợ nữa. Em vào trường cũng vì ước mơ có thể xây ngôi nhà do chính mình thiết kế và hành nghề. Nhưng em cảm thấy mình không đủ năng lực để có thể hành nghề, kiến thức trên trường là vô cùng lớn mà dù e đã học rồi nhưng lại bị quên lãng chỉ sau 1 học kỳ. Em cũng không giỏi vẽ và vẽ rất xấu nếu vẽ tay thì nhìn rất trẻ con và thiếu chuyên nghiệp, nhìn các bạn khác em cảm thấy rất tự ti, Em cũng không biết mình còn có thể đủ trình độ để đi thực tập không nữa. Chuyên môn của em em tự đánh giá là khá tệ, em rất suy sụp và cố gắng học những gì có thể mà chuyên ngành cần. Thầy có thể cho em xin ý kiến và liệu có giải pháp khắc phục không ạ, em rất sợ rằng nếu hành nghề thì bản thân không giỏi giang thì kinh tế làm ra sẽ bị thấp, không đủ sống. Vậy em phải làm sao ạ. 


Trả lời:

Thày đã nhận được thư.

Năng lực tự thân thời điểm này là kết quả của năng lực tự rèn luyện giai đoạn trước. Như em nêu trong thư, năng lực tự thân yếu, trước hết thể hiện:
i) Kiến thức chuyên môn còn nhiều khoảng trống và ngày càng rộng ra, do việc học không chăm chỉ;
ii) Trình bày bản vẽ kiến trúc xấu, do không cẩn thận khi thiết kế;
iii) Mất niềm tin vào chính mình, nản chí và dẫn đến lo sợ cho tương lai. 
Phải thấy đó là điều không tốt đẹp do chính em gây ra, để có trách nhiệm mà sửa mình. 
Được gia đình hỗ trợ, có sức khỏe và năng lực để học đến năm thứ 3, là may mắn lắm, khi so sánh với rất nhiều thanh niên người Việt khác. 

Một số việc phải làm ngay: 
i) Thay đổi ngay nhận thức cũ: Ta phải trở thành người tài với cả kỹ năng cứng và mềm phù hợp để cạnh tranh và hợp tác, không chỉ trong kiến trúc mà cả lĩnh vực liên quan khác mà xã hội đang cần và tạo ra giá trị gia tăng;
ii) Sử dụng thời gian hợp lý: Một ngày ngủ đủ 6- 7 tiếng để tái tạo sức lao động. Thời gian còn lại dành cho: Học ngoại ngữ và chuyển đổi số; Đi học đầy đủ và lắng nghe bài giảng; Đọc sách và tài liệu bổ sung kiến thức; Chủ động trao đổi chuyên môn với giảng viên và bạn bè;
iii) Chăm chỉ tự học tập: Lời chê ghê gớm nhất là Kẻ lười nhác. Từ Kẻ lười nhác đến Kẻ hèn hạ và vô dụng rất gần nhau. Không phải lúc nào cũng có người bên cạnh mà học hỏi, mà phải có kế hoạch tự học, từ trong sách vở đến mạng xã hội và thực tế;
iv) Mở ra với thế giới bên ngoài: Tìm người có đức, có tài mà chơi để học kiến thức và sự đồng thuận; Ra với môi trường tự nhiên mà hòa vào trong đó. Sẵn sàng trải nghiệm làm những điều tốt đẹp; 
v) Còn 2 năm nữa mới ra trường. Phải học để tốt nghiệp đại học, điểm khởi đầu sự nghiệp của một người tri thức. Đây là thời gian đủ để em tìm lại sự cân bằng cảm xúc và tận tâm thay đổi chính mình.

Nếu có vấn đề gì về việc học tập có thể trao đổi với thày. Thày sẵn sàng đồng hành.

Ngày 4/11/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 
Hỏi:

Em kính chào thầy ạ.
Em đang đọc lần 2 quyển sách Nghĩ giàu làm giàu, xuất bản lần đầu năm 1937. Quyển sách được viết từ 90 năm trước nhưng nó vẫn đang phản ánh nhiều thực tế.
Em đã đọc được rằng "các cơ sở giáo dục cần có trách nhiệm hơn nữa trong việc định hướng nghề nghiệp cho sinh viên".
Em nghĩ đó là việc các thầy đang làm không ngừng. 
Em viết mail này để cảm ơn công việc của thầy ạ.

Em cảm ơn thầy đã đọc ạ.
Sinh viên 60KD3


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Rất cám ơn về những dòng chia sẻ, động viên. 
Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên không chỉ liên quan đến việc đào tạo kỹ năng cứng mà còn phải là kỹ năng mềm, liên quan trước hết đến năng lực đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp. 
Cuốn sách "Nghĩ giàu, làm giàu" chỉ là một trong những nội dung mà thế hệ trẻ quan tâm.
Điều lớn lao hơn là họ phải có năng lực tự thân và năng lực tự rèn luyện để hình thành sự nghiệp và trở thành người tốt cho gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với chuẩn mực chung của loài người trong thế kỷ 21. 
Sinh viên là tương lai của thày.
Thày cùng các thày cô giáo khác đang nỗ lực hết sức để biến tương lai tốt đẹp đó thành hiện thực. 
Thày đang viết một cuốn sách với tiêu đề: 'Nâng cao năng lực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho sinh viên (và cựu sinh viên) trong lĩnh vực xây dựng'. Dự kiến tháng 5/2023 xuất bản. 
Chúc mọi điều tốt lành. 
Ngày 8/3/2023; Thày Phạm Đình Tuyển 

 
 
Hỏi:

 

Thưa thầy, em xin gửi kết quả bigfive mới của bản thân, qua đây em cũng xin cảm ơn thầy vì thông qua bài khảo sát bigfive và những lời thầy nói, em đã cố gắng khắc phục những yếu điểm của bản thân và cũng như trau dồi thêm kiến thức để khai phá bản thân, và thực tế đã có những chuyển biến tích cực trong cuộc sống và công việc của em, tuy vậy bản thân em cũng vẫn còn những thiếu sót, những điều em chưa thay đổi đc, em mong thầy thông cảm và trân thành cảm ơn thầy đã lắng nghe em.

 

Sinh viên Khóa 53KD, Khoa Kiến trúc Quy hoạch, ĐHXD Hà Nội

 


Trả lời:

 

Đã nhận được kết quả Big Five. Nên ghép thêm kết quả của những sinh viên khác, người khác để có thể so sánh và rút ra được nhận xét ta là ai và từ đó tự sửa mình. 

Kết quả cho thấy: Tính cách (hay kỹ năng mềm) thuộc loại trung bình. Yếu về tính hướng ngoại. 

Từng bước, từng bước mà cố gắng hơn. 

 

Ngày 3/2/2023, thày Phạm Đình Tuyển 

 


Hỏi:  Em gửi thầy kết quả Big Five ạ.




Trả lời: Thày đã nhận được kết quả đánh giá Big Five của em. 
Sau một năm tự nhìn nhận mình là ai và đã có những thay đổi . 
Tính cách Tận tâm và Hướng ngoại được cải thiện so với trước. 
Tính cách Cân bằng cảm xúc vẫn yếu như cũ. Theo các nghiên cứu mà thày được biết, tính cách Cân bằng cảm xúc là cốt lõi. Mọi năng lực hoạt động chuyên môn, xã hội của một con người đều dựa vào đây mà ra cả. 
Ta có mặt trên đời này đều có nguyên cớ tốt đẹp nào đó.  Phải tự tin hơn nữa vào chính mình, trước hết là từ công việc chuyên môn, nay chính là đồ án tốt nghiệp. 
Thày sẽ hỗ trợ chuyên môn để em có kết quả tốt nhất trong việc thực hiện học phần Đồ án tốt nghiệp. 
Ngày 10/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển.  
 

Hỏi: E chào thầy ạ! E là Thắng ,sinh vien nhận đồ án tốt nghiệp nhóm thầy, nhóm mình có nhóm zalo riêng hay thế nào để trao đổi về đồ án k ạ ? Em tìm sđt thầy để add Zalo nhưng không được ạ! Em cảm ơn thầy.
Trả lời: Trao đổi trực tiếp với thày qua mail. 
 
Một số nội dung chính thực hiện trong 4 tuần đầu tiên: :
 
1) Đọc kỹ các yêu cầu về nội dung Học phần đồ án tốt nghiệp của Khoa và Bộ môn KTCN; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành ngay trong tuần thứ 1)  
2) Báo cáo về tên đề tài tốt nghiệp, vị trí cụ thể khu đất dự kiến theo tỷ lệ 1/500 (hoàn thành trong tuần thứ 1)
3) Chuản bị các quy định, tiêu chuẩn thiết kế có liên quan đến đề tài; in thành một bộ hồ sơ, khi đi thông qua mang theo (hoàn thành trong tuần thứ 2)
4) Tìm 5 ví dụ trên thế giới về các công trình tương tự với loại hình dự kiến trong đề tài tốt nghiệp; nhận xét và đánh giá, kết luận rút ra để có thể ứng dụng cho đề tài (4 tuần phải hoàn thành); 
5) Đọc lại các nguyên lý thiết kế kiến trúc đã được học (phải làm ngay và liên tục cho đến khi bảo vệ đề tài);
6) Nên tự đánh giá Ta là ai. Đánh giá theo phần mềm  Big Five- tính cách sinh viên, để thày biết rõ hơn về sinh viên. 
Phần mềm đánh giá: http://talaai.com.vn/   (talaai.com.vn)
Sau đó gửi ngay kết quả đánh giá tính cách cho thày, để có thể hỗ trợ. 
 
Gặp nhau 2 tuần/lần. Mỗi lần gặp cần chuẩn bị sẵn câu hỏi để có thể trao đổi tối đa những vấn đề liên quan đến đề tài tốt nghiệp mà không tự trả lời được. 
Địa điểm gặp: Chiều thứ tư hàng tuần, từ 16h - 17h30 tại Văn phòng Bộ môn KTCN. 
 
Đồ án tốt nghiệp là một sự kiện quan trọng của đời người lao động trí óc. 
Phải nỗ lực hết sức và dành tất cả thời gian, nguồn lực cho đồ án. Từ đây mới có kết quả tốt nhất, để trải nghiệm, hình thành năng lực cần thiết chuẩn bị cho việc ra trường và làm việc với vô số những người tài khác trong xã hội. 
 
2/6/2022. Thày Phạm Đình Tuyển. 
 

Hỏi:  Em chào bộ môn ạ, em là Hoàng Đức Dương lớp 66XD8 msv-0013966 đang làm bài tiểu luận về công trình dân dụng ạ em thấy bộ môn có đăng bài về công trình galaxy soho ở Trung Quốc vậy em muốn xin bộ môn cho em bài đăng đó được không ạ, em xin cảm ơn bộ môn,em chào bộ môn ạ.


Trả lời: Trang WEB bmktcn.com được thành lập với mục tiêu chính là phục vụ sinh viên. Đương nhiên là em được đăng lại các bài viết trên trang WEB này. 
Chủ  biên: TS. Phạm ĐÌnh Tuyển 

Hỏi:

Em gửi thày bài Trắc nghiệm tính cách – Big Five (talaai.com.vn)


Trả lời:

Thày đã nhận được biểu tượng Big Five của em. Đây là Big Five rất điển hình của sinh viên. Em còn là người mạnh về Hướng ngoại, một tính cách rất được coi trọng trong Thời đại liên kết và hội nhập. 
Do còn trong giai đoạn là sinh viên gắn với Học hỏi, Học tập là chính và chưa có Học hành, nên tính cách Tận tâm của em còn thiếu mạnh mẽ so với tính cách khác.  
Khi làm việc trong doanh nghiệp hay tổ chức nào đó, người sử dụng lao động đánh giá trước hết tính cách Tận tâm và là kỹ năng mềm cơ bản của mỗi nhân viên. 
Không đợi đến lúc ra trường, ngay từ bây giờ em dành quan tâm hơn cho tính cách này. Nếu làm được như vậy, sẽ thuận lợi hơn khi thử việc và nhiều cơ hội hơn trong sự nghiệp. 
Khi trắc nghiệm Big Five, Tận tâm cũng là tính cách nổi trội của thày. Trong công việc, thày luôn có thiện cảm với những người Tận tâm. 
Chúc em sớm trở thành con người thật sự Tận tâm. 

Ngày 24/4/2021, Thày Phạm Đình Tuyển. 


Hỏi:

Em thưa thầy, thầy có thể cho em hỏi làm sao mình có thể kết nối làm quen với những người giỏi hơn mình ạ, em cảm ơn thầy.


Trả lời:

Thày đã nhận được thư của em.
Đối với một đất nước: Hiền tài như nguyên khí quốc gia. Mạnh hay yếu từ đó mà ra cả.
Đối với một cá nhân: Suốt cả đời gắn với việc học: Học cái gì và học thày nào. Và sự học luôn đi cùng với sự sang trọng và thịnh vượng.
Những người giỏi hay người hiền tài có thể thức tỉnh cho ta học cái gì một cách hiệu quả và qua đó họ cũng trở thành thày của ta.
Người tài giỏi là người làm những việc mang lại giá trị gia tăng cao mà người thường không làm được. Người hiền tài là người mang tài của mình ra giúp xã hội.
Vị thế xã hội cấp độ nào thì có người tài, người hiền tài cấp độ đó, ví như người tài giỏi trong lớp, trong trường, trong ngành, trong vùng, trong quốc gia và thế giới.
Mỗi người thường tìm và chơi với người giỏi phù hợp với vị thế của họ. Khi tiến bộ, sang một vị thế mới cao hơn, lại tìm thày giỏi tương xứng ở vị thế đó mà học.
Khi đã tài giỏi trong một vị thế, chính ta lại trở thành người thày để dẫn dắt những người khác chưa có điều kiện giỏi bằng ta. Từ đây ta cũng có được phẩm cách của người chủ và người lãnh đạo.  
Khi đã hiểu được sự cần thiết của việc tìm người giỏi hay người hiền tài để học và hành, thì tất yếu ta sẽ tự thay đổi để tìm được cách kết nối với họ.
Những hiền tài luôn mong muốn làm những điều tốt đẹp. Vậy hãy thể hiện cho họ thấy tính cách của ta cũng luôn mạnh mẽ hướng về điều đó.
Là sinh viên, trước hết hãy tìm thày hay người giỏi trong lớp, khoa, trường; trong gia đình và dòng họ để học.
Thày chúc em sớm thành công.

Ngày 19/4/2021. Thày Phạm Đình Tuyển


Hỏi:

Em thưa thầy (cô). Trong quá trình làm đồ án thì trong lớp có nhóm không hoà đồng được và bạn trong nhóm xin sang nhóm khác. Vậy bạn đó đề xuất chuyển nhóm với thầy trong buổi thông tới luôn được không ạ? Em cảm ơn ạ!


Trả lời:

Bộ môn đã nhận được thư của em. 
Học kỹ năng mềm phối hợp với các thành viên có liên quan trong hoạt động tư vấn là một trong những mục tiêu của việc Làm đồ án theo nhóm. 
Ai cũng phải nỗ lực tự học điều này để đình hình được nhận thức: Sức mạnh và vị thế của một tổ chức chủ yếu được xây dựng trên nền tảng của việc "Cùng nghĩ,Cùng làm".Từ đó mới mong công việc đạt được hiệu quả cao nhất.
23/4/2019. Thày Phạm Đình Tuyển 


Hỏi:

Em chào thầy, các câu trả lời của thầy khiến em thấy rất hữu ích. Em muốn hỏi thầy khi thầy gặp những bế tắc hay thất bại trong cuộc sống thầy đã tự khắc phục như thế nào, có khi nào thầy cảm thấy mệt mỏi với công việc của mình không. Hiện tại có những lúc em cảm thấy kém cỏi so với  người khác, xin thầy cho em lời khuyên được không ạ?

Em cảm ơn thầy rất nhiều. 
Trả lời:


Thày đã nhận được thư của em 
Chắc chắn trong cuộc đời không có ai chỉ toàn thành công cả. 
Trong hoạt động chính trị, thất bại là gắn với tính mạng. 
Trong hoạt động kinh tế, thất bại là gắn với thiệt hại về kinh tế và thời gian.
Trong hoạt động xã hội, thất bại là mất niềm tin và vị thế… 

Trong thời đại hội nhập ngày nay, con người phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh mà trong nhiều trường hợp ta còn chưa biết nhiều về họ; giống như đi thi Olimpic mà không biết sẽ phải thi môn gì; đến đó mới rõ. 
Chính vì vậy, xã hội bây giờ cần những người: i) Tư tưởng tiến bộ; ii) Yêu tự do; iii) Hoạt động đa năng và biết liên kết với nhiều người để làm nhiều việc; trong đó đặc biệt với em là nhân tố thứ ba. 

Nếu một người chỉ chăm chăm làm một việc; việc đó thất bại có nghĩa là mất tất cả. 
Nếu một người làm ba việc; một việc thành công, hai việc thất bại, điều đó cũng chấp nhận được.
Nếu một người làm năm việc; ba việc thành công, hai việc thất bại, điều đó được coi như đã thành công.  

Đã đi học được đến bậc đại học, chắc chắn em có cơ hội hơn rất nhiều người không có điều kiện đi học ngoài xã hội kia (thậm chí nhiều người còn khuyết tật). 
Hãy học và rèn luyện trở thành người đa năng, nghĩa là tập làm nhiều việc một lúc (ưu tiên là việc theo chuyên môn giỏi nhất của mình, tiếp đến là việc mà xã hội đang cần và cuối cùng là việc mà mình yêu thích). Cũng chính từ đây em sẽ tìm được những mặt mạnh của mình.
Đối với những người tri thức, trong tâm thức của họ không có chỗ cho từ “bế tắc” và “mệt mỏi”, chỉ có từ “khó khăn” và “sáng tạo” để vượt qua mà thôi. (Tất nhiên, trong cuộc sống ai cũng phải chịu những nỗi đau buồn, ví như sự mất mát của người thân, bạn bè, đồng loại). 
Một điều nữa em cũng cần biết: Sức mạnh để làm những điều khác biệt và sẽ thành công, không phải chỉ xuất phát từ bản thân em, từ thế giới thực tại này, mà còn được khởi nguồn từ sức mạnh tinh thần của tiền nhân, tổ tiên và dòng họ gia đình em. Vì vậy, phải tìm hiểu, học để phát huy cho được sức mạnh tinh thần này, thậm chí biến thành niềm tin cốt lõi của mình.  

Chúc em trở thành con người đa năng và thành công.  

Ngày 4/12/2018. Thày Phạm Đình Tuyển  

 


Thông tin định kỳ
+ Câu hỏi ôn thi môn học Kiến trúc CN - DD
+ Câu hỏi ôn thi môn học KTCN
+ Bảng giờ lên lớp
+ Giải thưởng Loa Thành
+ Quyết định số 1982/QĐ-TTg phê duyệt Khung trình độ quốc gia Việt Nam
+ Quy định mới về Quy chế đào tạo ĐH hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ của Trường ĐHXD
+ Chương trình khung môn học học phần tiến sỹ chuyên ngành Kiến trúc Công nghiệp
+ Dạy học theo tiếp cận “CDIO” trong đào tạo đại học
+ Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
+ NQ số 44/NQ-CP ban hành Chương trình hành động về đổi mới căn bản, toàn diện GD & ĐT
+ Bộ Xây dựng cung cấp 37 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
+ NĐ 109/2022/NĐ-CP quy định về hoạt động KHCN trong cơ sở giáo dục ĐH
+ Công bố Báo cáo Việt Nam 2035
+ Hệ thống tài liệu phục vụ thực hiện học phần Đồ án KTCN và Công trình đầu mối HTKT
+ Danh mục các video trên WEB bmktcn.com
+ Truyền thuyết Kiến trúc kho báu Chùa Một Cột
+ Danh mục các dự án quy hoạch KCN tại VN
+ Danh mục dự án QH các KKT ven biển Việt Nam
+ Danh mục dự án QH các KKT cửa khẩu tại VN
+ Danh mục hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật trên WEB bmktcn.com
Tin tức chung
So sánh các hệ thống xếp hạng đại học quốc tế phổ biến
18/05/2011


Trong một vài năm gần đây, xếp hạng đại học quốc tế - bao gồm cả xếp hạng toàn cầu lẫn xếp hạng theo từng khu vực địa lý - đã trở thành một chủ đề thu hút mối quan tâm của mọi thành phần xã hội ở mọi quốc gia trên thế giới. Riêng đối với các nhà lãnh đạo và quản lý đại học, kết quả xếp hạng là một căn cứ khách quan để đưa ra các chỉ tiêu phấn đấu của trường, và cũng chính kết quả này sẽ là chứng cứ cho thấy mức độ đạt được các chỉ tiêu đã đặt ra [1].


Vũ Thị Phương Anh











 

Tại Việt Nam, xếp hạng đại học thậm chí đã xuất hiện trong các văn bản hành pháp ở cấp cao nhất, khi chính phủ xây dựng chiến lược phát triển giáo dục quốc gia. Theo Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006-2020, một trong những chỉ tiêu cần đạt là đến năm 2020 có 1 trường đại học được xếp hạng trong số 200 trường đại học hàng đầu thế giới.

Vấn đề là từ lúc chính phủ đưa ra chỉ tiêu nói trên cho đến nay thì số lượng các hệ thống xếp hạng quốc tế đã liên tục tăng lên, ban đầu chỉ có một vài hệ thống nhưng đến nay đã tồn tại hàng chục hệ thống khác nhau. Điều này khiến cho người sử dụng khá khó khăn vì không biết phải tin vào hệ thống nào.  Bài viết này nhằm giới thiệu 5 hệ thống xếp hạng phổ biến, và đưa ra những nhận định về mức độ phù hợp của từng hệ thống đối với giáo dục Việt Nam.

Các hệ thống xếp hạng quốc tế phổ biến

Tính đến thời điểm viết bài này (tháng 4/2011), đã có đến 15 hệ thống xếp hạng quốc tế được nêu trên trang Wikipedia [2], chưa kể các hệ thống xếp hạng quốc gia. Trong bài viết này chúng tôi giới thiệu 5 hệ thống được xem là phổ biến và có ý nghĩa nhất đối với Việt Nam, đó là:

  1. ARWU, còn được biết dưới tên gọi Bảng xếp hạng Giao thông Thượng Hải (Trung Quốc), ra đời năm 2003;
  2. QS World, trước đây thường được gọi là THES hoặc THE-QS, ra đời năm 2004 tại Anh Quốc;
  3. Webometrics, chuyên xếp hạng trang web của các trường đại học, ra đời năm 2004 tại Tây Ban Nha;
  4. QS Asia, dành riêng cho khu vực châu Á dựa trên hệ thống xếp hạng toàn cầu của QS, ra đời năm 2009;
  5. THE, tách ra từ nhóm THE-QS và kết hợp với Thomson Reuters thành một hệ thống riêng, mới ra đời năm 2010 tại Anh Quốc.

So sánh các các hệ thống xếp hạng
1. ARWU

ARWU là hệ thống xếp hạng đại học được đánh giá là khách quan, minh bạch, đáng tin cậy và cho kết quả ổn định  nhất hiện nay. Cách xếp hạng của ARWU chủ yếu xem xét thành tích khoa học của các trường, sử dụng số liệu từ các nguồn thông tin sẵn có của bên thứ ba, không sử dụng số liệu do các trường cung cấp.

Bảng dưới đây nêu tóm tắt các tiêu chí, chỉ báo, và trọng số sử dụng trong phương pháp xếp hạng trường đại học của ARWU [3].

Tiêu chí

(Criteria)

Chỉ báo

(Indicators)

(Code)

Trọng số

(Weightings)

Chất lượng giáo dục

(Quality of Education)

Cựu sinh viên của trường đoạt giải Nobel hoặc giải Fields

Alumni

10%

Chất lượng giảng viên

(Quality of Faculty)

- Giảng viên của trường đoạt giải Nobel hoặc giải Fields

- Giảng viên của trường có tên trong danh sách những nhà khoa học được trích dẫn nhiều nhất trong 21 lãnh vực tổng quát

- Award

 

- HiCi

 20%

 

 

 20%

Thành tích khoa học

(Research Output)

- Số bài báo đăng trên hai tạp chí khoa học Nature và Science

- Số bài báo được chỉ dẫn trong cơ sở dữ liệu các tạp chí của SCIE và SSCI

- N&S

 

- PUB

20%

 

20%

Hiệu suất bình quân của giảng viên

(Per Capita Performance)

Hiệu suất khoa học bình quân tính trên đầu giảng viên

PCP

10%

Tổng                                                                                                                         100%

Mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng ARWU không phù hợp với các trường đại học của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Những tiêu chí khắt khe về thành tích khoa học khiến cho ARWU chỉ phù hợp với những trường đại học nghiên cứu của các nước phát triển – chủ yếu là hệ thống Anh-Mỹ và Châu Âu. ARWU hoàn toàn không quan tâm đến việc cung cấp thông tin so sánh về các trường đại học của các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam hoặc những khu vực khác trên thế giới.

2. THE-QS (nay là QS World)

Hệ thống xếp hạng của THE-QS là sự hợp tác giữa Tạp chí THE (Times Higher Education) và QS. Hệ thống này tồn tại từ năm 2004 đến năm 2009 dưới tên gọi đầu tiên là THES, sau đó đổi thành THE-QS. Đến năm 2009, THE không hài lòng về phương pháp xếp hạng đang gây nhiều tranh cãi của THE-QS vào lúc ấy, nên sự hợp tác giữa hai bên chấm dứt. QS tiếp tục sử dụng bảng xếp hạng này, đổi thành QS World và bổ sung vào các sản phẩm của mình các bảng xếp hạng khu vực như Bảng xếp hạng Châu Á của QS (QS Asia), sẽ được đề cập đến ở mục 4.  

THE-QS hay QS World là hệ thống xếp hạng bị phê phán nhiều nhất, trước hết là vì quá đặt nặng việc khảo sát ý kiến các bên có liên quan (đồng nghiệp và nhà tuyển dụng), dẫn đến các số liệu thiếu ổn định và độ tin cậy thấp. Ngoài ra, QS World cũng sử dụng các số liệu do chính các trường cung cấp để xếp hạng (tỷ số giảng viên trên sinh viên), nên không bảo đảm các số liệu tự cấp kia là hoàn toàn chính xác.

Bảng dưới đây tóm tắt các tiêu chí, chỉ báo và trọng số sử dụng trong phương pháp xếp hạng trường đại học của QS World [4].

Tiêu chí
(Criteria)

Chỉ báo

(Indicators)

Trọng số

(Weightings)

Chất lượng nghiên cứu (Research quality)

Khảo sát ý kiến đồng nghiệp (Academic peer review)

40%

Trích dẫn bình quân trên đầu giảng viên

(Citations per faculty)

0%

 

 

 

Chất lượng giảng dạy (Teaching Quality)

Khảo sát ý kiến nhà tuyển dụng toàn cầu

(Global employer review)

10%

Tỷ số giảng viên trên sinh viên

(Faculty student ratio)

20%

Mức độ quốc tế hóa

(Internationalisation)

Tỷ lệ sinh viên quốc tế

(International student ratio)

5%

Tỷ lệ giảng  viên quốc tế

(International faculty  ratio)

5%

Tổng                                                                                                 100%            

Các tiêu chí của QS World không chỉ liên quan đến thành tích khoa học, mà còn bao gồm cả yếu tố nguồn lực dành cho giảng dạy (đo bằng tỷ số giảng viên trên sinh viên), mức độ quốc tế hóa của một trường (đo bằng tỷ lệ giảng viên và sinh viên quốc tế). Việc lấy ý kiến các bên liên quan, dù có tính chủ quan và vì thế thường bị các nhà nghiên cứu phê phán vì thiếu tính khoa học, nhưng cũng có thể cho thấy được phần nào danh tiếng của một trường, dựa trên những thành tựu có thực trong quá khứ của trường đó.

Hiện nay đã có khá nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á tham gia vào hệ thống xếp hạng này và đã lọt được vào 500 đầu tiên (thậm chí trong top 200-300) như Mã Lai, Thái Lan, Indonesia, vv. Vì vậy, khả năng Việt Nam có thể lọt vào danh sách này trong tương lai không phải là điều hoàn toàn bất khả.

3. Webometrics
Webometrics không phải là một hệ thống xếp hạng trường đại học, mà chỉ xếp hạng trang web của các trường mà thôi. Tuy nhiên, do độ bao phủ rộng (Webometrics đưa ra một danh sách đến 12000 vị trí), đồng thời do độ tương quan cao của những vị trí đầu bảng giữa Webometrics và các kết quả xếp hạng khác, nên Webometrics thu hút được khá nhiều sự chú ý của công chúng trên khắp thế giới, trong đó có Việt Nam.

Dưới đây là bảng tóm tắt các tiêu chí và trọng số sử dụng trong phương pháp xếp hạng trường đại học của Webometrics [5].

Tiêu chí

(Criteria)

Trọng số

(Weightings)

Kích thước trang web

(Size)

20%

Khả năng nhận diện

(Visibility)

50%

 

 

Số lượng các “file giàu”

(Rich files)

15%

Thư tịch khoa học theo Scholar

(Scholar)

15%

Tổng                                                                100%

Kết quả xếp hạng trên Webometrics dù chỉ dựa trên trang web nhưng vẫn phản ánh được phần nào thực lực của các trường, trong đó thành tựu về nghiên cứu khoa học (số lượng bài báo, chỉ số trích dẫn, vv) vẫn là một yêu cầu quan trọng. Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều trường được lọt vào danh sách 12,000 trường đại học của Webometrics, và việc theo dõi thứ hạng hàng năm của các trường đại học Việt Nam so với các trường khác trong khu vực cũng có thể cung cấp cho ta một số thông tin hữu ích về “danh tiếng” (reputation) của các trường đại học Việt Nam đối với độc giả quốc tế, để có kế hoạch lựa chọn những trường cần đầu tư để cải thiện vị trí.

4. QS Asia
Hệ thống xếp hạng đại học Châu Á của QS ra đời 2009 và là sự cải biên hệ thống xếp hạng toàn cầu của QS. Đây là một sáng kiến hữu ích nó cho phép các trường vốn ít có cơ hội xuất hiện trong các danh sách xếp hạng toàn cầu có thể lọt vào danh sách các trường hàng đầu của một khu vực để có thể so sánh với nhau.

Dưới đây là bảng so sánh tóm tắt các tiêu chí, chỉ báo và trọng số sử dụng trong phương pháp xếp hạng trường đại học của QS World và QS Asia [6].

Tiêu chí
(Criteria)

Chỉ báo (Indicators)

QS World

Chỉ báo (Indicators)

QS Asia

Chất lượng nghiên cứu (Research quality)

Khảo sát ý kiến đồng nghiệp quốc tế (40%)

Khảo sát ý kiến đồng nghiệp Châu Á (30%)

Trích dẫn bình quân trên giảng viên (20%)

- Tỷ số bài báo trên giảng viên (15%)

- Trích dẫn bình quân trên giảng viên (15%)

Chất lượng giảng dạy (Teaching Quality)

Khảo sát ý kiến nhà tuyển dụng toàn cầu (10%)

Khảo sát ý kiến nhà tuyển dụng Châu Á (10%)

Tỷ số giảng viên trên sinh viên (20%)

Tỷ số giảng viên trên sinh viên (20%)

Mức độ quốc tế hóa

(Internationalisation)

- Tỷ lệ sinh viên quốc tế (5%)

- Tỷ lệ giảng viên quốc tế (5%)

- Tỷ lệ sinh viên quốc tế (2.5%)

- Tỷ lệ giảng viên quốc tế (2.5%)

- Tiếp nhận sinh viên trao đổi (2.5%)

- Gửi sinh viên ra nước ngoài trao đổi (2.5%)

Tổng                                                                                                 100%            

Có thể thấy QS Asia là bảng xếp hạng phù hợp nhất đối với đa số các trường đại học Châu Á. Các chỉ báo liên quan đến quốc tế hóa là điều mà bất kỳ trường đại học Châu Á nào cũng có thể cải thiện được nếu có quyết tâm. Việc trao đổi và tiếp nhận sinh viên và giảng viên quốc tế chắc chắn sẽ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của các trường thông qua việc học hỏi từ các đồng nghiệp quốc tế.

Tỷ số giảng viên trên sinh viên cũng không khó để cải thiện, vì chỉ cần các trường bỏ thêm tiền đầu tư và thu hút thêm nhiều giảng viên. Các chỉ báo thuộc tiêu chí “chất lượng nghiên cứu” cũng không quá khó, vì QS Asia không chỉ tính đến các bài báo có chỉ số trích dẫn cao, mà còn xem xét cả chỉ số bình quân bài báo trên giảng viên. Yêu cầu còn lại là tạo danh tiếng để có ấn tượng tốt đối với những người được kháo sát ý kiến (trọng số khá cao, tổng cộng đến 50%).

5. THE (hệ thống xếp hạng mới, tách ra từ THE-QS)

THE ra đời năm 2010 sau khi sự hợp tác giữa Tạp chí THE (Times Higher Education) và QS để tạo ra bảng xếp hạng THE-QS chấm dứt vào năm 2009 sau khi hoạt động được 6 năm, do THE không hài lòng về phương pháp xếp hạng thiếu ổn định và có thời gian gây nhiều tai tiếng của THE-QS.

Do đã từng là đối tác của QS trong một thời gian dài nên THE có những điểm tương đồng với QS về các tiêu chí xếp hạng. Tuy nhiên, vì cho rằng phương pháp của QS không đáng tin  cậy nên các phương pháp thực hiện xếp hạng của THE rất khác với QS.

Dưới đây là bảng so sánh tóm tắt các tiêu chí, chỉ báo và trọng số sử dụng trong hai bảng xếp hạng của QS World và THE [7].

Tiêu chí
(Criteria)

Chỉ báo (Indicators)

QS World

Chỉ báo (Indicators)

THE

Chất lượng nghiên cứu (Research quality)

Khảo sát ý kiến đồng nghiệp quốc tế (40%)

Trích dẫn bình quân trên giảng viên (20%)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TỔNG CỘNG: 60%

- Khảo sát ý kiến đồng nghiệp quốc tế (19.5%)

- Thu từ các đề tài nghiên cứu (5.25%)

- Tỷ số bài báo trên giảng viên (4.5%)

- Tỷ lệ thu từ khu vực công dành cho nghiên cứu trên tổng thu từ nghiên cứu (0.75%)

Tổng1: 30%

- Trích dẫn bình quân trên giảng viên 32.5%

- Tỷ lệ thu từ chuyển giao công nghiệp 2.5%

Tổng2: 35%

 

TỔNG CỘNG (1+2): 65%

Chất lượng giảng dạy (Teaching Quality)

Khảo sát ý kiến nhà tuyển dụng toàn cầu (10%)

Tỷ số giảng viên trên sinh viên (20%)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

TỔNG CỘNG: 30%

- Khảo sát ý kiến đồng nghiệp quốc tế (15%)

- Tỷ số bằng tiến sĩ trên tổng giảng viên (6%)

- Tỷ số sinh viên tuyển mới  trên giảng viên (4.5%)

- Bình quân thu nhập giảng viên (2.25%)

- Tỷ số bằng tiến sĩ trên bằng cử nhân được cấp  (2.25%)

 

TỔNG CỘNG: 30%

Mức độ quốc tế hóa

(Internationalisation)

- Tỷ lệ sinh viên quốc tế (5%)

- Tỷ lệ giảng viên quốc tế (5%)

 

TỔNG CỘNG: 10%

- Tỷ lệ giảng viên quốc tế (3%)

- Tỷ lệ sinh viên quốc tế (2%)

TỔNG CỘNG: 5%

Tổng                                                                                 100%                                        100%            

So sánh hai bảng xếp hạng của QS World và THE, ta thấy THE cố gắng giảm bớt tính chủ quan của việc lấy ý kiến khảo sát vốn có trọng số rất cao trong bảng xếp hạng QS bằng các chỉ báo định lượng khác khách quan hơn, và thiên về các chỉ báo về thành tích khoa học, theo cách làm của ARWU. Số lượng chỉ báo trong mỗi tiêu chí trong THE cũng nhiều hơn so với QS, không ngoài mục đích làm cho việc xếp hạng khách quan, có giá trị và công bằng hơn. Vì vậy, THE cũng có vẻ phù hợp hơn với các trường đại học thiên về nghiên cứu thuộc các nước phát triển, đặc biệt là khu vực nói tiếng Anh.

Hệ thống xếp hạng nào cho Việt Nam?

Năm hệ thống xếp hạng đại học quốc tế phổ biến vừa được giới thiệu trong bài viết cho thấy tính hai mặt của việc xếp hạng quốc tế, đó là (1) không có hệ thống nào hoàn toàn phù hợp với tất cả mọi trường đại học vì chúng rất đa dạng về sứ mạng và điều kiện hoạt động; đó là lý do tại sao cần có nhiều bảng xếp hạng khác nhau; (2) dù có những khiếm khuyết và bất cập, các hệ thống xếp hạng vẫn ít nhiều có ích vì chúng cung cấp những thông tin khá hữu ích cho các bên có liên quan – người học và gia đình, nhà tuyển dụng, các nhà chính sách, và toàn xã hội.

Riêng đối với Việt Nam, sự quan tâm đến các bảng xếp hạng quốc tế là cần thiết để có thể xác định được vị trí của giáo dục đại học Việt Nam so với thế giới. Tuy nhiên, để sự so sánh này thực sự có ý nghĩa, chúng ta cần hiểu rõ về các tiêu chí và phương pháp xếp hạng của từng hệ thống. Sự hiểu biết này cho phép ta lựa chọn một bảng xếp hạng phù hợp để giúp ta biết vị trí của mình, đồng thời ta xác định được những đối tác quốc tế có điều kiện tương tự với Việt Nam nhưng có được vị trí tốt hơn để có thể học hỏi và cải thiện.

Trong thời điểm từ nay đến 2020, rõ ràng chúng ta chưa thể nhắm đến những vị trí trong top 200 thế giới khi đa số những điều kiện cần thiết để có thể tham gia xếp hạng chúng ta vẫn còn chưa có. Theo chúng tôi, bảng xếp hạng thực sự khả thi và hữu ích đối với Việt Nam là QS Asia, một bảng xếp hạng mà một số trường thuộc các nước Đông Nam Á có điều kiện tương tự như Việt Nam cũng đã chiếm được nhiều vị  trí trong khoảng top 500. Chúng ta cần học hỏi cách làm của những trường này và đầu tư vào việc cải thiện chính mình để cũng có thể lọt được vào danh sách top 500 đại học hàng đầu Châu Á.

Vì chỉ khi nào các trường của Việt Nam dành được những vị trí trong top 500 đại học hàng đầu Châu Á, thì mới có thể nghĩ đến việc tiếp tục tham gia những bảng xếp hạng khác có đòi hỏi khắt khe hơn.
Theo tiasang.com.vn

--------------------

Tài liệu tham khảo

  1. http://china.globaltimes.cn/society/2011-02/623719.html.
  2. “College and university rankings”; http://en.wikipedia.org/wiki/College_and_university_rankings.
  3. “Methodology of ARWU 2020”; http://www.arwu.org/ARWUMethodology2010.jsp.
  4. “Understanding QS World rankings”.  http://www.topuniversities.com/world-university-rankings/understanding-qs-world-university-rankings%C2%AE-methodology.
  5. “Methodology”; http://www.webometrics.info/methodology.html.
  6. Comparing QS Asian University Rankings with QS World University Rankings”; http://www.qsworldclass.com/showcase/specialfeature4.php.
  7. “Robust, transparent and sophisticated”, http://www.timeshighereducation.co.uk/world-university-rankings/2010-2011/analysis-methodology.html.
Cập nhật ( 23/10/2014 )
 
Tin mới đưa:
Tin đã đưa:

“ Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả cũng là hỏng việc.

Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc.

Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”.

 
Trí thức trẻ là người tốt nghiệp đại học, tuổi từ 39 trở xuống. Do thu nhập sau ra trường hạn hẹp, thị trường nhà ở giá rẻ khan hiếm, nên điều kiện về an cư để lạc nghiệp còn khó khăn. Các bạn trí thức trẻ ước muốn gì về nơi ở của riêng mình (không phải do thừa kế, đi thuê):
 
 
 
Trong thời đại CMCN 4.0, Chuyển đổi số không còn là điều tốt đẹp nên có, mà là điều bắt buộc đối với tất cả tổ chức và doanh nghiệp, gắn với Chính quyền số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh đô thị hóa, ngành XD có vai trò tiên phong trong Chuyển đổi số đế nâng cao năng lực cạnh tranh. Người ta còn cho rằng "QH đô thị là bệ phóng cho Chuyển đổi số". Lãnh đạo, người lao động trong doanh nghiệp XD phải chấp nhận và thích ứng dần với quá trình Chuyển đổi số. Các bạn SV, cựu SV trong lĩnh vực XD - Công dân kỹ thuật số trong tương lai, nghĩ gì về nhu cầu đào tạo nâng cao năng lực Chuyển đổi số trong cơ sở đào tạo ĐH:
 
 
Thông báo

   Liên kết website
 
  • Sơ đồ trang 
  • Bản quyền thuộc Bộ môn Kiến trúc Công nghệ - Khoa Kiến trúc Quy hoạch - Trường Đại học Xây dựng
    Địa chỉ liên hệ: Phòng 404 nhà A1 - Số 55 đường Giải Phóng - TP Hà Nội
    Điện thoại: (04) 3869 7045     Email: bmktcn@gmail.com
    Chủ biên: TS. Phạm Đình Tuyển - Phụ trách: TS. Nguyễn Cao Lãnh & cộng sự
    Powered by vnDIC.com